BERNARD
HARING, C.SS.R.
------------------------------
GIÁO HỘI
CẦN
LOẠI
LINH MỤC NÀO ?
------------------------------
<OJ>
-2001-
Lm.
Lê Công Đức
Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD
IMPERILED,
A
Critical Examination Of The Ministry
In
The Catholic Church
Của:
BERNARD HARING, C.SS.R.
Do
nhà: TRIUMPHTM
BOOKS,
Liguori,
Missouri xuất bản
LỜI
TỰA
Cả
đời linh mục của ḿnh, tôi đă suy tư,
giảng dạy và viết về câu hỏi: Giáo
Hội cần đến loại luân lư và
loại thần học luân lư nào? Quan điểm
của tôi về vấn đề luân lư đă
luôn luôn nhận ảnh hưởng từ – và
luôn luôn được hiểu trong – bối
cảnh rộng lớn hơn của một câu
hỏi căn bản khác: Thế giới của
chúng ta hiện tại và tương lai cần
đến loại Giáo Hội nào? Gắn không
rời hai câu hỏi nền tảng ấy là
một câu hỏi thứ ba: Giáo Hội và thế
giới của chúng ta cần đến loại
sứ vụ nào?
Bởi
v́ tôi đă làm linh mục một cách vui vẻ và
tận t́nh trong 56
năm qua và bởi v́ trong phần lớn thời
gian ấy, tôi đă đảm nhận công
việc giảng dạy cho các linh mục và các
chủng sinh, nên tôi được thúc đẩy
– như một bổn phận – phải suy tư
về loại linh mục mà tôi tin rằng Đức
Giêsu đă mường tượng cho Giáo
Hội trong sứ mạng thể hiện và loan báo
sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa
trong thế giới chúng ta.
Trong
thực tế và một cách cốt yếu, tôi
đă phải đương đầu và
trải qua những thay đổi rất quan
trọng trong việc đào tạo linh mục qua
ngần ấy tháng năm – đồng thời tôi
cũng đă giúp bao người khác
đương đầu và trải qua như
vậy. Trong tiến tŕnh đó, tôi không thể
không suy nghĩ lại h́nh ảnh của chức
linh mục cho thời đại chúng ta. V́
thế, khi tuổi đời ḿnh đă xế
chiều, có lẽ là thích hợp việc tôi
cố gắng – qua tập sách nhỏ này –
đưa ra lời chứng và chia sẻ kinh
nghiệm của ḿnh cho các anh em linh mục hôm nay
và tương lai, cũng như cho tất cả các
Kitôhữu là những người thi hành sứ
vụ của ḿnh trong Giáo Hội và trong thế
giới.
Hơn
nữa, tôi vuốt ve hy vọng rằng các Kitôhữu
trưởng thành dấn thân trong sứ mạng và
trong các sứ vụ của Giáo Hội - và
tất cả những ai quan tâm sâu sắc đến
chức linh mục - cũng sẽ đọc
tập sách này. Tôi nói lên điều đó v́
hai lư do. Thứ nhất, tập sách này sẽ
tập chú vào ơn gọi linh mục chủ
yếu từ nhăn quan ơn gọi căn bản
của mọi Kitôhữu đă lănh nhận Phép
Rửa. Thứ hai, người linh mục không
thể thực sự nhận hiểu ơn
gọi chuyên biệt của ḿnh nếu không có
một nhận thức đúng mức và một ḷng
kính trọng sâu sắc đối với ơn
gọi vừa cao cả vừa đầy thách
đố của mọi Kitôhữu; cũng
vậy, một điều rơ ràng không kém là
tất cả các Kitôhữu dấn thân đích
thực cần phải nhận hiểu sâu hơn,
toàn triệt hơn về ư nghĩa của sứ
vụ – để họ có thể sống
triệt để và trân trọng đúng mức
ơn gọi vừa phổ quát vừa độc
đáo của họ.
Thần
học luân lư thiết yếu phải suy tư
về tất cả các nguồn thần học chính
yếu, th́ cũng vậy, quả là thiết
thực việc chúng ta suy tư về chức linh
mục Kitô giáo với cùng một cách thế tương
tự. Tất nhiên, công việc suy tư này
sẽ tùy thuộc vào một nhăn quan về nhân
loại học, về những h́nh ảnh của
Thiên Chúa và con người tương hợp cho
thời đại chúng ta, về bản chất và
sứ mạng của Giáo Hội... Đành
rằng các suy tư thần học và cuộc hành
tŕnh không ngừng kiếm t́m sự thật
của tôi có hàm chứa các kinh nghiệm bản
thân mà tôi đă sống trong các bối cảnh
khác nhau qua ngần ấy tháng năm, th́ kỳ
thực chúng vẫn được khơi lên
bởi - và được cắm rễ trong -
điều mà tôi cho là một khởi điểm
tất yếu, đó là nhăn quan của Đức
Giêsu như chúng ta khám phá thấy trong Thánh Kinh và
trong truyền thống sống động của
chúng ta, một truyền thống vừa lâu dài
vừa phức tạp. Hai nguồn tri thức và
khôn ngoan ấy phục vụ như một xúc tác
giúp chúng ta biện phân: 1/ Thiên Chúa đ̣i
hỏi những ǵ đối với con người
linh mục? – và, 2/ Bằng cách nào chúng ta sẽ
nhận diện được sự đ̣i
hỏi đó cho hôm nay và tương lai?
Tôi
không phủ nhận rằng ḿnh cũng hơi
sợ và âu lo khi dám chia sẻ những hy vọng,
những cố gắng, những ước mơ
và những xác tín riêng của ḿnh với bạn.
Thế nhưng, dù lo sợ, tôi vẫn tin rằng
ḿnh có lư do chính đáng để chia sẻ.
Những giấc mơ của tôi, nếu chỉ
được một ḿnh tôi ôm ấp, sẽ
vẫn cứ là những giấc mơ suông, nhưng
nếu được chia sẻ bởi hàng
triệu con người có khả năng hiện
thực hóa chúng, th́ chúng có thể xác lập
một mức đáng kể tương lai
của đời sống và sứ vụ linh
mục. Thật vậy, các suy tư của tôi -
được chia sẻ cho người ta
thuộc nhiều ngôn ngữ và văn hóa khác nhau
- đă trở thành một phương tiện giúp
tôi tinh lọc các tư tưởng của ḿnh, cũng
như giúp tôi nhận định rơ và đo lường
những chọn lựa dấn thân của ḿnh.
Tiến tŕnh đó đă dẫn tôi đến
chỗ tin tưởng sâu xa hơn rằng Giáo
Hội và thế giới của chúng ta đang
khẩn thiết cần biết hy vọng và
biết nh́n một cách can đảm. Nói chung, Giáo
Hội trong thế giới hôm nay cũng cần
một công luận lành mạnh, không bị bưng
bít và có sức chữa trị nữa.
Hồi
tôi bước vào đời linh mục, mối
quan hệ giữa linh mục và giáo dân có thể
được đúc kết trong những dấu
hỏi như sau: Các linh mục săn sóc dân Thiên
Chúa như thế nào? Và bằng cách nào các ngài
có thể vận động để các tín
hữu hợp tác với các ngài? Tuy nhiên, ngày
nay, mẫu thức làm việc là một mẫu
thức mang tính hỗ tương và cộng tác,
nó khơi lên một câu hỏi khác hẳn: Các
linh mục cộng tác như thế nào cả
với giám mục của ḿnh lẫn với anh
chị em giáo dân? Từ lăng kính này tôi đă
mường tượng một chức linh
mục cũng rất khác! Tôi thấy tất
cả chúng ta cùng t́m kiếm với nhau trong
một tinh thần tra vấn nhau để
nhận hiểu hơn về quyền năng và ân
sủng cứu độ của Thiên Chúa đối
với Giáo Hội và thế giới.
Cuối
cùng, xin chân thành cám ơn Joyce Gadoua, CSJ, đă tích
cực cộng tác trong việc thực hiện
bản dịch tiếng Anh của tập sách này.
BERNARD
HARING, C.SS.R.
LỜI
GIỚI THIỆU
Mới
đây, tôi t́nh cờ bắt gặp một bài
viết với cái tựa đề giựt gân:
ĐỨC GIÊSU ĐÂU CÓ CẦN CÁC LINH MỤC! Là
một linh mục cao niên, đă bỏ ra gần
cả đời ḿnh để giúp người
ta xây dựng một tinh thần an ḥa, vui tươi
và bản lĩnh, song phải thú nhận rằng
thoạt đầu tôi đă khó chịu với cái
tiêu đề ấy. Thế nhưng, khi lần
đọc qua bài viết, tôi khám phá rằng tác
giả của nó, một nhà thần học Công
Giáo, không hề có ư định chống đối
chức linh mục. Đúng hơn, bằng
những luận cứ chặt chẽ, ông thách
đố bạn đọc suy ngẫm một câu
hỏi thâm trầm hơn, đó là: “Đức
Giêsu đă thực sự có ư định ǵ khi
Ngài chọn và sai các Tông Đồ và các môn
đệ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi
người?”
Được
gợi hứng từ bài viết đó, tôi đă
đặt cho một số người Công Giáo tích
cực câu hỏi rằng Đức Giêsu thực
sự muốn hay không muốn chức linh mục.
Họ trả lời câu hỏi của tôi
bằng cách đặt ra câu hỏi của chính
họ: “H́nh ảnh nào về chức linh mục,
theo cha, phù hợp với ư định của
Đức Giêsu?” Trong khi câu hỏi của
họ ít nhất biểu lộ một cách
mặc nhiên niềm tin rằng Đức Giêsu
đă có một cái nh́n về chức linh mục,
th́ họ đẩy lại cho tôi công việc phác
họa cái nh́n đó.
Nhằm
yêu cầu những con người trưởng thành
ấy cùng tham gia vào cuộc suy tư này, tôi
đặt lại câu hỏi nguyên thủy của
ḿnh một cách cụ thể hơn và hỏi
họ: “Các bạn coi ai là mẫu linh mục lư
tưởng mà Đức Giêsu đă phác họa?”
Người thứ nhất trả lời: “Thưa
cha, con nghĩ đến những người như
Giám mục Jacques Gaillot, một vị tông đồ
trung thực, thẳng thắn của ḥa b́nh,
một con người hoàn toàn dấn thân
cho những kẻ bị loại ra bên lề
cuộc sống.”
Mới
đây, sau một bài nói chuyện với một
nhóm vài trăm nhà hoạt động cho ḥa b́nh,
tôi thẳng thắn tuyên bố rằng một Kitôhữu,
nhất là một linh mục, nếu không tỏa
ra tinh thần ḥa b́nh và không giúp thăng tiến
ḥa b́nh, nếu không cổ vơ cho con đường
phi bạo lực và cho một nền công lư
phổ cập, th́ Kitôhữu ấy chẳng có giá
trị ǵ. Lập tức, từ trong thính giả
có ư kiến: “Vậy phải nghĩ sao về
việc cách chức Giám mục Gaillot, vị giám
mục duy nhất ở Pháp nêu rơ lập trường
chống vũ khí hạt nhân và kiên quyết
đứng về phía những người
tội lỗi và những kẻ bị khinh thường?”
Hơi ngập ngừng, tôi nói: “Dường như
một Kitôhữu, hoàn toàn dấn thân cho tinh
thần phi bạo lực theo Tin Mừng,
đương nhiên sẽ gặp rủi ro.” Tôi
tin rằng đó là một rủi ro cùng loại
với rủi ro của các ngôn sứ thời xưa,
nhất là của Đức Giêsu, vị Ngôn
Sứ và Người Mẫu của mọi
thời đại.
