BERNARD
HARING, C.SS.R.
------------------------------
GIÁO HỘI
CẦN
LOẠI
LINH MỤC NÀO ?
------------------------------
<OJ>
-2001-
Lm.
Lê Công Đức
Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD
IMPERILED,
A
Critical Examination Of The Ministry
In
The Catholic Church
Của:
BERNARD HARING, C.SS.R.
Do
nhà: TRIUMPHTM
BOOKS,
Liguori,
Missouri xuất bản
6.
CHỨC LINH MỤC VÀ ĐỜI SỐNG CHỦNG
VIỆN
THEO
MẪU THỨC TRIĐENTINÔ
Trong
suốt thời Trung Cổ, người ta đă
nghe vô số những tiếng ta thán về các
linh mục và các giám mục bất tài và
thiếu năng lực mục vụ. Mặc dù
đă có một số nỗ lực được
ghi nhận trong thời cải cách, t́nh h́nh
vẫn xem ra không thực sự thay đổi ǵ
xét về lâu dài. Mối thông giao giữa ngai vàng
và bàn thờ đă dẫn đến việc
bổ nhiệm hay tuyển chọn các giám mục
hay thậm chí một số giáo hoàng trong thực
tế không được chuẩn bị ǵ
về thần học, tu đức và mục
vụ. Cũng may là các ḍng tu cải cách và các
tu viện đă đào tạo được
một số nhân vật có năng lực, nhưng
những cố gắng này cũng không đủ
để hóa giải các vấn đề về
giáo sĩ triều. Những vụ ‘ră ngũ’
ào ạt của các giám mục và các linh mục
vào thời cải cách rất có thể đă không
xảy ra nếu như Giáo Hội đă chuẩn
bị cho họ một cách tốt hơn.
Những nỗ
lực không thể phủ nhận của thời
cải cách
Công
Đồng Triđentinô nghiêm túc quan tâm tới
thực tại bi đát này, xem việc chuẩn
bị tốt hơn cho chức linh mục là
một trong những công việc chủ yếu
của ḿnh. Phải công bằng mà nói rằng Công
Đồng này đă cố gắng hết
sức trong hoàn cảnh cho phép. Căn cứ vào các
qui luật được ban hành nhằm thiết
định một mẫu thức đời
sống chủng viện theo Công Đồng Triđentinô,
Giáo Hội Công Giáo trong vài thế kỷ đă
bảo đảm được việc giáo
dục cho một hàng ngũ giáo sĩ nhiệt tâm
và giàu tri thức. Trong khi không thể trách cứ
ǵ ở đây, chúng ta vẫn cần ghi nhận
rằng mẫu thức này là một nền giáo
dục đối phó với t́nh h́nh nhất
thời song được cắm rễ trong
một truyền thống cứng nhắc.
Các
đại chủng viện đảm nhận công
việc giảng dạy triết học và
thần học, trong khi các tiểu chủng
viện chỉ cung cấp một sự chuẩn
bị xa cho chức linh mục. Tuy nhiên, đứng
trước những điều kiện xă
hội học nhất định của thời
đó, việc tuyển sinh có khuynh hướng
ưu tiên. Trong khi các gia đ́nh quí phái không
gửi các con đầu ḷng của họ vào
chủng viện – v́ lư do nối dơi tông
đường – th́ những người con
thứ được sốt sắng gửi vào
với hy vọng rằng họ sẽ trở thành
những giáo sĩ có địa vị cao và đạt
được nhiều danh vọng.
Đối
với những gia đ́nh thuộc tầng
lớp nghèo hơn th́ gửi con vào chủng
viện là cơ hội duy nhất để con cái
ḿnh đạt được một vốn
liếng học vấn khấm khá. Các tiểu
chủng viện cũng chuẩn bị cho
nhiều người bước vào các ngành
nghề khác, chẳng hạn ngành y tế. Xét
về lâu về dài, đó là một nền giáo
dục có một ảnh hưởng quan trọng
về mặt văn hóa cho một số quốc
gia. Chẳng hạn, ở một số quốc
gia Phi Châu đă giành lại độc lập, người
ta ngạc nhiên nhận thấy rằng đa
số các nhà lănh đạo chính trị giàu năng
lực đă từng qua chương tŕnh học
vấn trong các tiểu chủng viện, nhưng
do không đáp ứng được luật độc
thân nên họ đă quyết định không
trở thành linh mục.
