BERNARD
HARING, C.SS.R.
------------------------------
GIÁO HỘI
CẦN
LOẠI
LINH MỤC NÀO ?
------------------------------
<OJ>
-2001-
Lm.
Lê Công Đức
Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD
IMPERILED,
A
Critical Examination Of The Ministry
In
The Catholic Church
Của:
BERNARD HARING, C.SS.R.
Do
nhà: TRIUMPHTM
BOOKS,
Liguori,
Missouri xuất bản
11. NÀY TÔI LÀ
NỮ T̀ CỦA ĐỨC CHÚA!
Tôi
kết thúc quyển sách này bằng cách qui hướng
tất cả sự chú ư của ḿnh về Đức
Maria – đây hoàn toàn không phải chỉ là
chuyện cảm tính hay chuyện điểm tô
cho có màu mè đạo đức. Một cách
độc đáo, Đức Maria đứng bên
cạnh Đức Kitô, Người Tôi Tớ Giavê.
Đáp lại lời Thiên Chúa đề nghị,
Maria đă thưa: “Này tôi đây, là nữ t́
của Đức Chúa” (Lc 1,38). Lời ấy
không cho thấy rằng Maria (mà Giáo Hội
gọi là “Đức Trinh Nữ”) đă
nhận hiểu sâu sắc về vai tṛ hiện
diện của ḿnh bên cạnh Đức Giêsu
trong ánh sáng của bốn Bài Ca Người Tôi
Tớ đó sao?
Maria: Nữ T́
của Thiên Chúa và mẫu gương của con
người linh mục
Cùng
với Giu-se, phải chăng chúng ta không thể
giả định rằng Maria đă rót vào ḷng
con trẻ chính những Bài Ca Người Tôi
Tớ trong truyền thống Do Thái của ḿnh –
những Bài Ca đă nuôi dưỡng đức
tin của Maria một cách sâu sắc? Niềm hy
vọng nơi Maria hoàn toàn tương phản
với niềm hy vọng của các thượng
tế Do Thái, những người bắt hụt
sứ điệp đích thực của Thánh Kinh
và đă ngưỡng vọng một Mêsia
quyền uy vung gươm lấp lóa. Đức
tin của Maria là đức tin của những người
anawim, những con người bé nhỏ
thấp hèn trong It-ra-en. Với niềm hy vọng
không lay chuyển, họ không ngừng cầu xin
Người Tôi Tớ khiêm nhường và phi
bạo lực đến giải phóng họ.
Niềm hy vọng thẳm sâu ấy âm vang trong
họ qua những lời đầy cảm kích
của Ngôn Sứ Isaia Đệ Nhị. Maria là
Nữ T́ được đặc tuyển cho con
trai ḿnh, Đức Giêsu, Đấng là hiện thân
trọn vẹn niềm hy vọng của những
người anawim.
Maria,
trong tư cách là Nữ T́ khiêm tốn của Giavê
(như ngài tự mô tả chính ḿnh trong
khoảnh khắc quyết định), là con người
đi vào sâu thẳm nhất trong mầu nhiệm
và trong sứ mạng của Đức Kitô -
một mầu nhiệm được vén mở
ngay từ đầu trong biến cố phép
rửa của Ngài ở sông Gio-đan, được
mang tới chỗ hoàn tất trong phép rửa
bằng máu của Ngài trên Thập Giá, và
cuối cùng được đóng ấn bằng
cuộc Phục Sinh.
Có
lẽ ở đây cần phải nhắc qua giáo
thuyết truyền thống vốn quả
quyết rằng nghi thức truyền chức linh
mục in một dấu ấn không thể xóa
được trong linh hồn của người
linh mục – một giáo thuyết (mà tôi nói thêm
rằng) không hề liên quan ǵ với những
quan niệm pháp thuật và cũng không được
hiểu theo nghĩa đen. Từ quan điểm
của Maria, chúng ta có thể thực sự nói
rằng Maria là h́nh ảnh phản chiếu cách
hiện lộ của con ḿnh, được đóng
dấu và niêm ấn bởi ơn gọi trở
thành người Nữ T́ của Chúa. Chính
bởi quyền năng Chúa Thánh Thần mà Maria
được “rửa” và được thánh
hiến để phục vụ cho “Người
Tôi Tớ Vô Song Của Đức Chúa”, trong tư
cách là người nữ t́ đau khổ và phi
bạo lực để tôn vinh Thiên Chúa, để
phục vụ cho ơn cứu độ của loài
người và của mọi tạo vật. Như
vậy, chúng ta có thể kết luận rằng
Maria là một người tham dự chính yếu
vào cuộc chiến thắng cánh chung đập
tan tinh thần cao ngạo và bạo lực.