Bạn
đọc thân mến, v́ thế, tôi mời
bạn cùng bước vào cuộc t́m hiểu này
để nhận hiểu sâu xa hơn về điều
Đức Giêsu nhắm đến khi Ngài kêu
gọi những kẻ tin Ngài thể hiện
sự sống Phục Sinh của Ngài và loan báo
chiến thắng cuối cùng của ḥa b́nh trong
và xuyên qua cuộc Phục Sinh ấy. Trong quá tŕnh
t́m hiểu, chúng ta sẽ tham chiếu đến
Thánh Kinh và lịch sử – bởi v́ Đức
Giêsu, Đấng đă có, đang có và sẽ
đến, dạy chúng ta trong nhăn giới của
toàn lịch sử cứu độ.
Thật
vậy, một lư do chính để khảo sát Thánh
Kinh - (ngoài công việc rất quan trọng là văn
hồi ư nghĩa nguyên thủy trong những
bối cảnh lịch sử khác nhau của nó) -
là nhằm để khám phá theo một khoa chú
giải mới những ǵ mà Tin Mừng muốn nói
hôm nay, và những nhận hiểu này có thể
ảnh hưởng như thế nào đến ư
nghĩa của sứ vụ linh mục hôm nay và
ngày mai. Như vậy, khoa chú giải này đ̣i
hỏi chúng ta phải nhận hiểu và vận
dụng các dấu chỉ của thời đại
như một phần cốt yếu của
cuộc thảo luận, nếu chúng ta muốn
biện phân đúng đắn loại chức
linh mục nào mà Đức Giêsu đă h́nh
dung. Điều này đặc biệt quan
trọng, v́ với chủ điểm “linh
mục”, chúng ta hầu như không t́m thấy ǵ
liên quan trong Kinh Thánh Kitô giáo – chính bởi v́
từ ngữ này chưa tồn tại vào
thời mà Kinh Thánh được viết ra hay
được sưu tập. Cuối cùng, điều
quan trọng không phải là chính bản thân
hạn từ chuyên biệt ấy mà đúng hơn
là hiện tượng chức linh mục, theo
một ư nghĩa chuyên biệt Kitô giáo, được
ghi nhận trong lịch sử và qui hướng
về cuộc đời và sứ vụ của
chính Đức Giêsu. <OJ>
1. KINH
NGHIỆM GÓP NHẶT TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI
TÔI
Dù
được ư thức hay không, các kinh
nghiệm sống của chúng ta sẽ ảnh hưởng
trên cách nghĩ và
cách cảm nhận của chúng ta về thực
tại. Suy tư về những kinh nghiệm –
cả tích cực lẫn tiêu cực - có thể là
một công việc đầy bổ ích để
hiểu sâu xa hơn cách thức Thiên Chúa hiện
diện và hướng dẫn chúng ta trên hành tŕnh
đức tin của ḿnh. Mang hoài băo ấy, khi
kết thúc 56 năm linh mục của ḿnh, tôi
muốn suy tư ở đây về các kinh
nghiệm của chính tôi - cũng như về cách
mà những kinh nghiệm đó đă giúp tôi khám
phá và tiếp tục thăng tiến ơn
gọi linh mục của ḿnh.
Khám phá ơn gọi của tôi
Đầu
tiên, một điều thật chắc chắn:
Những kinh nghiệm ấu thời của tôi
với cha sở, một con người trung b́nh
về mọi tiêu chuẩn, không gợi ra nơi tôi
ư tưởng nào hay niềm khát khao nào muốn
bắt chước ngài. Tuy nhiên, vào thời
ấy, với chức thánh, vị mục tử
được đoàn chiên nh́n nhận như
một con người cao cả trỗi vượt,
một thứ ông chủ, và là một trong
những người được kính trọng
nhất trong thị xă, cha sở là con người
đưa ra phán quyết cuối cùng về
mọi sự – dù phán quyết đó đúng hay
sai.
Ngay
từ hồi c̣n bé tẻo teo, tôi đă có
một kinh nghiệm hăi hùng về con chó của
cha sở. Không biết v́ lư do ǵ, nó ghét cay ghét
đắng tôi. Không giống như các thiếu
nhi được cha sở đưa vào khuôn
khổ răm rắp trong lớp học, con chó
dữ tợn ấy được cho phép đi
lang thang tùy thích. Không may, con đường
từ nhà tôi đến trường phải
đi ngang nhà xứ! Những lúc đi một ḿnh,
tôi tự vơ trang bằng vài cục đá để
tự vệ, pḥng chống khả năng con chó có
thể tấn công bất cứ lúc nào.
Vào
một ngày như thế, con chó của cha sở
chứng tỏ thế “thượng phong”
của nó và tấn công tôi. Nó cắn đúng vào
chỗ kín của tôi. Hoảng sợ, tôi chạy
về nhà với mẹ, khóc bù lu bù loa suốt
con đường. Sau khi săn sóc vết thương
cho tôi, mẹ dẫn tôi đến nhà xứ và
xin gặp cha sở để ngài tận mắt
chứng kiến những ǵ con chó hung dữ
của ngài đă gây ra cho tôi. Người giúp
việc của ngài lạnh lùng trả lời:
“Con Ki không vô cớ tấn công ai bao giờ!”
Thế
đấy! Bạn thử tưởng tượng
đi.
Tuy
nhiên, tôi rất mừng để nói rằng khi
cha sở thấy tôi trong t́nh trạng thê thảm
như vậy, ngài tỏ vẻ cảm thông. Ngài
cố an ủi tôi, rồi trao cho mẹ tôi
một món tiền để mua cho tôi một cái
quần mới. Nhiều năm sau, khi giảng tĩnh
tâm cho các linh mục, tôi đă chia sẻ một
bài suy niệm với đề tài “Con Chó
Của Cha Sở” - dựa vào câu chuyện
thời thơ ấu ấy của ḿnh.
Họa
vô đơn chí, đó không phải là kinh
nghiệm cuối cùng của tôi với con chó kia.
Vào giai đoạn đói kém ở Đức
thời hậu chiến, tôi là một linh mục
trẻ, phờ phạc dấu vết chiến
tranh, trở về vùng quê ấy để giúp Mùa
Chay. Vừa nhác trông thấy con chó ác ôn ngày trước
- bấy giờ đă to mập hơn và hỗn láo
hơn! - tôi cảm thấy sôi sục trong ḷng. Dù
tôi không tỏ ra một dấu hiệu ǵ ác
cảm với nó, con chó vẫn gầm gừ khiêu
khích. Rồi sau đó – vào khoảng nửa
đêm, khi tôi giải tội về muộn - nó
đă ra tay! Số là, trong bóng đêm tối
mịt, tôi đứng đợi ở cửa nhà
xứ, phía gần với khu vườn chỗ
con chó hay đi qua và sủa la inh ỏi; tôi hy
vọng sẽ có ai đó nghe tiếng nó và can
thiệp. V́ chẳng ai chú ư, tôi đánh liều
mở cửa và lập tức bị con chó độp
một phát vào cổ. Hoảng hồn, tôi kêu thét
lên. Nhưng một lần nữa, tôi hết
sức ngạc nhiên và không thể tin vào tai ḿnh
khi nghe có tiếng nói vọng ra: “Con Ki không bao
giờ vô cớ bắt nạt ai.” Sau này, có
nhiều dịp lui tới rất nhiều nhà
xứ, tôi ghi nhận rằng ḿnh đă gặp
rất nhiều con chó thân thiện, phản
ảnh đúng những cha sở thân thiện -
giống như con Ki phản ảnh rất đúng
chủ của ḿnh.
Kinh
nghiệm thực tế đầu tiên của tôi
với cha sở quê ḿnh – xét trong tư cách là
thầy dạy - đă xảy ra khi tôi tham dự
lớp giáo lư của ngài. Là một con người
rất nghiêm khắc, ngài thường giận
dữ đến độ bất nhẫn, sử
dụng đ̣n roi để kiểm soát và
quản lư đám học sinh – không khác mấy
với nhiều nhà giáo thời ấy. Đó là
một trong những lư do khiến tôi không bao
giờ gần gũi ngài, cũng không nhận
được ấn tượng ǵ từ cung cách
ngài giảng dạy đức tin Công Giáo.
Năm
lên chín tuổi, tôi và các bạn cùng lớp
được giúp sửa soạn rước
lễ lần đầu, và biến cố này
trở thành một kinh nghiệm không vui ǵ đối
với tôi. Để đảm bảo rằng
bọn nhóc sẽ xưng tội cách trọn
vẹn, cha sở kể câu chuyện kinh khủng
sau đây – câu chuyện làm tôi sợ điếng
người:
Thầy
tu già nọ qua đời một cách rất thánh
thiện. Sau bài kinh “Requiem”, vị tu viện trưởng
bắt đầu bài điếu văn ca ngợi
người quá cố. Bỗng dưng, có một
tiếng thét lớn từ trong quan tài:
-“Ngừng!
Ngừng! Xin hăy ngừng những lời nói vô nghĩa
ấy! Tôi đang ở trong hỏa ngục.”
-“Ủa,
sao lạ kỳ thế?”, tu viện trưởng
hỏi.
Người
chết trả lời: “Dạ, lúc con xưng
tội lần đầu, v́ xấu hổ, con
đă giấu đi một tội!”
Quá
run sợ, tôi đă lấy giấy bút, ghi ra
một bảng liệt kê dài ngoằng các tội
– tội thực và tội tưởng tượng
– và bắt đầu xưng thú với hy
vọng ‘vuốt giận’ được Thiên
Chúa, vị Thiên Chúa mà tôi h́nh dung là rất
khắc nghiệt và sẵn sàng tống cổ tôi
xuống hỏa ngục bất cứ lúc nào.
Niềm háo hức trước đó của tôi
đối với bí tích này chợt tắt ngúm
... cho tới khi một cha giải tội khôn ngoan
của một tu viện gần đó đă
cứu tôi.
Đối
lập lại với kinh nghiệm nói trên, tôi có
những kư ức dễ thương về người
mẹ rất khôn ngoan của ḿnh. Mỗi buổi
tối mùa đông, mẹ đọc cho tôi nghe
những đoạn Tân Ước đầy
cảm kích, những câu chuyện về cuộc
đời các thánh, và nhất là những mẩu
chuyện về các nhà truyền giáo được
viết phù hợp với lứa tuổi thiếu
nhi. Thật vậy, bố mẹ tôi đặc
biệt quan tâm đến những tin tức
về hoạt động truyền giáo ở
nước ngoài. T́nh yêu và ḷng quan tâm
của bố mẹ đối với công
cuộc truyền giáo là hạt giống nuôi dưỡng
nơi tuổi trẻ của tôi một khát
vọng trở thành nhà thừa sai rao giảng Tin
Mừng tại Phi Châu hay Á Châu. Đó là niềm
cảm hứng pha trộn giữa chất lăng
mạn của tuổi trẻ và một nhận
thức nghiêm túc về ư nghĩa của việc
rao giảng Tin Mừng.
Khi
tôi lên mười tuổi, việc chuẩn
bị rước lễ lần đầu đă
được cha sở làm một cách khá hơn.
Sau mẹ tôi, chính chị Constantine là người
đă giúp tôi nhiều nhất. Mẹ tôi ủy
thác tôi cho sự ân cần hướng dẫn
của chị Constantine – và vào hôm Rước
Lễ lần đầu, tôi cảm thấy
rất tự tin để nói với chị: “Em
muốn trở thành một vị thánh.” Không chút
tham vọng nào, nhưng vốn có tấm ḷng và
sự khôn ngoan của một giảng viên giáo lư
đích thực, chị tôi đă trả lời
một cách đơn sơ: “Nên lắm chứ!”