Trong
thời đại hậu Công Đồng Triđentinô,
một sự thực hiển nhiên là tŕnh độ
học vấn của các giáo sĩ cao hơn
nhiều so với thời Trung Cổ. Giáo Hội
Công Giáo và các Giáo Hội chủ chốt của
Tin Lành đều cố xây dựng một hàng giáo
sĩ được đào tạo kỹ lưỡng
và có tính đồng nhất một mức nào
đó, với những lư tưởng và những
quan điểm tương tự nhau. Nhưng thường
xuyên - và phải nói thêm là không may - rằng các
Giáo Hội cũng cố xây dựng một hàng
giáo sĩ rập khuôn trong những ư thức
hệ giống hệt nhau nữa.
Được
đào tạo để hiểu biết luật
Giáo Hội và giáo thuyết của Giáo Hội
một cách chính xác, các linh mục tất nhiên
phải tuân thủ các qui tắc đời
sống được giáo luật xác định
cặn kẽ. Nghĩa là, họ ”biết”
một lần thay cho tất cả rằng họ
được yêu cầu những ǵ. Tuy nhiên,
trong sách lược đào tạo linh mục này
không hề thấy có nhăn giới nào về
một chương tŕnh huấn luyện thường
xuyên (hay c̣n gọi là thường huấn).
Do
cơ chế bổ nhiệm giám mục phổ
biến thời ấy, đa số các ứng viên
đều xuất thân từ tầng lớp quí
tộc; và các tiêu chuẩn tuyển chọn không
hề cắm rễ trong Thánh Kinh cũng chẳng
xuất phát từ các mối quan tâm mục
vụ. Tuy nhiên, sẽ là bất công trầm
trọng nếu chúng ta phán xét cơ chế
của thời hậu Công Đồng Triđentinô
bằng lăng kính của chúng ta thời nay.
Một cách không phê phán, chúng ta có thể nghĩ
rằng Giáo Hội đă làm mọi điều có
thể trong hoàn cảnh thời đó. Công Đồng
Triđentinô cũng không phải chịu trách
nhiệm về thời gian sau này – bởi lúc
bấy giờ các hoàn cảnh đă trở nên hoàn
toàn khác và những cải cách của Công Đồng
đă hóa thành hoàn toàn lỗi thời rồi.
Trục trặc căn bản: tách ly và kỳ
thị
Lên
chín hay mười tuổi, các cậu thiếu niên
được cha sở tuyển chọn dựa
trên khả năng học vấn và tính t́nh (tính
t́nh ở đây được hiểu trước
hết phải là tính cách ngoan ngoăn và vâng
phục tuyệt đối). Các cậu được
niêm kín trong một môi trường mới,
hầu như cách ly khỏi gia đ́nh, hiếm
khi các cậu được gặp người
nhà của ḿnh – và tất cả điều này
được giải thích là để
“bảo vệ ơn gọi”.
H́nh
ảnh thê thảm nhất, mà tôi vẫn c̣n trông
thấy ở Rôma cách đây khỏang 50 năm, là
h́nh ảnh một chủng sinh mười hai
tuổi bị buộc phải mặc áo chùng thâm
mọi nơi mọi lúc, kể cả khi chơi
thể thao. Chiếc áo chùng thâm ấy đă
trở thành dấu hiệu thiêng thánh cho biết
rằng kẻ vận nó đă được
chọn và được tách riêng ra.