Nếu cách giải thích của tôi về đặc
tính không thể xóa nḥa của chức linh
mục – như cũng được mạc
khải trong vai tṛ của Đức Maria - là
đúng, th́ tôi hy vọng rằng cách giải thích
này có thể trở nên một động
lực mạnh mẽ và một viễn tượng
thiết yếu cho đời sống linh mục,
một cách hoàn toàn cụ thể.
Vai tṛ
của Đức Maria trong đời sống Giáo
Hội được kết tinh nơi sự
hiện diện trung kiên của ngài với Đức
Kitô trong cuộc khổ nạn và cái chết
Thập Giá. Chúng ta ca ngợi Đức Maria
bởi v́ Thiên Chúa “đă nh́n đến
phận hèn nữ t́ của Chúa / ... Thiên Chúa
đă xô người quyền thế xuống
khỏi ngai vàng / và nâng lên những người
bé mọn” (Lc 1, 48-52). Bài kinh Magnificat, lời
cầu nguyện bất hủ của những người
anawim, không chỉ là một lời tiên tri
tuyệt vời được thốt lên từ
môi miệng Đức Maria. Đúng hơn, chính
Maria là Bài Kinh Magnificat nhập thể. Cả
cuộc sống ḿnh, Maria hiện diện với
Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê, trong
tất cả những khoảnh khắc ư nghĩa
nhất của cuộc sống Người Tôi
Tớ này.
Ở
đây, tưởng nên quay trở lại với
các tiêu chuẩn mà Phê-rô đưa ra để
tuyển chọn một tông đồ: Đó là
một người “đă đi với chúng
ta suốt quăng thời gian mà Chúa Giêsu hiện
diện với chúng ta, bắt đầu từ phép
rửa của ông Gioan, cho đến khi Ngài
được đưa lên khỏi chúng ta ....
để người ấy cùng với chúng ta làm
chứng cho sự Phục Sinh của Chúa” (Cv
1,21-22). Hơn tất cả các tông đồ
của thuở ấy và hơn tất cả các
Kitôhữu nhiệt thành trong mọi thời đại,
Maria hoàn toàn đáp ứng những tiêu chuẩn
về sự hiện diện của người tông
đồ - qua việc sinh hạ Đức Giêsu
trong khó nghèo, dâng Đức Giêsu trong Đền
Thờ, chia sẻ với Đức Giêsu cuộc
trốn thoát sang Ai cập, nuôi dạy Đức
Giêsu cho đến tuổi trưởng thành, và
cuối cùng đứng bên Thập Giá Đức
Giêsu cùng với Gioan, người tông đồ
duy nhất khác hiện diện. Đức Giêsu
đă trao phó hai người cho nhau.
Tại
sao Thánh Kinh không nói ǵ về những cuộc
hiện ra của Đức Kitô Phục Sinh
với Maria, Mẹ Ngài? Tôi cho rằng sự
giải thích sau đây có thể thuyết
phục: Tất cả các tŕnh thuật Tin
Mừng về những cuộc hiện ra của
Chúa Phục Sinh đều tập chú chủ
yếu đến viễn tượng giúp cho các
môn đệ Đức Giêsu dần dần vượt
qua nỗi thất vọng và nghi ngờ. Maria,
đàng khác, đă được đặc ân
đi vào trực tiếp trong đức tin đối
với cuộc Phục Sinh vinh quang của Đức
Giêsu – trên cơ sở mối hiệp thông độc
đáo trong tinh thần của Maria với Người
Tôi Tớ Giavê.
Trong văn
kiện Marialis Cultus nổi tiếng của ḿnh,
chính Giáo Hoàng Phao-lô VI đă hướng Thánh
Mẫu học và ḷng tôn sùng Đức Maria theo
chiều nhận thức Thánh Kinh như trên. Bài
kinh Magnificat là một trong những lời cầu
nguyện vô song của một thần học
giải phóng đích thực. Nếu chúng ta,
những linh mục, nhận biết và yêu mến
Đức Maria, Nữ Vương các ngôn sứ và
các tông đồ, Đấng đứng gần
sát nhất với Người Tôi Tớ Giavê, th́
chắc chắn chúng ta sẽ nhảy được
một bước dài trong việc nhận
thức và sống tốt hơn ơn gọi
của ḿnh. <OJ>
Lời Nguyện
Đúc Kết
Lạy
Chúa Giêsu Kitô,
Năm
mươi sáu năm qua,
Chúa
đă cho phép con làm sứ vụ của ḿnh
với
hàng ngàn anh em trong chức linh mục,
bằng
việc giảng dạy, tư vấn, khích lệ,
và an ủi họ.