Theo cách nghĩ của tôi, tôi thấy chị
Constantine vượt xa cha sở nhiều năm ánh
sáng về việc rao giảng cho tôi Tin Mừng
ơn cứu độ. Và rơ ràng, chị đă bước
đi trên con đường của Đức Kitô;
rồi ở tuổi 51, chị qua đời
một cách thánh thiện trong tư cách là một
nữ tu Phan Sinh.
Gần
12 tuổi, có lần trong một khoảnh khắc
lắng đọng, tôi sà lại chỗ mẹ tôi
và hỏi: “Mẹ ơi, mẹ nghĩ ǵ nếu
con trở thành một nhà truyền giáo – dù con
biết ḿnh phải cố gắng rất
nhiều để đạt được điều
đó?” Âu yếm nh́n tôi, mẹ khích lệ:
“Bernard con, không có vị thánh nào từ trên
trời rơi xuống cả. Điều mà
những người khác làm được th́
– với sự trợ giúp của ơn Chúa - con
cũng sẽ làm được.” Kể từ
giây phút đó, tôi quyết tâm hiện thực hóa
giấc mơ thừa sai của ḿnh. Tuy
vậy, ở lứa tuổi đó, ư niệm làm
‘linh mục ‘ c̣n quá xa vời đối
với tôi. H́nh ảnh linh mục bằng xương
bằng thịt của cha sở địa phương
đă không hấp dẫn tôi chút nào, nhưng ư
niệm về một nhà thừa sai rao giảng
Tin Mừng th́ ngập tràn trong đầu óc non
trẻ của tôi, với bao h́nh dung tuyệt
vời. Đằng sau niềm hy vọng ấy,
dấu hỏi căn bản vẫn c̣n nguyên đó
với tôi: “Trở thành một vị thánh!
Tại sao không?”
Ít lâu
sau, niềm hy vọng truyền giáo của tôi
được củng cố mănh liệt bởi
các cha Ḍng Chúa Cứu Thế khi các ngài đến
giảng tuần đại phúc tại giáo xứ.
Tôi có ấn tượng đặc biệt
với Cha Leonard Eckl, người về sau đă
trở thành một nhà truyền giáo và được
bầu làm Bề Trên Giám Tỉnh Ḍng Chúa Cứu
Thế ở Brazil. Ngài có đặc sủng đặc
biệt về việc khơi gợi và nâng đỡ
các ơn gọi trong thanh thiếu niên. Các câu
chuyện của ngài về những chuyến
đi truyền giáo trên lưng ngựa để
cử hành các bí tích và rao giảng về một
Thiên Chúa t́nh yêu tại một số vùng của
đất nước ấy đă thu hút sự
chú ư của tôi cách mănh liệt và đă
củng cố nhiệt tâm nơi tôi.
Nhiều
năm sau, khi sắp hoàn thành học tŕnh tú tài,
tôi đă manh nha nghĩ đến việc trở
thành một nhà truyền giáo Ḍng Tên. Số là, tôi
rất ngưỡng mộ nhiệt huyết
truyền giáo của các vị ấy: trở thành
mọi sự cho mọi người tại các vùng
đất A Châu. T́m hiểu chương tŕnh
huấn luyện của ḍng này, tôi được
biết rằng sau giai đoạn tập, có hai hướng
được mở ra: các sinh viên có năng
lực được khuyến khích trở thành
giáo sư, c̣n những sinh viên trung b́nh th́
được mời gọi đi truyền giáo.
Biết được điều này, niềm thích
thú của tôi đối với Ḍng Tên chợt
tan biến – v́ tôi muốn (song đă không đạt
được) sự bảo đảm rằng ḿnh
sẽ trở thành một nhà truyền giáo
chứ không phải là một giáo sư.
Bỏ
cuộc với Ḍng Tên, tôi t́m đến tham
vấn vị Bề Trên Giám Tỉnh Ḍng Chúa
Cứu Thế và dọ ư xem ngài có thể
bảo trợ cho tôi trở thành một nhà
truyền giáo hay không. Hết sức nghiêm túc, ngài
nói rằng ngài có thể cung cấp cho tôi 90
phần trăm cơ hội để tôi hiện
thực hóa giấc mơ của ḿnh. Với đầy
ḷng xác tín, tôi gia nhập và hoàn thành giai đoạn
tập của ḿnh, rồi không lâu sau đó tôi
được chỉ thị học tiếng
Bồ Đào Nha và nghiên cứu văn hóa Brazil.
Cho tới lúc được truyền chức linh
mục, tôi đă được chuẩn bị
sẵn sàng để sống cuộc đời
thừa sai và tôi hân hoan xác tín rằng đó là
con đường cụ thể để tôi
sống đời linh mục của ḿnh.
Thánh
lễ mở tay
Cùng
với John Flad – là bạn và là anh họ của
tôi - tôi thụ phong linh mục vào tháng 5, 1939. C̣n
nhớ, hồi tôi bắt đầu học
thần học, mẹ của John (cũng là vú
đỡ đầu của tôi) nói với anh ta:
“Nếu Bernard, bạn con, dám học thần
học, tại sao con không dám hở?” Ở đây
có thể nói thêm rằng tôi vốn luôn
được coi là kẻ dám liều hơn John;
chắc hẳn cũng v́ vậy mà tôi không
được kể là một anh chàng ngoan ngoăn
lắm. Điều thú vị là khá lâu trước
những cải cách của Công Đồng Vatican
II, John và tôi đă hăng hái bênh vực cho
việc canh tân phụng vụ. V́ thế, xét
rằng cả hai cùng đồng hành với nhau
trong suốt những năm chủng viện, chúng
tôi không thể h́nh dung ḿnh không được
phép dâng thánh lễ mở tay đồng tế
với nhau. Tuy nhiên, không phải là những
kẻ phản loạn, chúng tôi chỉ phê phán các
qui định đó một cách ôn ḥa mà thôi.
Thật tiếc, mỗi chúng tôi phải làm
lễ riêng, người này sau người khác,
tại giáo xứ nhà quê của ḿnh.
Hôm
ấy trời trút mưa tầm tă, chúng tôi
tự hỏi đó là điềm ǵ vậy. V́
John và tôi đều là những con người
lạc quan, nên chúng tôi giải thích rằng cơn
mưa ấy là một dấu hiệu của ân
sủng Thiên Chúa tuôn tràn trên chúng tôi - để
chúng tôi có thể trổ sinh dồi dào hoa trái.
Ít
lâu sau, lúc tôi chuẩn bị mua vé tàu đi
Brazil, Bề Trên Giám Tỉnh bất ngờ gơ
cửa pḥng tôi – và tôi hết sức ngạc
nhiên về vinh dự này. Đây chính là vị giám
tỉnh sáu năm trước đă bảo
rằng tôi không cần phải sợ trở thành
một giáo sư – và ngài cũng là người
thầy đă hướng dẫn tôi học
tiếng Bồ Đào Nha và nghiên cứu văn hóa
Brazil sau khi tôi khấn lần đầu. Té ra, cơn
mưa hồng phúc dịp tôi thụ phong linh
mục trở thành một gáo nước lạnh
dội lên đầu tôi, khi tôi nghe vị giám
tỉnh chậm răi nhấn từng tiếng: “Khi
các giáo sư của anh nghe biết anh được
chỉ định đi Brazil, họ tỏ ra
rất bức xúc với tôi. Họ muốn anh
tiếp tục học để lấy học
vị tiến sĩ thần học luân lư.”
Giật ḿnh, tôi trả lời: “Thưa Bề Trên,
một yêu cầu như thế chỉ có thể
là sự chọn lựa cuối cùng của con thôi.”
Tôi cũng thẳng thắn tŕnh bày thêm rằng tôi
không ‘kỵ’ ǵ hơn việc phải học
đào sâu loại thần học luân lư mà ḿnh
đă được dạy cho trong chương
tŕnh đào tạo. Giám Tỉnh lập tức
trả lời: “V́ thế, chúng tôi muốn có
sự thay đổi. Vả lại, anh không
phải đi học ở Rôma đâu! Anh có
thể chọn giữa Tubingen và Munich.”
Dù
rất trân trọng sự tín nhiệm lớn lao
mà các giáo sư dành cho khả năng trí thức
của ḿnh, tôi vẫn rất thất vọng v́
các mơ ước và dự định của ḿnh
xem như đă hoàn toàn sụp đổ. Chỉ
sau này khá lâu tôi mới nhận ra rằng lúc
đó bề trên đă trao cho ḿnh một sứ
mạng thật quan trọng: tôi phải cố
gắng hết sức ḿnh để làm cho
việc giảng dạy thần học luân lư
thực sự trở thành một phần cốt
yếu trong công cuộc rao giảng cho mọi người
Tin Mừng về quyền năng và sự
hiện diện cứu độ của Thiên Chúa.
Vả chăng, lúc đó tôi không thể nào
thấy trước rằng việc học và
những kinh nghiệm của ḿnh sau này trong
chiến tranh sẽ giúp tôi có nhiều cơ
hội để thực sự trở thành
một nhà truyền giáo như ḿnh vẫn ước
mơ.
Trong
ngành y tế
Được
phép chọn lựa, tôi đă chọn học
ở Đại Học Munich dưới sự hướng
dẫn của Giáo sư Theodore Steinbuckel; đây chính
là một nhà tiên phong trong công cuộc canh tân
thần học luân lư. Đề tài tôi được
giao để làm luận văn tiến sĩ là:
“Thánh và Thiện - hay mối Quan Hệ
giữa Tôn Giáo và Luân Lư.” Tuy nhiên, chưa
kịp bắt tay vào luận văn này th́ tôi
đă trở thành một trong những linh mục
đầu tiên được gọi nhập ngũ
vào quân đội Đức. Theo qui định
của Bản Thỏa Ước giữa nhà nước
với Rôma, các linh mục có thể được
gọi nhập ngũ nhưng chỉ để
phục vụ trong tư cách là những nhân viên
y tế mà thôi. Đơn vị huấn luyện
mà tôi được bố trí vào hầu như
gồm toàn là các linh mục, bác sĩ và sinh viên
y khoa. Tất cả chúng tôi sống với nhau
trong bầu khí ấm t́nh huynh đệ – và
tất cả đều chia sẻ nỗi căm
ghét đối với cuộc chiến tranh phi nghĩa
này.
Có
một anh hạ sĩ nọ trong đơn vị
tôi, tính t́nh rất chất phác, nhưng đồng
thời cũng có nhiều mặc cảm tự tôn.
Lần nọ, anh ta ra lệnh cho một linh
mục phải vừa chạy dọc suốt
chiều dài sân vừa la lớn: “Tôi là một
thằng ngốc!” Chấp hành mệnh lệnh,
anh linh mục ấy cắm cổ chạy và lém
lỉnh la thật to: “Thưa hạ sĩ! Đúng,
đúng! Hạ sĩ là một thằng ngốc!”
Sự táo bạo ấy của anh bạn linh
mục đă đem lại cho chúng tôi một
trận cười nghiêng ngả – và nó cũng
giúp đào sâu t́nh đồng đội của
chúng tôi. Hơn nữa, câu chuyện ấy cũng
cho thấy rằng các linh mục không ngu đần
cũng không nhát đảm. Họ cũng không
hề nghèo khiếu hài hước!
Là
lính cứu thương, chúng tôi được
qui định không bao giờ được phép
làm bất cứ ǵ thuộc sứ vụ linh
mục, trong bất luận trường hợp nào.
Ai vi phạm điều lệnh ấy có thể
phải nhận h́nh phạt tới chín năm tù.