Hồi
ấy, một giám đốc đầy uy tín
của “Đại Chủng Viện” ở Rôma
và đồng thời là một nhà giảng
thuyết tĩnh tâm cho các giám mục đă
viết một quyển sách có tựa đề là
Phương Pháp Đào Tạo Hiện Đại
Cho Các Linh Mục Tương Lai. Trong quyển sách
này, tác giả nói rằng v́ ích lợi của
ơn gọi linh mục, cần phải thực
hiện một nền giáo dục “vô tính”
(asexual). Kết quả là, không được cho
phép một phụ nữ nào lảng vảng đến
gần các bức tường chủng viện,
cả trong nhà bếp và trong bệnh xá cũng không
được có bóng dáng phụ nữ. Các cô gái
và các phụ nữ trẻ không được
đến thăm chủng sinh. Cha và mẹ
chủng sinh không được phép thăm con ḿnh
cùng một lúc và trong cùng một pḥng khách.
Một linh mục nọ cay đắng kể
với tôi rằng hồi c̣n ở chủng
viện, có lần cha và mẹ anh ta cùng đến
để báo tin em gái anh đă qua đời. Anh
được phép gặp cha trước –
mẹ anh được dẫn sang một pḥng khác
ở dăy bên kia, chờ đến phiên được
gặp anh sau.
Tôi
đă từng được nghe rất nhiều
câu chuyện tương tự như thế - do các
cựu chủng sinh và các linh mục kể
lại trong các buổi gặp tư vấn
với tôi. Tôi thường ngạc nhiên tự
nhủ: “Vậy mà anh ta chỉ bị rối
loạn tới mức này thôi. Thật là may!” Tôi
cho rằng thời ấy và môi trường
ấy có thể cung cấp cho Eugen Drewermann
nhiều kinh nghiệm thú vị hơn so với
những kinh nghiệm mà ông thu thập về sau này
và ở trong một bối cảnh khác.
Dĩ
nhiên, đó không phải là chuẩn mực cho
chức linh mục theo Công Đồng Triđentinô.
Đúng hơn, đó là một trong những
dạng suy thoái của đời sống
chủng viện, và chúng ta cần phải đề
cập đến nó bởi v́ ngay cả trong
thời đại chúng ta, nó vẫn c̣n gây
ảnh hưởng rất nhiều cho Vatican và cho
các cơ chế khác trong Giáo Hội.
Có
thể nêu một ví dụ từ cuộc đời
Thánh Anphongsô Liguori để nhấn mạnh
sự rập khuôn của các thế kỷ trong quá
khứ. Gia đ́nh Anphongsô, vốn thuộc
tầng lớp quí phái, đă dự kiến
rằng anh sẽ là người thừa kế gia
sản và – do đó – đă cung cấp cho anh
một nền học vấn thượng hạng.
Một trong các em gái của Anphongsô được
đính hôn với một nhà quí tộc, c̣n hai em
trai và ba em gái khác th́ được gia đ́nh
dự kiến cho đi tu. Một cô em gái của
Anphongsô, mới lên năm tuổi, đă
được gửi vào một nhà ḍng nội
cấm để “chuẩn bị cho ơn
gọi của con bé”. Chẳng có ǵ phải
ngạc nhiên khi chúng ta biết rằng về sau,
trở thành nữ tu, cô em gái ấy của
Anphongsô đă có những trục trặc lớn
về tâm lư.
Khi
Anphongsô từ bỏ sự nghiệp của ḿnh
trong ngành luật, người cha ngoan đạo
của anh rất có thể đă không bối
rối ǵ nếu Anphongsô - trong bối cảnh
thời ấy - khao khát một sự nghiệp giáo
sĩ và nhắm đến một địa
vị cao trong Giáo Hội. Thế nhưng, điều
xảy ra là linh mục Anphongsô đă kết thân
và phục vụ cho Lazzeroni, tức những
kẻ lang thang trên đường phố của
Thành Naples – và sự kiện này đă được
ông bố coi là một tai tiếng.