Cùng
với nhau, chúng con đă học
và
- con hy vọng rằng - sẽ c̣n
tiếp tục học để biết khiêm nhường
và
can đảm theo Chúa, Người Tôi Tớ Đau
Khổ của Giavê,
để
biết kính trọng và phục vụ mọi thành
viên đoàn dân tư tế của Chúa trên
thế giới này.
Xin
hăy đổ đầy trong chúng con đức
tin,
niềm
vui, hy vọng và t́nh yêu nồng cháy!
Xin
hăy đào sâu trong chúng con
khả
năng nhận biết Chúa mỗi ngày một hơn
- Chúa là Người Tôi Tớ phi bạo lực,
là
Con Đường Ḥa B́nh, là
Đấng An Ủi của những ai sầu
muộn và thất vọng!
Bằng
sức mạnh của Thánh Thần,
xin
hăy giúp chúng con nhận hiểu hơn và
thăng tiến hơn nữa các đại
lộ ḥa b́nh.
Xin
giúp mỗi người trong chúng con
quyết
tâm trở thành - trước hết - những
đầy tớ trung tín của Lời Chúa,
những
thừa tác viên vui tươi và khiêm tốn
để
phục vụ tất cả mọi người mà
Chúa ủy thác cho chúng con.
Xin
Chúa chúc lành cho giáo hoàng và các giám mục
của chúng con,
cho
tất cả những ai đang nắm quyền bính
trong Giáo Hội,
để
các vị sống tốt hơn và thúc đẩy
một cách sáng tạo hơn
sự
hiệp nhất trong khác biệt.
Xin
ban nghị lực cho tất cả chúng con, để
chúng con có thể trở thành
những
chứng nhân đích thực và thánh thiện cho
Chân Lư của Chúa,
và
trở thành những khí cụ hữu hiệu
trong
công cuộc thăng tiến sự hiệp
nhất các Kitôhữu,
thăng
tiến mối liên đới giữa mọi người
- v́ ơn cứu độ của toàn thế
giới. Amen.
Hậu chú
Bản
văn của sách này đă được
viết trước khi Vatican tuyên bố rằng việc
không chấp nhận phụ nữ vào chức linh
mục thừa tác phải được coi như
một chân lư bất khả ngộ. Tôi nghĩ
rằng cho tới nay, bạn đọc cũng
đă nhận ra vấn đề không hẳn như
vậy. Những phản ứng trên khắp
thế giới, nội trong phạm vi Kitô giáo, có
thể cho thấy rơ điều này.
Sự phê
phán rộng răi đối với việc sử
dụng phạm trù “bất khả ngộ”
tựu trung dựa vào hai lư do sau đây:
1. Cách
thức công bố “bất khả ngộ” trong
vụ này không đáp ứng những điều
kiện bắt buộc cho một giáo thuyết
bất khả ngộ của giáo hoàng, như
đă được ấn định bởi Công
Đồng Vatican I (Pastor aeternus), nghĩa là,
mọi tuyên bố bất khả ngộ phải
được chuẩn bị trước
bằng một cuộc thẩm tra niềm xác tín
của mọi tín hữu, và khi thẩm tra như
vậy, “mọi phương tiện mà Chúa Quan
Pḥng ban cho phải được vận dụng.”
Hơn nữa, sự tuyên bố bất khả
ngộ phải được chứng minh là
đặt nền trên Thánh Kinh và trên truyền
thống cổ sơ nhất của Giáo Hội.
2.
Phần đông các nhà thần học và nhất
là các học giả Thánh Kinh đều đồng
ư rằng trong Thánh Kinh không thể t́m thấy
chứng cứ thuyết phục nào cho việc tích
cực ngăn chặn phụ nữ khỏi
chức linh mục. Chứng cứ rằng Đức
Giêsu “đă không truyền chức cho phụ
nữ” là một chứng cứ ngớ ngẩn,
v́ Thánh Kinh cũng đâu có nói ǵ về việc
“truyền chức” cho nam giới. Đức Giêsu
thiết lập Bí Tích Thánh Thể, ủy trao cho
toàn thể các tín hữu như một quà
tặng tối thượng, một mệnh
lệnh và một di chúc: “Hết thảy các
con hăy làm việc này để tưởng
nhớ Thầy!” Cũng rất cần ghi
nhận rằng Đức Giêsu đă chọn các
phụ nữ để làm chứng nhân và sứ
giả loan báo về cuộc Phục Sinh của Người.