Tôi tự nhủ ḿnh sẽ vi phạm điều
lệnh ấy bất cứ khi nào có dịp cho ḿnh
vi phạm – tôi vốn đă chẳng từng
mang tiếng là một anh chàng ‘bướng
bỉnh’ đó sao! Trong cuộc chiến tranh kéo
dài với Nga, tôi phục vụ trong bộ binh
với tư cách là một trung sĩ cứu thương.
Rất nhiều trường hợp, tôi mang
về tuyến sau những người lính bị
thương ở mặt trận, và tôi luôn luôn
sẵn sàng phục vụ cho bất cứ ai
cần đến sự săn sóc y tế. Qua thái
độ sẵn sàng ấy của tôi, người
ta nhận thấy rằng tôi thực sự là
“một người trong họ” – và cũng
nhờ đó, tôi nhận được sự tín
nhiệm của họ ngày càng hơn.
Đàng
khác, cũng có nhiều người quá khích luôn
luôn tỏ thái độ khinh miệt các linh
mục. Một hôm, một đại úy đă lăng
nhục tôi trước mặt nhiều người
lính. Tôi điềm tĩnh nói với anh ta:
“Nếu một ngày nào đó anh cần sự giúp
đỡ, tôi sẽ sẵn sàng. Xin anh đừng
quên nhé!” Vài tuần sau, chuyện xảy ra là tôi
mang chính viên đại úy ấy từ mặt
trận về tuyến sau trong một cuộc
tải thương ‘thập tử nhất sinh’
cho chính bản thân tôi – tôi chăm sóc vết thương
cho anh ta một cách tận t́nh. Nước
mắt ràn rụa, viên đại úy xin tôi tha
thứ về sự xúc phạm của anh đối
với tôi. Kinh nghiệm này đă giúp tôi
thấy rơ hơn ư nghĩa của mấy
tiếng “một người trong chúng ta”,
một ư nghĩa được đào sâu
thấm thía trong suốt cuộc chiến tranh
ấy.
Đức
Kitô, Con Người, là “một người trong
chúng ta” cho hết mọi người không
trừ ai. Cũng vậy, với tất cả
niềm xác tín của ḿnh, tôi đă chọn
lựa vượt qua mọi biên giới quốc
gia. Mùa đông 1940-41, đơn vị tôi đóng
quân ở Normandy, nơi mà ban đầu rất
nhiều gia đ́nh Pháp và các linh mục địa
phương đă coi tôi như một người
bạn của họ. Bất chấp luật
cấm của chế độ Đức
Quốc xă, Chúa Nhật nào tôi cũng cử hành
Thánh Lễ trọng thể trong Nhà Thờ Chính Ṭa
Bayeux, cho các quân nhân của chúng tôi và cho cả
dân chúng địa phương của vùng đó.
Vốn bị đói khát về tâm linh do hoàn
cảnh chiến tranh, người ta đến
tham dự thánh lễ mỗi tuần mỗi đông
hơn. Chắc hẳn nhiều người trong
họ không thể lường hết được
sự liều lĩnh của tôi khi thi hành sứ
vụ của ḿnh như thế!
Một ngày Chúa Nhật, tôi cưỡi
xe đạp vào thị xă và, trên đường,
tôi gặp viên sĩ quan chỉ huy ở Bayeux, ông
gọi tôi lại. Tôi bồn chồn tự
hỏi có phải ông ta muốn hạch tội ḿnh
về sự vi phạm của ḿnh không. Và tôi
sung sướng thở phào khi ông nồng
nhiệt chào tôi và nói rằng ông cũng sẽ
giúp tôi trong chuyện làm lễ ấy. Thêm
nữa, ông c̣n ngỏ ư gửi đội quân
nhạc tới để giúp cho Thánh Lễ thêm
phần long trọng. Thế là từ đó ông
cho người đưa tôi đến Nhà
Thờ Chính Ṭa bằng xe hơi! Rơ ràng, do
nhận hiểu sự bất công của luật,
viên chỉ huy này đă thể hiện một
tinh thần cương trực và can đảm
khi dám gạt luật qua một bên – ví ích
lợi của mọi người.
Trong
những tháng tiếp theo sau, các đường
ranh giáo phái sụp đổ rất ngoạn
mục. Một hôm, một nhóm quân nhân Tin Lành
đến gặp tôi và ngỏ ư xin tôi tổ
chức một buổi tối học hỏi Thánh
Kinh với họ. Suốt thời gian ở
đơn vị này, tôi đă gặp họ đều
đặn và t́nh thân của chúng tôi ngày càng
được đào sâu. Vào thời gian trước
khi bùng nổ cuộc chiến tranh với Nga, tôi
đảm nhận việc cử hành Thánh Thể
và giải tội chung cho các quân nhân thuộc các
Giáo Hội khác nhau, và đa số trong họ
đă tham dự. Trong t́nh h́nh khẩn trương
lúc ấy, và với cảm nghiệm sâu sắc
rằng tất cả chúng tôi là một trong Đức
Giêsu Kitô, tôi nhận thấy quả là điều
hết sức kỳ quái và tởm gớm
việc kiên quyết duy tŕ sự phân biệt
giữa người Tin Lành và người Công Giáo.
Mọi người chúng tôi, bất kể
thuộc niềm tin nào, đều cảm thấy
được mời gọi chia sẻ trong
mối hiệp thông. Vào một dịp khác, tôi nói
với các người bạn Tin Lành của tôi
rằng vị mục tử chính thức của
họ chắc chắn sẽ đến để
săn sóc họ, nhưng câu trả lời
của họ là: “Thưa cha, thực sự
chẳng có lư do nào để tạo ra bất
cứ sự thay đổi nào cho chúng tôi cả,
v́ cha là ‘một người trong chúng tôi!’” Vâng,
trở thành một người giữa
những người khác – đó là một
niềm vui và là đặc ân lớn lao hơn
bất cứ cảm nghiệm nào khác mà tôi có
được trong thời chiến, và tôi đă
có nhiều dịp để kinh nghiệm lại
điều này.
Tôi
đă có những cơ hội tuyệt vời
để cung ứng sự trợ giúp – cả
về y tế lẫn về tâm linh - cho nhiều
anh em Chính Thống Nga cũng như Ucraina. Chúng tôi đă cùng nhau chia sẻ
một cảm nghiệm đầy cảm kích qua
một nghi lễ rửa tội cho một nhóm
đông đảo các thiếu nhi và thiếu niên.
Ít lâu sau đó, khi tôi nói với một số
phụ nữ rằng tôi sẽ đến dâng Thánh
Lễ vào Chúa Nhật tuần tới - tin tức
này đă lan ra rất nhanh, và rất nhiều người,
khao khát niềm vui của bí tích này, đă đến
tham dự.
Gần
cuối cuộc chiến bi thảm ấy, tôi là
một tù nhân chiến tranh, được giam
giữ tại một căn cứ ở Ba-lan. Giáo
dân của một giáo xứ Ba-lan gần đó
– mà tôi đă từng săn sóc
cho một số bệnh nhân trong họ và
rửa tội cho các em bé của họ – đă
quyết định cứu tôi và vận động
để tôi trở thành cha sở của họ.
Một lần nữa, tôi cảm nghiệm
được ư nghĩa thâm sâu thế nào là
“một người trong chúng ta”. Đó là
một biến cố giúp tôi thực sự nh́n
thấy - bằng con mắt đức tin – ánh sáng
của Đức Kitô, Đấng nh́n nhận chính
Ngài là “Con Người”, là “một người
trong chúng ta”.
“Chúa
Có Thể Gửi Một Linh Mục
Đến Với Tôi Sao?”
Vào
một trong những ngày khốc liệt nhất
ở mặt trận Nga, tôi hoàn toàn kiệt
sức do phải làm việc với quá nhiều
quân nhân bị thương và tử trận. Hy
vọng tranh thủ được một chút
nghỉ ngơi để hồi sức, tôi
bắt đầu đào một hố cá nhân ngay
trong tầm quan sát của ‘đối phương’.
Vừa khi bắt đầu đào, tôi nghe
một tiếng rên ở gần đó: “Cứu
thương, cứu tôi với!” Xét theo tự
nhiên con người và xét trong bối cảnh nhà
binh, lúc ấy tôi có thể cho phép ḿnh làm ngơ.
Thứ nhất, v́ tôi cảm thấy ḿnh hoàn toàn
kiệt sức; và thứ hai, con người đang
kêu rên kia không phải là người của
đơn vị tôi, không phải là “một người
trong chúng tôi”. Tuy nhiên, bất chợt tôi
nhận thấy rơ rằng anh ta là “một người
trong chúng tôi”, một người – như
mọi người chúng ta – đang cần tôi
trong tư cách là một linh mục. Tôi tập
trung hết sức lực c̣n lại của ḿnh,
ḅ ra kiếm người lính ấy. Mười
phút sau, tôi t́m thấy anh ta giữa khoảng
đồng trống, ngay trong tầm nh́n của lính
Nga. Giờ đây nhớ lại, tôi vẫn c̣n
ngạc nhiên không biết tại sao hôm ấy phía
Nga đă không bắn tôi. Có lẽ họ nhận
ra tôi là một lính cứu thương, và v́
họ tôn trọng luật quốc tế nên tha
mạng cho tôi. Đối với tôi, không bao
giờ có chuyện phân biệt đối xử
bên ta bên địch. Người linh mục không
biết đến các vành đai phân cách; và người
nhân viên cứu thương - do đặc tính công
việc của ḿnh - là người phục
vụ kẻ khác không cần biết kẻ đó
là ai.
Khi
tôi tới chỗ người lính bị thương,
tôi cố gắng giúp anh ta nhưng lập tức
nhận ra rằng ḿnh không thể làm ǵ để
cứu sống anh ta được. Trong tâm
trạng ân hận, tôi nói với anh: “Là một
nhân viên cứu thương, tôi đă đến
quá trễ, nhưng trong tư cách là một linh
mục, tôi đang có mặt ở đây kịp
thời cho anh.” Đôi mắt mở rộng
với ánh nh́n ngạc nhiên, người lính
hỏi: “Chúa có thể gửi một linh mục
đến với một tội nhân như
tôi sao?” Anh càng sửng sốt hơn
nữa khi tôi cho biết rằng tôi có đem theo
Ḿnh Thánh Chúa cho anh làm của ăn đàng.
Về sau, khi tôi báo tin cho gia đ́nh người
lính ấy về cái chết của anh, một
linh mục – là anh em họ của người quá
cố – đă cho biết: “Thật là một phép
lạ! Anh ấy đă bỏ không lui tới nhà
thờ kể từ khi xảy ra một vụ
trong đó anh bị cha sở cư xử bất
công một cách thậm tệ. Anh ấy đă không
bao giờ trở lại – dù mẹ anh ấy
vẫn không ngừng cầu nguyện đêm ngày
cho anh được ơn trở lại.”
Một
linh mục, nếu không phải là người cho
người khác, th́ linh mục ấy đang
đi ngược lại ơn gọi của ḿnh.
Chỉ khi nào linh mục đáp ứng cho nhu
cầu của con người trong bất cứ hoàn
cảnh nào ḿnh được mời gọi
đáp ứng, th́ linh mục mới khám phá ra căn
tính đích thực của ḿnh nơi Đức
Kitô, Đấng là “Con Người”, Đấng
măi măi là “một người trong chúng ta.”
Riêng
cá nhân tôi, thật là phấn khởi được
nghe những người Nga, Ucraina, Ba-lan nói: “Cha
Haring là ‘một người trong chúng tôi.’”
Đành rằng nói cho cùng, đó không phải là
cái ǵ phi thường lắm, song đó là
một xác nhận quan trọng về căn tính
của tôi – và là một thách đố tôi
tiếp tục đào sâu và phát triển căn tính
linh mục của ḿnh suốt cuộc đời
ḿnh.