Nhiều
yếu tố có tính củng cố hay có tính bù
trừ rất thường được người
ta tính đến. Các thứ nam của những
gia đ́nh quí phái thường được cha
mẹ hoạch định ngay từ đầu
sẽ trở thành giám mục hay ít nhất cũng
là một giáo sĩ có đẳng cấp. Các
cậu ấm có năng lực trung b́nh của
những gia đ́nh giàu có và các con trai có tài năng
của những gia đ́nh nghèo sẽ được
trao cho cơ hội để đạt đến
một địa vị cao trong xă hội. Đây
là một phần làm nên bối cảnh lịch
sử cho năo trạng tham quyền cố vị,
một năo trạng vẫn c̣n tồn tại đây
đó cả trong thời đại hôm nay.
Năo
trạng tham quyền cố vị đă và
vẫn c̣n đang là một cám dỗ lớn làm
cách ly và phân rẽ các ứng viên và các linh
mục ra khỏi dân chúng. Thú thật, tôi không thích
thú ǵ khi đề cập đến t́nh
trạng này, nhưng chúng ta phải đối
diện với thực tại để, thứ
nhất, nhận hiểu bối cảnh đặc
thù của quá khứ và các vấn đề
của hiện tại - và thứ hai, để
chữa trị và pḥng tránh nguy cơ loại
bệnh họan xă hội này xảy ra trong tương
lai.
Một
triệu chứng khác của mặc cảm tự
tôn nơi giáo sĩ là việc sử dụng
cụm từ “khiết tịnh hoàn toàn” -
được hiểu một cách sai lầm là
chỉ được gán cho sự độc thân
của các tu sĩ và giáo sĩ. Trái lại, theo
giáo thuyết trên giấy trắng mực đen
của Công Đồng Vatican II và trong sự tương
hợp hoàn toàn với Tân Ước, mọi Kitôhữu
đều được mời gọi nên thánh
và nên trọn lành. Mọi Kitôhữu, v́ thế,
cũng đều được mời gọi
trở nên khiết tịnh hoàn toàn – song đây
là một sự khiết tịnh tương
hợp với các đặc điểm riêng
của bậc sống của họ.
Những
người kết hôn được mời
gọi sống sự khiết tịnh vợ
chồng, dĩ nhiên sự khiết tịnh này không
hoàn toàn giống với sự trinh tiết
của người độc thân. Tuy nhiên, đó
vẫn là một tiếng mời gọi họ
phấn đấu đạt được
sự khiết tịnh hoàn toàn. Theo quan điểm
của tôi, cụm tư ”khiết tịnh hoàn toàn”
được hiểu như dành riêng cho người
độc thân thật là một cái ǵ hết
sức vô căn cứ – và cách hiểu như
vậy chỉ khoét sâu thêm nguy cơ chia rẽ.
Thiết
tưởng cần phải đề cập đến
nguy cơ này trong ánh sáng của những phê b́nh
hiện nay. Nhiều linh mục than văn rằng
ơn gọi linh mục đă suy giảm trầm
trọng kể từ Vatican II. Họ có khuynh hướng
qui gán rằng sở dĩ xảy ra sự khan
hiếm này là do bởi tư tưởng tự
do mới và do bởi sự phủ nhận
việc vâng phục tuyệt đối. Điều
chúng ta cần đến hôm nay không phải là
những tố cáo sai lầm và thiếu căn
cứ nhưng là một niềm trung thành vững
chăi hơn đối với Tin Mừng và một
nhận thức mới về tính xác thực (authenticity).
Mọi biểu hiện của mặc cảm
tự tôn và mọi động lực có tính
nhập nhằng đánh lận con đen phải
được lật tẩy và phơi trần,
phải được triệt nhổ tận
gốc rễ trong ánh sáng của Người Tôi
Tớ Giavê. Trong quá tŕnh ấy, cơn khủng
hoảng hiện nay có thể trở thành một
cơn khủng hoảng đầy hồng phúc,
một cơn khủng hoảng giúp lớn lên xuyên
qua những nỗ lực đầy triển
vọng cố bứt ra khỏi một chức
linh mục nông cạn và thay vào đó bằng
một đời sống linh mục sâu xa hơn
và vững chăi hơn. Không c̣n ngờ ǵ nữa,
chúng ta phải đọc các dấu chỉ
của thời đại, nhưng việc đọc
như thế chỉ có thể được
thực hiện bằng một niềm trung thành
mới mẻ đối với ơn gọi căn
bản Kitôhữu và ơn gọi linh mục như
được hiện thân nơi Đức Giêsu,
Vị Ngôn Sứ và Người Tôi Tớ khiêm nhường.