Trong
bản văn quyển sách của tôi, tôi đă
tránh không ủng hộ hay phản đối
việc truyền chức linh mục cho phụ
nữ. Tôi muốn để độc giả
tự rút ra kết luận dựa vào các dữ
kiện của Thánh Kinh và từ “các dấu
chỉ của thời đại”. Tuy nhiên, tôi
muốn nhắc độc giả rằng Giáo Hoàng
Gioan XXIII không chỉ khẩn thiết kêu gọi
chúng ta ư thức các dấu chỉ của
thời đại mà ngài c̣n vạch rơ rằng
vai tṛ ngày càng quan trọng của phụ nữ
trong xă hội, trong văn hóa, và trong Giáo Hội
là một trong những dấu chỉ nổi
bật nhất của thời đại chúng ta.
Tôi nghĩ
rằng chúng ta nên thảo luận một cách
tử tế và nhă nhặn về vấn đề
nóng bỏng này, với những luận cứ có
cơ sở đàng hoàng, và với khiếu hài hước
nữa.
BERNARD HARING
ĐÔI D̉NG VỀ TÁC
GIẢ
Cha Bernard Haring, linh mục Ḍng Chúa
Cứu Thế, là một nhà thần học luân lư
lừng danh và là tác giả của hơn tám mươi
quyển sách. Luật Của Đức Kitô (The
Law of Christ) (1954), một bộ sách nhiều
tập, và Tự Do Và Trung Thành Trong Đức
Kito (Free and Faithful in Christ) (1978,1980) là hai trong
số những tác phẩm chính yếu nhất
của ngài.
Ngài sinh ngày
10-11-1912, là con áp út trong 12 người con của
một gia đ́nh người Đức mộ
đạo. Cuộc đời đầy biến
cố của Cha Haring đă đi qua các giai đoạn
khốc liệt của lịch sử. Tuổi
ấu thời, ngài chứng kiến những tàn
phá của Chiến Tranh Thế Giới Thứ
Nhất. Rồi sau đó, những năm tháng trưởng
thành của ngài trùng với sự xuất
hiện của Hitler và Chủ Nghĩa Quốc xă.
Là một linh
mục trẻ, ngài bị động viên vào ngành
quân y. Ngài phục vụ cho quân đội và cho
thường dân ở Pháp, Ba lan và Nga - cả
trong tư cách là lính cứu thương lẫn
trong tư cách một linh mục. Trong cuộc rút
quân của quân đội Đức khỏi
Stalingrad, Cha Haring đă thuyết phục các đồng
đội ngài buông vũ khí và theo ngài để
bảo toàn sinh mạng; ngài được
cứu khỏi một trại tù binh ở Nga –
nhờ sự giúp đỡ của cả một
giáo xứ Ba lan.
Sau chiến
tranh, Cha Haring trở về Đức, ở đó,
ngài hoàn thành học tŕnh tiến sĩ vào năm
1947, và trở thành một giáo sư thần
học luân lư ở Gars am Inn. Trong thời gian này,
ngài cũng phục vụ cho những người
dân Âu Châu tị nạn trong tư cách là một
mục tử lưu động.
Sau đó Cha
Haring được bổ nhiệm giảng
dạy thần học luân lư tại Rôma và tham
gia vào công việc chuẩn bị Công Đồng
Vatican II – ngài cũng tham gia cả trong tiến tŕnh
chính thức của Công Đồng nữa.
Vào thập niên
1970 và đầu thập niên 1980, Cha Haring phải
đương đầu với không chỉ
một cuộc điều tra đầy phiền
phức về các tác phẩm của ngài – do Thánh
Bộ Giáo Lư Đức Tin tiến hành – mà ngài
c̣n phải vật lộn dằng dai và sống
dở chết dở với căn bệnh ung thư
cuống họng. Do chứng bệnh này, ngài
mất tiếng nói và phải bập bẹ
tập nói lại.
Cha Haring qua
đời ngày 3 tháng 7 năm 1998.
|