Giữa
đám dân tị nạn
Ít
lâu sau chiến tranh, niềm hy vọng thừa sai
của tôi được hiện thực hóa
giữa những nạn nhân chiến tranh. Tôi và vài
linh mục đồng sự trải qua một
số năm rao giảng Tin Mừng cho những người
tị nạn Công Giáo không nhà cửa ở Đức
– họ sống trong những vùng, mà cho tới
thời ấy, là những vùng riêng của Tin Lành.
Không có một tổ chức giáo xứ hay
cộng đoàn Công Giáo nào tồn tại ở
đấy. Suốt thời gian đó, mỗi năm
tôi bỏ ra khoảng mười tuần để
viếng thăm các vùng nói trên với ba linh
mục khác – nhưng mỗi người chúng tôi
phụ trách các thị trấn hay các làng riêng.
Ban
đầu, chúng tôi thăm từng gia đ́nh
trong một khu vực nào đó - và đôi khi
vị mục sư Tin Lành cho chúng tôi mượn
nhà thờ để qui tụ và cử hành
phụng tự. Tuy nhiên, đa số các trường
hợp, chúng tôi thuê một vũ trường hay
một căn pḥng rộng để làm địa
điểm qui tụ. Việc ăn uống
ngủ nghỉ của chúng tôi do chính những người
dân tị nạn này sắp xếp.
Tại
một thị trấn nhỏ, không có người
tị nạn Công Giáo nào mời tôi ngủ
lại trong nhà họ, v́ thế tôi đi tới
một pḥng trọ của một người Tin
Lành. Chủ nhân cung cấp cho tôi một chỗ
vốn thường dành cho những người
ăn xin lang thang. Tôi không ngạc nhiên khi nhận
thấy các tấm trải giường lâu
rồi chưa được thay. V́ những người
ăn xin không có tiền để chi trả, nên
chủ pḥng trọ không buồn nghĩ đến
chuyện săn sóc giường chiếu cho
họ. Khi gia đ́nh của một giáo viên Tin Lành
phát hiện ra tôi đang ở đấy, họ
thay tấm trải giường cho tôi, mời tôi
đi ăn tối, và thậm chí báo cho các người
tị nạn Công Giáo biết về t́nh trạng
chỗ ở của tôi. Nhờ biến cố
đó, tôi đă nhận được sự
trợ giúp đáng kể của những người
tị nạn nhiệt t́nh liên đới với
tôi.
Trước
khi tôi nhận sứ vụ đặc biệt này,
với ḷng hăng hái của một linh mục, tôi
đă chuẩn bị mười sáu bài giảng
về các chủ đề chính của Kitô giáo,
nhưng tôi đă không bao giờ dùng đến
bất cứ bài nào trong số đó! Sống
gần gũi người nghèo, tôi sớm
hiểu ra rằng cách tốt nhất để
rao giảng Lời Chúa cho họ là tiên vàn
phải biết lắng nghe những ưu tư,
hy vọng và niềm vui của họ.
Chính
trong những năm đầy khó khăn thử
thách ấy mà tôi đă bắt đầu
viết ra các tư tưởng của ḿnh,
kết đọng lại trong tác phẩm ba
tập Luật của Đức Kitô.
Nếu không có những kinh nghiệm chia sẻ
cuộc sống với bao người nghèo
khổ và túng thiếu thời chiến tranh và sau
chiến tranh như thế, th́ bản văn kia
của tôi rất có thể đă khác đi
rất nhiều.
Quả
thật, quăng thời gian đó đă giúp tôi
nhận hiểu hơn rất nhiều về con người
và sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng
đă đi khắp các thị trấn và làng
mạc Galilê rao giảng Tin Mừng cho người
nghèo và là Đấng không bao giờ biết ḿnh
sẽ tựa đầu vào đâu. Việc săn
sóc và rao giảng Tin Mừng cho các quân nhân và
những người tị nạn đă trở
thành một kinh nghiệm căn bản cho tôi. Mười
tám quốc gia Phi Châu mà tôi đă phục vụ
(một cách không liên tục) trong quăng thời
gian hai mươi năm sau Công Đồng Vatican
II đă định h́nh nhăn quan, các ư tưởng
và các phương thức thi hành sứ vụ
của tôi trong Thế Giới Thứ Ba, và cũng
đă hiện thực hóa những niềm hy
vọng truyền giáo trước đây của tôi
gấp trăm lần.
Những
kinh nghiệm vừa có sức thay đổi đời
sống vừa có tính thách đố sâu xa này
đă cho phép tôi nhận thức những
vấn đề nền tảng mà tôi nghĩ
rằng rất có thể ḿnh không bao giờ
thực sự nhận hiểu nếu như ḿnh
không sống giữa người nghèo. Những
kinh nghiệm ấy cũng giúp đào sâu nhận
thức của ḿnh về vai tṛ của người
linh mục xét như là môn đệ Đức
Kitô. Quả thật, làm sao chúng ta có thể
thực sự chia sẻ sứ điệp Tin
Mừng với những người cùng khổ
nếu chúng ta không sẵn sàng đảm nhận
thân phận nghèo của họ? Biết về cái
nghèo và sống cái nghèo, hai điều ấy hoàn
toàn khác nhau. Trở thành môn đệ của Con
Người, điều đó đ̣i hỏi chúng
ta phải suy niệm hằng ngày - ở đây, bây
giờ, và trong bối cảnh cuộc sống
cụ thể - về ư nghĩa của tiếng
gọi trở thành “một người trong chúng
ta”. Tất cả điều này sẽ trực
tiếp cho thấy chúng ta có thực sự
“biết Đức Kitô” hay không. Vâng, chúng ta
chỉ “biết” Đức Giêsu Kitô thông qua
việc dấn thân giúp đỡ những người
nghèo, những người tội lỗi,
những kẻ bị bóc lột và bất cứ
ai cần chúng ta giúp đỡ.
Đánh
thức ơn gọi
T́m
cách đánh thức và nuôi dưỡng các ơn
gọi truyền giáo giữa những người
tị nạn, đó là một trong những
mục tiêu sứ vụ thiết thực nhất
của chúng tôi. Việc hiện thực hóa
những mục tiêu đó đă nhắc tôi
nhớ đến Thánh Phaolô và các bạn
đường của ngài – các ngài không bao
giờ rời một nơi bao lâu các ngài chưa
phát hiện và đào tạo được
những con người có khả năng thiết
lập và phát triển cộng đoàn tín hữu,
những người sẽ tiếp tục công
việc của các ngài. Tại mỗi nơi, chúng
tôi có thể nhận ra những người nam cũng
như nữ sẵn sàng đồng hành với chúng
tôi và - khi cần – giới thiệu chúng tôi cho
các gia đ́nh.
Kinh
nghiệm đầu tiên của tôi trong việc
tuyển chọn những người giáo dân có
tiềm năng cho sứ vụ này là trong một
vùng Tin Lành đôi khi có bầu khí căng
thẳng – nơi mà những người tị
nạn sống tạm bợ. Ở đó tôi
đă may mắn có hai phụ nữ cao niên thánh
thiện và một phụ nữ 22 tuổi tên là
Matje. Trong khi hai phụ nữ cao niên kia tỏ ra
hết sức nhiệt thành, th́ tôi cũng
nhận thấy rằng họ cần điều
chỉnh một đều ǵ đó. Số là hai
phụ nữ này khư khư yêu cầu tôi đừng
viếng thăm một gia đ́nh Công Giáo nọ
mà họ cho là quá bê bối. Mỗi lần
họ nêu chuyện này ra, tôi hết sức kiên
nhẫn và ân cần giải thích cho họ
rằng tiêu điểm của sứ mạng
Đức Giêsu là t́m kiếm chính những
loại người đặc biệt ấy.
Đến cuối tuần, cả hai bị
sửng sốt v́ những ǵ đă xảy ra.
Họ nói: “Tất cả những người mà
chúng tôi xem là vô vọng đă bắt đầu
tham gia sinh hoạt phụng tự đầy đủ
và đă trở nên những con người hoàn
toàn mới.”
Matje,
một phụ nữ rất không b́nh thường,
là thành viên duy nhất trong gia đ́nh quan tâm
đến đức tin Công Giáo. Hoàn toàn cởi
mở đón nhận đức Kitô, cô đă
lắng nghe và nội tâm hóa Lời Chúa. Ít lâu
sau đó, cô tiết lộ cho tôi một điều
cô đă hứa với Chúa: “Nếu con có
thể thuyết phục gia đ́nh con trở
lại với Giáo Hội, con nguyện sẽ
trở thành một nhà truyền giáo.”
Và cô ta đă thành công một cách kỳ
diệu về cả hai phương diện
ấy. Cô đă không chỉ đưa mẹ và
em gái ḿnh trở lại trong dịp tôi đến
vùng đó lần đầu tiên, mà cô c̣n
đưa cả bố và anh trai cô trở lại
khi tôi đến đó lần thứ ba. Rồi
ít lâu sau, cô trở thành một nhà thừa sai
Benedictine rất đắc lực ở Tanzania.
Nhiều năm sau, khi cả hai chúng tôi bị
bệnh ung thư, chúng tôi gặp lại nhau
ở Đức. Bất chấp t́nh trạng
bệnh hoạn của ḿnh
(cô đă chết v́ chứng bệnh này ít
lâu sau khi cô thăm tôi), niềm vui rạng rỡ
của cô không bao giờ tắt. Đó quả là
một tông đồ tuyệt vời.
Tại
thị trấn kế bên, một người
tị nạn và cũng là một giáo viên gốc
ở Silesia - là người giúp đỡ tôi
rất đắc lực - cũng đề
cập đến những “trường hợp
vô vọng” mà anh ta nghĩ là mọi nỗ
lực đều vô ích. Thật cực kỳ khó
để thuyết phục anh chấp nhận quan
điểm mà tôi thường xuyên nhắc đến,
đó là Đức Giêsu không bao giờ có thái
độ kỳ thị đối với bất
cứ ai. Khi chuyến viếng thăm của tôi
kết thúc, anh kể cho tôi về trường
hợp một phụ nữ Công Giáo - là mẹ
của sáu đứa con - đă trở thành x́ căng
đan trong thị trấn. Phụ nữ này liên
can đến hoạt động mại dâm
với các quân nhân Mỹ. Kể xong câu chuyện,
anh thốt lên: “Là một bậc vị vọng,
cha không thể bước chân vào nhà của con
mụ ấy!” Để nhắc anh nhớ
rằng điều quan trọng là phải
thực thi sứ mạng của Đức Giêsu,
tôi trả lời: “V́ cả anh và tôi đều
là những ‘bậc vị vọng’, chúng ta có
thể cùng nhau viếng thăm chị ấy.”
Khi chúng tôi bước vào nhà người đàn
bà nói trên, chị đang có mặt với
một phụ nữ khác cũng liên can đến
mại dâm. Bực bội v́ sự hiện
diện của chúng tôi, chị phun ra xối
xả những lời thô tục mà cả đời
ḿnh cho tới lúc đó tôi chưa bao giờ nghe.
Anh bạn của tôi nói: “Đấy! Con đă
không cảnh báo trước với cha rồi
đó sao?” Tôi trả lời: “Có lẽ chúng ta
đáng nhận những lời chửi bới
của chị ấy, v́ trong thâm tâm ḿnh chúng ta
đă xem thường chị ấy!” Chiều hôm
đó, người phụ nữ kia trố
mắt ngạc nhiên thấy tôi ghé thăm chị
lần nữa – lúc này chị đang một ḿnh
với các con của chị - và tôi đă tỏ
ra thân thiện với chị như thể chưa
có chuyện ǵ xảy ra cả. Sau một cuộc
chuyện gẫu ngắn, chị hứa sẽ
đến tham dự việc cử hành phụng
tự của chúng tôi hai lần, v́ tôi đă
đến thăm chị hai lần. Cuối cùng
chị đă vượt xa khỏi sự
‘mặc cả’ ban đầu của ḿnh để
đi bộ năm dặm với những đứa
con lớn của chị, đến tham dự
với chúng tôi vào mọi buổi tối.