Một triết
học và thần học đă lỗi thời
Không
kể một số rất ít ngoại lệ, các
chủng sinh được nhồi nhét cũng
chỉ thứ triết học cũ rích bất di
bất dịch ấy, cũng chỉ thứ
thần học cổ điển ấy, cũng
chỉ những chân lư bất biến ấy,
bất chấp bao nhiêu sự khác biệt sừng
sững về văn hóa. Tất cả các chân lư
đều được hiểu như rơi
trực tiếp từ trời xuống và không
cần đưa ra bất cứ sự xem xét nào
về các bối cảnh thời gian và văn hóa
nhất định. Vai tṛ của cảnh vực
không bao giờ được xem xét đến, và
không biết từ bao giờ chưa hề
thấy có một sự chú ư nhỏ nhoi nào
được dành cho sự kiện rằng để
trung thành với Lời Nhập Thể, Giáo
Hội phải luôn luôn t́m kiếm những cách
thức mới mẻ để “nhập thể”
vào văn hóa – nói tắt là: để hội
nhập văn hóa. Mối quan tâm chính yếu
duy nhất là quan tâm đến tính đồng
nhất của giáo sĩ nhằm phục vụ
cho mục tiêu hiệp nhất. Nhưng loại
hiệp nhất nào đây? Chỉ mới gần
đây, nhờ đánh giá lại được
tầm quan trọng của đại kết, chúng
ta mới hiểu đúng hơn ư niệm về
một sự hiệp nhất được xây
dựng bởi những nét khác biệt được
ḥa giải với nhau và bởi việc cùng chia
sẻ mối ưu tư đối với công
cuộc không ngừng hội nhập văn hóa
của Tin Mừng mọi nơi và mọi thời.
Để
trả lời một cách thiết thực cho câu
hỏi căn bản của chúng ta: Giáo Hội
cần loại linh mục nào?, tất nhiên chúng
ta phải nêu lên một loạt những câu
hỏi liên quan khác – trong đó một câu
hỏi rất quan trọng là: Thế giới hôm
nay đang cần loại Giáo Hội nào? Loại
Giáo Hội nào có thể hết sức trung thành
đáp trả tiếng gọi của Tin Mừng và
của Đấng Chủ Tể lịch sử? Chúng
ta không được phép quên rằng giai đoạn
hiện tại của lịch sử nhân loại
được đánh dấu bởi một
cuộc bùng nổ các biến cố và các
biến chuyển lịch sử, bởi sự
hiểu biết rơ hơn về lịch sử quá
khứ trong tất cả tính đa dạng
của nó, bởi một nhận thức mới
mẻ về tính đa nguyên hiểu như
yếu tố giúp làm phong phú lẫn nhau, và
cuối cùng, bởi nhu cầu cần phải có
một sự biện phân sâu sắc hơn.
Một
câu hỏi khác chúng ta có thể nghĩ đến
là: Trong việc biện phân các biến cố văn
hóa và các biến cố có tính toàn cầu trong ánh
sáng của Người Tôi Tớ phi bạo
lực của Giavê, đâu là những cơ
hội cho dân Thiên Chúa cộng tác với các linh
mục để loại trừ tinh thần thâm căn
cố đế nô lệ cho chiến tranh và để
loại trừ sự kích động bạo
lực trong tất cả các h́nh thức của nó?