Một
năm sau, khi tôi trở lại, người đàn
ông giáo viên đă trở thành bạn và mạnh
thường quân rất đắc lực của
tôi ấy đă nói: “Cha thật có lư. Chị
ấy đă trở thành một con người
mới và các con cái chị ấy cũng đă
thay đổi rất nhiều.” Đây quả là
tin mừng lớn lao. Trước hết, người
mẹ goá bụa này vốn bị khinh miệt do
bởi ngôn từ thô tục của chị – th́
ra, (thật trái ngược với điều chúng
tôi nghĩ ban đầu) việc chị sử
dụng ngôn từ đó không phải v́ chị
phản kháng chúng tôi nhưng đúng hơn
bởi v́ chị bị thất đoạt
nghiêm trọng. Thứ hai, nhiều người
tốt đă giúp đỡ chị thoát ra
khỏi t́nh cảnh khốn nạn và bước
vào một cuộc sống mới tốt đẹp
hơn. Và cuối cùng nhưng không kém quan
trọng, người giáo viên mạnh thường
quân của tôi nói trên đă trải qua một
cuộc hoán cải trong tâm hồn, anh nhận
hiểu từ kinh nghiệm này rằng –
giống như Đức Giêsu – ơn gọi
cốt yếu của anh là ưu tiên phục
vụ cho những người bị xem là tội
lỗi, những kẻ bị gạt ra ngoài
lề xă hội.
Thật
vậy, hoạt động truyền giáo là
một nỗ lực ‘gây nhiễm’ trong đó
nếu chúng ta muốn thể hiện sức
mạnh yêu thương và cứu độ
của Đức Kitô th́ chúng ta không thể không
nhúng tay chân ḿnh vào śnh lầy khốn nạn
của con người. Hiện diện giữa
những người cùng khổ nhất để
phục vụ họ, đó là một con
đường rất quan trọng để khám
phá, đánh thức và nuôi dưỡng các ơn
gọi truyền giáo giữa những người
nghèo cũng như giữa bao người khác
nữa xung quanh.
Một
đàng, theo cách hoạt động tông đồ
của Giáo Hội sơ khai, chúng tôi đă
cố gắng xây dựng những cộng đoàn
đức tin mọi nơi mà chúng tôi tới. Nhưng
đàng khác, trong khi các Kitô hữu đầu tiên
không bao giờ rời một cộng đoàn
nhỏ nào nếu cộng đoàn ấy chưa
được cung cấp một thừa tác viên
Thánh Thể, th́ trái lại chúng tôi – do một
truyền thống nào đó và do những qui định
khắt khe của giáo luật – đă để
tất cả những cộng đoàn ấy
lại phía sau lưng ḿnh trong t́nh trạng không có
linh mục! Dù sao, đáng ghi nhận rằng ngay
cả dù không có thánh lễ, ít nhất nhiệt
tâm truyền giáo cũng đă phát triển
tại những khu vực bần cùng ấy.
Thực tế Chúa cũng ban cho tôi khả năng
cổ vơ các ơn gọi linh mục và tu sĩ
suốt trong thời gian đó, song rơ ràng đấy
không phải là tiêu điểm nhấn mạnh
của tôi. Bởi điều quan trọng hơn
trong bổn phận của linh mục, theo tôi, là
giúp người giáo dân ư thức về ơn
gọi Phép Rửa của họ – qua đó
họ sẽ dấn thân thi hành sứ mạng
của ḿnh trong Giáo Hội và trong thế giới.
Một trách nhiệm quan trọng không kém, đó
là hợp tác với các tín hữu để
biện phân các nhu cầu của thời đại,
để khám phá ra những sứ vụ nào phù
hợp nhất với họ, theo các khả năng
riêng của họ, và cuối cùng để nâng
đỡ họ trong những sứ vụ mà
họ đă chọn lựa.
Sát
cánh với các bệnh nhân
Năm
1977, hồi tôi cần một cuộc giải
phẫu thứ hai cho căn bệnh ung thư
của ḿnh, tôi đă quyết định đến
với một trong những bệnh viện nghèo
nhất ở Colleferro (phía nam Rôma), nơi làm
việc của vị bác sĩ giải phẫu
đă phát hiện ra t́nh trạng ung thư
của tôi. Vị bác sĩ này đă học
một phương pháp mới ở Hoa Kỳ –
chỉ có thể được áp dụng cho
những người không hút thuốc. Trong tư
cách là ứng viên đầu tiên của ông, tôi
xem đây là một cơ hội tuyệt vời
không chỉ cho chính ḿnh mà c̣n để cho
vị bác sĩ này
kiểm tra hiệu năng của kỹ thuật
mới. Trong khi động lực riêng của tôi
ở đây có thể không hoàn toàn có tính bác ái,
tôi vẫn sung sướng được ở
giữa những người nghèo, trở thành
“một người trong chúng ta”.
Thật
ra, về mặt kỹ thuật, bệnh viện này
cũng là một bệnh viện hàng đầu -
nhưng mặt khác, ở đây có nhiều người
rất nghèo và mang trọng bệnh nhưng không có
nhiều khả năng tài chánh. Hằng ngày,
một nhóm thiện nguyện đến phục
vụ các nhu cầu cần thiết cho các
bệnh nhân mới. Họ tặng tôi một con
dao, món quà đơn giản nhất. Cũng như
với mọi người nghèo, họ mang đến
cho tôi một bó hoa để làm cho căn pḥng và
tinh thần tôi được vui tươi
phấn chấn hơn. Cả những bệnh nhân
cũng niềm nở với tôi. Một phụ
nữ đứng tuổi ở pḥng bên cạnh
ngày nào cũng sang thăm. Chị hát một bài hát
rất hay. Một cách hóm hỉnh, chị nói: “Tôi
điếc, c̣n cha th́ câm. Chúng ta giống nhau.”
Tôi suy ngẫm và nhận ra rằng những quà
tặng của người nghèo, được
diễn tả một cách ân cần và thân ái, th́
thâm sâu hơn và quan trọng hơn bất cứ
sự an ủi nào khác.
V́
hoàn toàn câm, tôi học cách giao tiếp thuần túy
bằng cử chỉ và chữ viết. Khi giai
đoạn khó khăn nhất của ḿnh đă
trôi qua, tôi rất ngạc nhiên thấy các y tá và
các bệnh nhân đến với tôi để lănh
bí tích hoà giải. Từ kinh nghiệm này, tôi càng
xác tín hơn rằng ngay cả trong t́nh trạng
bệnh hoạn, người ta vẫn có thể vượt
qua các rào chắn để đem lại niềm
an ủi cho nhau.
Kinh
nghiệm sống không có thanh quản của
15 năm qua – theo một nghĩa nào đó – là
một ân huệ thật sự đối với
tôi, bởi v́ nó đem lại cho tôi nhiều cơ
hội tuyệt vời để an ủi bệnh
nhân, nhất là an ủi những người cùng
cảnh ngộ với ḿnh. Đó là những cơ
hội mà tôi không thể có được
nếu tôi không ở trong t́nh trạng ấy. Tôi
nói như thế bởi v́ khi bạn hoàn toàn
khoẻ mạnh và bạn cố gắng an ủi
khích lệ một bệnh nhân, rất có thể
người bệnh sẽ trả lời: “Anh nói
nghe có vẻ dễ dàng. Nhưng làm sao anh thực
sự hiểu được hoàn cảnh của
tôi?” Tôi tin rằng một linh mục nếu không
bao giờ đau ốm hay không bao giờ bị
những vấn đề thể lư giống như
các bệnh nhân th́ sẽ không thể hiểu
được hay diễn tả được
niềm đồng cảm chân thành sâu sắc như
một linh mục ở trong hoàn cảnh của
họ.
Từ
đó đến nay, tôi ngày càng thấm thía hơn
lời của Ngôn Sứ Isaia: “Ta đă nghe
lời ngươi cầu nguyện, Ta đă
thấy nước mắt của ngươi. Này
Ta chữa lành ngươi” (2V 20,5). Tôi cảm
nhận được ư nghĩa thật thâm sâu
trong những lời ấy bởi v́ chính căn
bệnh của tôi đă trở thành phương
tiện kết hợp tôi với nỗi đau
khổ của bao người khác; tôi có thể
thực sự hiểu và chia sẻ lời cầu
nguyện của họ, nước mắt của
họ, niềm hy vọng được chữa
trị của họ. Cũng vậy, chương
hai Thư Do Thái nối kết những nỗi
thống khổ của Đức Kitô một cách
mật thiết với việc Ngài chia sẻ
cảnh ngộ của tất cả chúng ta. Nghĩa
là, Thiên Chúa đă làm cho Đức Kitô, huynh trưởng
của chúng ta, nên hoàn hảo xuyên qua đau
khổ. Tôi tin rằng tôi đă được
đặc ân “biết” Đức Kitô này, người
anh em tôi, người cùng chịu đau khổ và
là người chữa trị của tất
cả. Và tôi cũng nhận ra ư nghĩa của
sứ vụ Ngài bằng những cách mà tôi có
thể không bao giờ hiểu nếu như chính
bản thân tôi không đau khổ sâu xa.
Trong
trường học đau khổ, Đức Giêsu,
người anh em của tất cả chúng ta, không
chỉ học vâng phục những ǵ Thiên Chúa
đ̣i hỏi, mà c̣n học thương xót
một cách đặc biệt (Dt 5,8-9). Không
chỉ bằng lời nói mà c̣n bằng gương
mẫu của Ngài, Đức Giêsu dạy chúng ta:
“Hăy thương xót, như Cha anh em là Đấng
xót thương” (Lc 6,36). Ư nghĩa sâu xa
nhất của hy tế Đức Kitô trên
Thập Giá được hiểu như mang
lấy gánh nặng tội lỗi của loài người
(Dt 9,8), bằng cách chia sẻ khổ đau
của người ta với ḷng trắc ẩn vô
hạn. Qua cuộc khổ nạn của Ngài,
Đức Kitô đă trở thành bí tích tối
thượng, trở thành người chuyển
tải cao nhất ḷng thương xót của Chúa
Cha. V́ thế, không chỉ là thích hợp mà c̣n là
cần thiết việc các linh mục cũng
chịu đau khổ, và qua đau khổ các ngài
trở thành cảm thông hơn với mọi người,
nhất là với các bệnh nhân.
“Hăy
chữa lành những người ốm đau!”
Xuyên
qua các thế kỷ, Giáo Hội đă dạy và
đă thúc đẩy việc săn sóc y tế và
mục vụ cho các bệnh nhân. Trên khắp
thế giới, Giáo Hội đă xây dựng
rất nhiều bệnh viện. Sự săn sóc
đầy yêu thương đối với
những người đau ốm đă là
chứng tá hùng hồn của t́nh yêu nơi Giáo
Hội. Thánh Vincent de Paul, vị linh mục thánh
thiện và được thần hứng, vượt
lên trên những cấm kỵ văn hóa của
thời ấy, đă giải phóng năng lực
của hàng ngàn nữ tu có lời khấn để
họ phục vụ cho bệnh nhân. Sự săn
sóc và sự hiện diện đầy yêu thương
của những con người thánh thiện
ấy – nam cũng như nữ – tự nó là
một sức mạnh chữa trị.