Đành
rằng càng ngày chúng ta càng ư thức hơn
về bản chất tiệm tiến của
sự thay đổi, song chúng ta cũng không
thể bỏ qua sự thực rằng một
số thay đổi đang diễn ra quá chậm
chạp. Cần phải nhấn mạnh rằng, nói
chung, sự dồn dập của những tiến
tŕnh lịch sử không cho phép chúng ta thoải mái
ngồi chờ một
cách thụ động.
Tại
bước quặt hiện nay của lịch
sử, ư niệm về một hàng giáo sĩ hoàn
toàn “đồng nhất” với những qui
tắc đồng nhất được ấn
định bởi một nhăn quan phiến
diện (cụ thể, đó là một quan điểm
thuần túy Tây phương với sự tập
quyền và toàn trị) là một cái ǵ hết
sức kỳ quái trong Giáo Hội. Giỏi lắm
nó chỉ biến Giáo Hội thành một thứ
bảo tàng viện vui vui mà thôi. Giáo Hoàng Gioan
XXIII đă nhận thức rất rơ điều này.
Tôi không bao giờ quên lời ngài nói với các
nhà thần học mà ngài đă đích thân
chọn hay đă phê duyệt để chuẩn
bị cho Công Đồng. Đầu tiên, với
vẻ ngán ngẩm rất rơ, ngài bắt đầu
đọc một tài liệu mơ hồ nào
đó, và rồi bất th́nh ĺnh ngài bỏ
tập giấy kia qua một bên và nói với
giọng sâu lắng: “Xin quí vị đừng
bao giờ quên rằng Giáo Hội không phải là
một viện bảo tàng!”
Vận
dụng lại mẫu thức cải cách linh
mục của Công Đồng Triđentinô làm
mẫu thức và làm qui tắc cho cuộc cải
cách hiện nay? Đó là điều hết
sức sai lầm và chỉ có nghĩa là hy sinh
cả hiện tại và tương lai để
hậu thuẫn cho một quá khứ mà chúng ta không
bao giờ có thể quay về. Vấn đề
được báo động khẩn trương
ở đây là chính sự tín nhiệm của người
ta đối với chức linh mục.
Trong
thế kỷ vừa qua ở Đức, rất
nhiều giáo sĩ đă nhận được
sự đào tạo trí thức tại những
đại học do nhà nước bảo trợ,
ở đó cái gọi là philosophia perennis (triết
học cổ điển đồng nhất)
đă nhường chỗ cho một thế
giới quan có cảm thức lịch sử
rộng thoáng về lịch sử cứu độ
xét như là trọng tâm của thần học.
Trong ánh sáng của cảm thức mới này, các
nhà thần học kiệt xuất đă xuất
hiện như Johann Adam Mohler, người đă
định h́nh thần học tín lư, Johann Michael
Sailer, Johann Baptist Hircher và Franz Xavier Linsenmann, người
đă mở ra một thần học luân lư đầy
kích cảm, sống hoạt và có tính năng
động về mặt lịch sử.
Những
nỗ lực đầy triển vọng nhằm
đem lại sự canh tân đích thực này, cũng
như nhiều dấu hiệu hy vọng khác trong
Giáo Hội sau cuộc Cách Mạng Pháp, đă
bị cản trở bởi cái gọi là Khôi
Phục, một khuynh hướng phản
ứng trong Giáo Hội bắt nguồn từ
Hội nghị Vienna năm 1816 khi Khối Liên Minh
thần thánh giữa giáo hoàng trong tư cách là
nguyên thủ của Giáo Hội và các hoàng đế
Nga, Ao, Phổ gặp nhau nhằm mục đích khôi
phục lại các quyền lực chuyên chế
của các vị.
Thực
ra đây là một liên minh ma quỉ mà hệ
quả tệ hại nhất của nó là việc
lạm dụng tôn giáo, hoàn toàn đối
nghịch với h́nh ảnh người linh
mục bước theo Đức Giêsu Kitô, Người
Tôi Tớ khiêm nhường của Thiên Chúa trong
chương tŕnh phi bạo lực của Ngài. Hơn
nữa, nó hoàn toàn đối nghịch với nhăn
giới tiên tri của Đức Giêsu thể
hiện qua việc Ngài lật tẩy các mưu chước
Satan nhằm cám dỗ người ta sử
dụng tôn giáo để mưu cầu quyền
lực trần tục (x. Mt 4,8-10). Thiết tưởng
có thể thêm ở đây rằng mối liên
minh nói trên cũng đă dẫn đến
những hậu quả hết sức tiêu cực
trong lănh vực đào tạo linh mục nữa.