Tuy
nhiên, trong vài thế kỷ qua, một thái cực
không lành mạnh đă phát triển trong đó
việc rao giảng Tin Mừng bị tách rời
khỏi sứ vụ chữa trị. Duờng như
đă có hai cơ chế của Giáo Hội
hoạt động song song nhau, một cho việc
loan báo Tin Mừng và một cho việc chữa
trị. Càng nghiêm trọng hơn nữa, đó là
sự phổ biến của một nền luân lư
đầy nguy hiểm và dễ gây tổn thương,
lạc xa đức tin theo Thánh Kinh, như
được đặc biệt ghi nhận vào
thời sau Công Đồng Trindentinô. Những
hiện tượng không lành mạnh này đă
sinh ra nhiều chứng thần kinh loạn nghiêm
trọng có nguồn gốc từ tâm lư và trí năng,
đôi khi được coi là t́nh trạng
thần kinh loạn và rối loạn tâm thần
có nguồn gốc từ ... Giáo Hội!
Trái
lại, cần phải khẳng định
mạnh mẽ rằng một đức tin chân
thực và một nền luân lư cắm rễ
trong đức tin theo Tân Ước th́ không bao
giờ – trong bất luận trường hợp
nào – là nguyên nhân của sự suy nhược tâm
thần như thế. Đúng hơn, đức
tin đích thực - được sống đúng
đắn, được rao giảng và
được làm chứng – luôn luôn là hiện
thân của một sức mạnh chữa trị
độc đáo.
Việc
phát triển chiều kích chữa trị của
đức tin và của luân lư Kitô giáo đă và
vẫn c̣n là một mối quan tâm chính của tôi.
Đức tin, trong toàn diện tính của nó, không
thể bị giảm trừ đến chỉ c̣n
là việc bám chặt vào một hệ thống các
chân lư (niềm tin) được dạy bởi
Giáo Hội. Một cách căn bản, đức
tin - theo nghĩa chân thực và thâm sâu nhất
của nó - là một mối quan hệ có tính
chữa trị và có sức cứu độ với
Thiên Chúa. Như vậy, một đức tin
sống động phải thiết yếu quan tâm
đến những mối quan hệ lành mạnh
và có sức chữa trị cũng như phải
quan tâm đến việc phát triển toàn
diện các cơ cấu của sự sống.
Trong công cuộc loan báo Tin Mừng, các linh mục
và tất cả những ai nhận sứ vụ
phục vụ người khác phải được
hướng dẫn chu đáo và được
đào tạo nội tâm cách kỹ lưỡng
theo những viễn tượng này.
Cách
đây khoảng 40 năm, khi tôi ở Rôma, có
một phụ nữ trẻ, đang trong thời
gian hoàn thành đợt thi tốt nghiệp ở
đại học, bỗng trở nên cáu kỉnh,
quạu quọ, hung hăn. Người ta khám phá ra
rằng cô ta có một nhân cách tâm thần phân
liệt (schizophrenic personality). Khi tôi lần đầu
tiên gặp cô ta, con người Adam cũ trong tôi
bỗng đùng đùng phẫn nộ, tôi tự
hỏi: “Tại sao người ta luôn luôn
đưa đến cho tôi những gánh nặng
như thế này? Người
ta phải biết rằng lúc này tôi không thể
làm được ǵ nhiều để giúp đỡ
bất cứ ai chứ!” Tuy nhiên, ơn Chúa
chạm đến trái tim tôi, và tôi hiểu
rằng nơi người phụ nữ này, Đức
Giêsu Kitô đang gặp tôi và trắc nghiệm
sự nhận thức của tôi đối
với Lời Ngài: “Những ǵ ngươi làm
cho một trong những kẻ bé mọn nhất
của gia đ́nh Ta đây là ngươi làm cho
chính Ta” (Mt 25, 40). Trong khoảnh khắc
mạc khải ấy, tôi quyết định kính
trọng, yêu thương người phụ
nữ tội nghiệp kia. Cô đang là sự
hiện diện hữu h́nh của Đức Kitô
đau khổ ngay tại cửa nhà tôi. Cảm
nhận ḿnh được yêu thương và tôn
trọng, Lina sẵn sàng tín nhiệm và cộng tác
với tôi. Dù vừa trải qua một phẫu
thuật tâm lư (psychochirurgy) – vốn thường
tàn phá mọi khả năng chủ động
– Lina không bao giờ bỏ một cái hẹn nào,
và trong những lần gặp nhau sau đó, cô
đă biết nh́n tôi bằng ánh mắt hiền
từ, tŕu mến.
Mặc
dù không có bằng cấp nào về tâm lư trị
liệu, nhưng tôi đă đọc rất
nhiều tác phẩm của các nhà trị liệu
nổi tiếng của thế kỷ này và tôi
đă chú ư nhiều đến những trường
phái trị liệu nhấn mạnh đến các
mối quan hệ có tính chữa trị.
Loại liệu pháp này chỉ thực sự có
hiệu năng tùy theo mức độ người
ta có ḷng kính trọng thâm sâu và bền vững
đối với người bệnh. Nhưng như
thế cũng chưa đủ. Bên cạnh
việc học hỏi và thực hành những ǵ
thuộc chuyên môn của một nhà trị
liệu tâm lư, cũng cần phải triển khai
sứ mạng của Đức Kitô như
được ủy thác cho chúng ta và các hệ
quả của sứ mạng đó: “Hăy loan báo
Tin Mừng rằng Nước Trời đă
gần đến. Hăy chữa lành những người
đau yếu, ... băng bó những kẻ cùi
hủi” (Mt 10, 7-8; Lc 10,9).
Đành
rằng học kỹ thuật là điều
rất quan trọng, nhưng sứ mạng
chữa trị c̣n liên can đến rất
nhiều chuyện khác nữa. Người linh
mục phải cởi mở ḿnh ra tới
những chiều sâu của đức tin, và
với một tâm hồn đầy tràn ḷng
biết ơn và niềm vui, người linh
mục hoàn toàn phó thác chính ḿnh trong bàn tay Thiên
Chúa. Đặc biệt, tâm t́nh biết ơn
sẽ là ch́a khóa mở toang ḷng trí người
ta để họ đón nhận quà tặng t́nh
yêu đầy năng lực chữa trị và
giải phóng của Thiên Chúa. Như vậy, tiên
vàn không phải là tôi phải làm ǵ – mà
một cách căn bản hơn, đó là tôi
phải là ǵ và tôi phải đem cái ǵ
tới cho mối quan hệ của tôi với Thiên
Chúa và với anh chị em ḿnh. Chỉ khi
biết mở rộng ḷng ḿnh ra đón nhận
phúc ân và an b́nh tràn ngập của Thiên Chúa th́
người linh mục mới có thể đem
lại sức chữa trị cho người anh em
bên cạnh, nhất là cho những ai bệnh
hoạn thể lư hay tâm thần. Điều này
khác hẳn với h́nh ảnh ‘bác ái’ của
người linh mục ở xa xa bệnh nhân -và
từ trên cao nh́n xuống, ban phát cho người
ta ánh mắt thương hại!
Sự
cứu chuộc, sự lành mạnh và sự
chữa trị được đóng dấu sâu
sắc bởi điều mà thần học
gọi là ơn dự pḥng (gratia praeveniens).
Khi giải thích điều này cho chính ḿnh và cho
người khác, tôi so sánh nó với một món
quà ân sủng được ban cho trước.
Chẳng hạn, chính Thiên Chúa luôn luôn có sáng
kiến tín nhiệm và yêu thương chúng ta trước
- dù chúng ta là ai, dù chúng ta nói ǵ và làm ǵ. Các
linh mục và các thừa tác viên săn sóc
bệnh nhân có thể đi vào trọn vẹn
trong nhiệm cục cứu độ này theo
mức độ mà – để tôn vinh Thiên Chúa
– họ luôn luôn bày tỏ cho người anh em ḿnh,
ngay cả những người thù địch
nhất, một sự tín nhiệm trước và
vô điều kiện chảy ra từ thiện chí.
Nghệ thuật cung ứng sự khích lệ trước
được ghi nhận ở cốt tủy
của Paraklesis trong Thánh Kinh, đó là sự
khích lệ tuôn chảy từ sức mạnh
của Chúa Thánh Thần.
Những
bạn trẻ thường xuyên bị đánh giá
thấp, bị lăng nhục, bị trách
mắng bởi cha mẹ và bởi các nhà giáo
dục của ḿnh sẽ vô t́nh đi đến
chỗ tự xem ḿnh là vô giá trị. Khi người
ta “dis-ease”
với chính ḿnh trong thời niên thiếu, lớn
lên người ta sẽ đi đến chỗ
bại xụi, yếu nhược, què quặt,
trở thành những bệnh nhân phung cùi
thời hiện đại. Ngược lại,
những cha mẹ và nhà giáo biết sống
trọn vẹn vai tṛ Paraklesis và biết khôn
ngoan đặt sự tín nhiệm trước nơi
con cái, th́ họ sẽ có khả năng làm
những phép lạ – theo nghĩa đích
thực của Thánh Kinh – có sức chữa
trị các quả tim và các mối quan hệ căn
bản nhất. Hơn nữa, trên chính nền
tảng ấy, đôi khi họ có thể chữa
lành cả các chứng bệnh thực tế
nữa. Đây là những nhà chữa trị
thực sự có năng lực sáng tạo.
Trong
tư cách là linh mục, chúng ta đừng bao
giờ gán bất cứ loại sức mạnh
kỳ diệu nào cho chính chúng ta viện lẽ
rằng nhờ được truyền chức thánh.
Chúng ta chẳng có ǵ kỳ diệu hay thần
nhiệm cả đâu! Đàng khác, Thiên Chúa
thực hiện những việc trọng đại
nơi và qua những người – như Đức
Maria – biết ca ngợi và vững tâm tín thác vào
Ngài. Đúng theo ơn gọi của ḿnh, không hơn
không kém, chúng ta là những cộng tác viên bé
nhỏ của Thiên Chúa, những kẻ mở
rộng ḷng ḿnh đón nhận ơn Chúa để
đem lại sự chữa trị trong mọi
mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa,
với tha nhân và với toàn thể tạo
vật. Luôn luôn tiên vàn chúng ta phải nhận
thức rằng cả chính chúng ta nữa cũng
là những kẻ luôn luôn cần được
chữa trị - cả chúng ta nữa cũng không
ngừng cần đến t́nh yêu và sự
hiện diện đầy khích lệ trước
của Thiên Chúa. Xét cho cùng, chúng ta cũng
chỉ là những nhà chữa trị mang đầy
thương tích mà thôi. Trong mức độ mà
chúng ta biết mau mắn khích lệ và tín
nhiệm người khác, th́ sự tín nhiệm và
khích lệ này sẽ chảy ngược về
với chúng ta – hóa thành năng lực chữa
trị và củng cố.
Cuối
cùng, không chỉ một ḿnh các Kitô hữu,
các tông đồ giáo dân hay các linh mục,
được mời gọi và được
sai đi trong sứ vụ chữa trị. Nói theo
ngôn ngữ của Cha Teilhard de Chardin th́ chính
“Cảnh Vực Thần Linh” là nguồn
mạch trước hết từ đó mọi năng
lực chữa trị chảy ra và lan tỏa.
Nhận thức quan trọng này, do đó, buộc
chúng ta phải t́m kiếm những mối quan
hệ lành mạnh và những cơ cấu lành
mạnh ở khắp nơi, bên trong và bên ngoài
Giáo Hội. Vả chăng, nhăn quan này không phát
xuất từ sứ mạng nền tảng
của chúng ta là loan báo Tin Mừng và chữa lành
những người đau yếu một cách toàn
diện đó sao?