Ít
lâu sau Công Đồng Vatican II, tôi được
gọi tới “cung điện” của ṭa thánh.
Tại đó, Hồng Y Pietro Parente, một sản
phẩm đặc trưng của nền giáo
dục chủng viện theo Triđentinô và của
chức linh mục nhiễm mùi danh vọng, đă
trao cho tôi hai lời cảnh cáo: “Nếu anh
cứ tiếp tục theo kiểu của anh, anh
sẽ không có một cơ hội tiến thân nào
đâu,” và “Tôi nghĩ đă đến lúc
anh cần ngừng lại.” Độc giả
hẳn không khó nhận ra mối liên hệ
giữa hai lời cảnh cáo ấy. Quả
thật là sung sướng cho tôi việc tôi
sẽ không bao giờ có danh vọng, tôi cũng
sẽ không tự trấn áp các quan điểm
của ḿnh bao lâu chúng c̣n phản ảnh
tiếng gọi linh mục của Người Tôi
Tớ khiêm nhường và phi bạo lực
của Giavê.
Xin cảnh báo: hăy
tránh xu hướng khái quát hóa
Việc
t́m hiểu thần học và lịch sử không
thể được thực hiện nếu không
có một số tiêu thức nào đó. Dù vậy,
chúng ta phải hết sức cẩn thận để
không khái quát hóa thái quá. Tiêu thức luận
(typology) cho chúng ta biết rằng trong Giáo Hội
Latinh trước Vatican II, hàng giáo sĩ có tính
đồng nhất, ổn định, vâng
phục và qui củ thật đáng kinh ngạc, và
đôi khi thậm chí người ta lầm
lẫn rằng như thế là hiệp nhất. Hơn
nữa, rất nhiều linh mục trung thành
bền bĩ với kinh nhật tụng và hăng
say trong bổn phận “cứu các linh hồn”.
Tuy
nhiên, ở đây ta không được khái quát
hóa xa hơn nữa. Cần phải ghi nhận rơ
rằng trong mọi thế kỷ, nhất là trong
hai thế kỷ vừa qua, luôn luôn có những
linh mục phi thường, thấm đẫm tính
cách độc đáo và sáng tạo, đă thoát
ra khỏi những chuẩn mực. Tôi thiển
nghĩ rằng một linh mục có nhân cách
trỗi vượt có thể tác động tích
cực đến thế giới nhiều hơn là
một trăm bản sao loại xoàng của
loại linh mục rập khuôn máy móc.
Trong
số những khuôn mặt lớn, có thể
kể đến Thánh Inhaxiô Loyola, Thánh Anphongsô
Liguori và Thánh John Neumann. Ngay cả Thánh Gioan Vianney,
một đại diện thứ thiệt của
mẫu thức giáo sĩ theo Triđentinô, cũng
là một thiên tài trong việc dẫn dắt người
ta bước vào sự an b́nh và thánh thiện
nội tâm. Cũng c̣n phải kể đến
John Henry Newman nữa, một con người
cải giáo và trở thành một linh mục Công
Giáo vĩ đại bậc nhất của
thế kỷ 19; ngài đă nhận được
sự đào tạo ban đầu trong phong trào
Oxford và đă được bổ nhiệm làm
hồng y ở tuổi xế chiều. Cần
phải có cả một pho sách mới có thể
tŕnh bày hết những đóng góp của ngài
cho công cuộc canh tân việc đào tạo linh
mục.printer spooler service is not running
Bartholomew
Holzhauser (1613-1658), một linh mục triều, cũng
là một mẫu gương kiệt xuất cho
thấy những ǵ mà một con người giàu
đặc sủng có thể làm để đóng
góp cho cuộc canh tân Giáo Hội. Trong suốt
cuộc Chiến Tranh Ba Mươi Năm, ngài
đă thành công trong việc thuyết phục
nhiều cha xứ sống đời sống chung,
chia sẻ với nhau mọi sự, nhất là chia
sẻ đời sống cầu nguyện và công
việc mục vụ. Những linh mục này là
những kiểu mẫu của “nhà cầu
nguyện”. Trên khắp vùng đất Bavaria và
Ao, người ta thấy mọc lên những trung
tâm cổ vơ sự cải cách đích thực
trong Giáo Hội – qua đó chứng tỏ
rằng Thần Khí (ruah) muốn thổi
đâu th́ thổi.