Vai
tṛ chữa trị của thần học luân lư và của
việc giảng dạy luân lư
Phải dần dần tôi mới khám
phá được rằng thần học luân lư
và, tổng quát hơn, sư phạm luân lư có
những chiều kích chữa trị và tác động
rất đáng kể. Một trong những trách
nhiệm quan trọng nhất là giúp cho Giáo
Hội, nhất là các linh mục, ngày càng trở
nên những tấm gương mẫu mực hơn,
những biểu tượng sống động hơn
của vị Thầy Thuốc vĩ đại là
Đức Giêsu Kitô – bằng việc sống
triệt để Tin Mừng về sự
chữa trị. Đành rằng các linh mục không
giữ độc quyền về sứ mạng
chữa trị và mạc khải của Giáo
Hội, tuy nhiên họ có thể phục vụ
tốt nhất cho dân Thiên Chúa trong việc tiên
phong sống sứ mạng chữa trị một
cách nhất quán, trong xây dựng cộng đoàn,
trong rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Người
ta luôn luôn choáng váng khi nhận thấy một
nền luân lư sách nhiễu - gây ra bệnh
hoạn, phẫn nộ, xét nét và gây hấn -
trong Giáo Hội. Nếu có tồn tại những
tâm bệnh có nguồn gốc từ Giáo
Hội gây phiền hà cho hầu như mọi
mối quan hệ chủ yếu với Thiên Chúa,
với bản thân và với tha nhân, th́ cần
phải có một nỗ lực phối hợp
để điều nghiên và sửa chữa
tất cả những qui phạm của thần
học, nhất là thần học luân lư –
vốn không tổng hợp và hội nhập
được hai chiều kích chữa trị và
mạc khải. Đương nhiên công việc này
cũng cần đến một cuộc cải cách
các cơ cấu Giáo Hội có tính đàn áp,
chẳng hạn những cơ cấu hậu
thuẫn cho chủ trương tập quyền
đầy quan liêu và cho một quan điểm
độc đoán về vai tṛ lănh đạo
ở mọi cấp độ. Trong nỗ lực
này, khởi điểm của cuộc cải cách
phải luôn luôn là những cố gắng hợp
tác của chúng ta để hiểu biết
thấu đáo Đức Kitô là Đấng
Chữa Trị, là Ngôn Sứ và là h́nh ảnh
Nhập Thể của Đấng Sáng Tạo.
Nhiều
người Công Giáo đă được đánh
thức bởi nhận định kịp thời
và thích đáng của Karl Rahner rằng: Giáo
Hội trước Công Đồng, thật đáng
tiếc, đă gán là tội trọng (mortal
sin) cho vô số chuyện vặt vănh và vớ
vẩn. Trong tư cách là một nhà thần
học luân lư trẻ, tôi có lần giảng tĩnh
tâm ở Tyrol cho một trăm linh mục. Trong
phần dẫn nhập, tôi nói: “Thưa các cha, tôi
không có ư giảng về một danh mục các
tội trọng.” Một linh mục hạt trưởng
cao niên lập tức công khai phản ứng
lại: “Nhưng như vậy là không thực
tế! Làm sao chúng ta là những linh mục tránh
được khả năng phạm tội
trọng trong liên quan đến những luật
chữ đỏ?” Quan điểm của vị
linh mục này phát xuất từ thủ bản
Noldin cũ kỹ, trong đó vạch ra vô số
qui định về nghi thức mà các linh mục
buộc phải tuân hành “nếu không th́
mắc tội trọng”. Chẳng hạn, cho
đến năm 1949, Thánh Bộ Phụng Tự và
Kỷ Luật Bí Tích của Vatican c̣n tuyên bố
rằng một phụ nữ hay nữ tu mà trong Thánh
Lễ tới gần bàn thờ vượt quá lan
can cung thánh là mắc tội trọng. Khoảng ba
mươi năm sau, có lần tôi vẫn c̣n
đụng chạm với một hồng y kiên
quyết bảo vệ một luật của Giáo
Hội buộc trẻ em trên bảy tuổi
phải xưng tội lần đầu trước
khi rước lễ lần đầu, v́ người
ta giả định rằng trẻ em ở
tuổi này có khả năng phạm tội
trọng.
Kinh
nghiệm ấy nhắc tôi nhớ lại thật
rơ những nỗi kinh hoàng thuở ấu thời
của ḿnh với vị cha sở khư khư
đ̣i chúng tôi xưng thú mọi tội trọng,
đe doạ rằng chúng tôi sẽ bị đốt
trong lửa và diêm sinh nếu như chúng tôi xưng
thú không đầy đủ! Người ta tŕnh
bày cho trẻ em – chưa nói là cho người
lớn - một khuôn mặt Thiên Chúa kỳ
dị biết bao! Rất may là cả lúc đó
lẫn bây giờ tôi vẫn không chia sẻ tư
tưởng bi quan của Eugen Drewermann. Nhưng ngay
cả trong thời đại hiện nay, quyền
bính Giáo Hội ở mọi cấp vẫn
cần phải quan tâm đến những cảnh
báo nghiêm túc của các nhà trị liệu tâm lư
có nhiệt tâm và giàu hiểu biết khi họ
cảnh giác chúng ta về các chứng bệnh có
nguồn gốc từ Giáo Hội, những
chứng bệnh có thể phát xuất từ
một cái nh́n tiêu cực, sai trái và hà khắc.
Một
điều nhấn mạnh mấy cũng không
vừa, đó là giáo huấn của Giáo Hội và
việc thực hành
mục vụ - trong quan hệ với mọi
chiều kích và mọi cơ cấu của đời
sống - phải được giải phóng
khỏi một nền luân lư cứng nhắc và
phải được định h́nh lại
trong viễn tượng một tổng hợp
vững chắc và có tính nhân văn của hai
sứ vụ rao giảng và chữa trị. Hơn
nữa, tổng hợp này phải đặc
điểm hoá việc huấn luyện và đời
sống linh mục. Trong khi từ đầu, tôi là
một người ủng hộ mạnh mẽ
thần học giải phóng, tôi vẫn khẳng
định mạnh mẽ sự cần thiết
phải bao gồm chiều kích giải phóng và
chữa trị trong mọi qui phạm thần
học.
Quan
tâm mục vụ đối
với những người li dị
Mối quan tâm của tôi đối
với những người li dị không phải
là kết quả của các nghiên cứu lư
thuyết – mặc dù tôi vẫn nh́n nhận công
việc nghiên cứu có vai tṛ rất quan trọng.
Đúng hơn, mối quan tâm này của tôi phát
xuất từ hai nguồn: một là, từ t́nh
thương và niềm kính trọng của Đức
Giêsu đối với những con người
đứng bên lề cuộc sống, những người
bị coi là hư hỏng - và hai là, từ vô
số các kinh nghiệm của bản thân tôi
với những người li dị.
Nỗi thất vọng cùng cực và
nỗi khổ đau tâm cảm của quá
nhiều người li dị thiết tưởng
cũng đă đủ lư do không chỉ để
thúc đẩy niềm cảm thông nơi các linh
mục mà c̣n để dẫn Giáo Hội tới
một cách suy nghĩ mới. Gần như ở
khắp những nơi trên thế giới mà tôi
đă đi qua, các bạn tôi – nhất là
những tu sĩ nam nữ – đă giới
thiệu những người li dị đến
gặp tôi, hoặc đă bày tỏ với tôi
những nỗi quan tâm của họ đối
với những người li dị mà họ quen
biết. Tôi nhớ có lần, một giám mục
Phi Châu giới thiệu chính em trai của ngài,
một người li dị, đến gặp tôi.
Giám mục nói với người em ḿnh: “Chú hăy
làm theo những ǵ Cha Haring khuyên chú làm!”
Những nỗi khổ đau cùng
cực của những người li dị – thường
đa số họ là những người rất
đáng nể phục – luôn luôn làm tôi trằn
trọc và suy nghĩ về những Lời này
của Đức Kitô: “Những ǵ các ngươi
làm cho một trong các anh em bé nhỏ nhất
của Ta đây, là các ngươi đă làm cho
chính Ta” (Mt 25,40).
Tôi cảm kích sâu xa trước
tấm ḷng của Đức Giêsu đối
với người phụ nữ Samaria – người
phụ nữ mong muốn có được
một đời sống nghiêm túc, nhưng đă
bị khước từ bởi năm người
đàn ông. Trong truyền thống Do Thái lúc
bấy giờ, một “người đàng hoàng”
sẽ không bao giờ tiếp xúc với một
phụ nữ như thế. Đức Giêsu đă
không chỉ khôi phục lại ḷng tự
trọng và phẩm giá cho chị mà, hơn
thế nữa, Ngài đặt chị làm một tông
đồ của Ngài. Trong tư cách là một môn
đệ Đức Giêsu, tôi không thể nghĩ
đến những con người khốn khổ
ấy mà không đồng thời nghe âm vang
Lời Đức Giêsu: “Tôi đến không
phải để xét xử, nhưng là để
chữa trị” (x. Ga 3,17; Lc 19,10).
Trong đa số các trường
hợp li dị mà ḿnh tiếp xúc, tôi cảm
nhận đó là một nỗi mất mát và
nỗi đau bi thảm hơn là một tội.
Từ kinh nghiệm và suy tư của chính ḿnh, tôi
ngày càng xác tín rằng phương thức oikonomia
của Giáo Hội Chính Thống phù hợp
với Thánh Kinh hơn so với hữu thể
luận (ontologism) đầy tính pháp lư của giáo
thuyết Công Giáo hiện đại. Tôi cho
rằng chúng ta nên liều chấp nhận khổ
sở (khổ sở do bị hiểu lầm và
khổ sở do bị chỉ trích) để dám
suy nghĩ lại và định h́nh lại
việc săn sóc mục vụ nhằm giúp
chữa trị những con người khốn
nạn và mang đầy thương tích này. Trong
tư cách là các thừa tác viên của Đức
Kitô đối với dân Ngài, phải chăng chúng
ta không thể h́nh dung rằng Đức Giêsu
đă viết tên của chúng ta – tên bạn và
tên tôi – trên đất và nói: “Ai trong các ngươi
sạch tội, hăy ném đá chị ấy trước
đi!” (Ga 8,7-8)? Xin mở ngoặc để nói
thêm ở đây: nhiều người li dị
đến gặp tôi không thể bị gọi là
những kẻ ngoại t́nh – theo bất cứ
nghĩa nào!
Người linh mục đích
thực không phải là một quan ṭa cũng không
phải là một robot bị đóng hộp trong
những phạm trù phán quyết quá đơn
giản. Phần ḿnh, thú thực tôi rất
xấu hổ nếu cảm thấy ḿnh hơi thoáng
nghiêng về ư nghĩ rằng những người
li dị và tái hôn là những người “đang
sống trong t́nh trạng tội trọng một cách
khách quan” sau khi họ đă chịu đựng
quá nhiều nỗi khổ đau và ô nhục
trong biến cố găy đổ hoàn toàn cuộc
hôn nhân thứ nhất của ḿnh.
Săn sóc một cách chữa trị
cho những người li dị, đó cũng là
một trắc nghiệm đo lường
quyết tâm đại kết của Giáo Hội.
Các Kitôhữu Chính Thống và nhiều Kitôhữu
thuộc các giáo hội Cải Cách khác rất choáng
váng trước sự khắc nghiệt của
những giám mục và linh mục Công Giáo cố
khư khư bám vào một hữu thể luận
nặng tính pháp lư lỗi thời để
cắt xén, bóp méo hoặc thay thế hoàn toàn nhăn
quan của Thánh Kinh về tính bất khả phân
ly bằng lối suy nghĩ và kiểm soát quá
đơn giản hóa và quá nhũng nhiễu
của họ. <OJ>
|