Những ơn
gọi linh mục ở tuổi muộn màng
Có
một sự kiện thật thú vị, đó là
đa số các khuôn mặt kiểu mẫu đều
bước vào chức linh mục ở một
độ tuổi khá muộn màng, khi đă có
nhiều kinh nghiệm sống phong phú. Tất
cả các linh mục Ḍng Chúa Cứu Thế
được phong thánh cũng đă bước
vào chức linh mục khá muộn trong tuổi
đời, chẳng hạn các Thánh An-phong-sô,
Clement Hofbauer và John Nepomucene Neuman, vị tông đồ
của những người dân nhập cư vào
Hoa Kỳ và là người - với năng
lực và khả năng tiên liệu phi thường
- đă tổ chức cả một hệ
thống các trường học Công Giáo. Peter
Donders, người tôi tớ hèn mọn của
những người cùi và là tiếng nói ngôn
sứ mạnh mẽ chống lại cơ chế
nô lệ, đă đi tiên phong trong phong trào linh
mục thợ. Những con người trở
lại và những ơn gọi muộn mằn
lừng danh ấy, vốn đă được
đào tạo chín muồi về trí thức và
đă dày dạn trong kinh nghiệm sống, đă
trở thành một thứ cầu nối giữa
các giáo sĩ có nguy cơ tách ly xa rời
cuộc sống và cảnh vực đời
thường của dân chúng với tất cả
những thực tế của nó.
Thánh Anphongsô Liguori,
mẫu gương điển h́nh của
“một người trong chúng ta”
Ở
tuổi 17, Anphongsô hoàn thành một cách xuất
sắc học vị tiến sĩ về dân
luật và giáo luật. Hai mươi tuổi,
được coi là một trong những luật
sư uy tín nhất ở Naples, ngài đă “quay
lưng lại với thế giới” – như
chính lời ngài tự bạch.
Anphongsô
muốn nói đến loại thế giới nào
khi nói: “Hỡi thế giới, giờ đây
ta đă biết ngươi!” Đó là
một thế giới trong đó một tôn giáo
nặng h́nh thức và đầy bổng lộc
cung ứng những địa vị thế giá và
những tước hiệu cao trọng cho các
ứng viên có tiềm năng. Anphongsô quay lưng
lại với một thế giới vốn tiêu
biểu cho một thứ “đa thần giáo”,
một hỗn hợp của danh, phú và thú – và
cả Thiên Chúa nữa cũng được
lộng vào trong cuộc đổi chác này. Món
‘thập cẩm’ ấy buộc chúng ta đặt
ra câu hỏi: “Đó là loại Thiên Chúa nào
vậy?”
Đối
với nhiều linh mục, Thiên Chúa của Công
Đồng Triđentinô được khắc
họa như một Thiên Chúa đứng
về phía những người có quyền
lực và những người có cấp bậc
cao trong Giáo Hội. Loại đa thần này có
thể sống c̣n một cách thoải mái,
thậm chí có thể hậu thuẫn cho các tín
điều của đức tin Công Giáo, bao lâu
thói tự tôn của giới tư tế vị
vọng chưa được lột trần và
chưa được vượt qua.
Ngay sau
khi được truyền chức linh mục,
Anphongsô tiếp tục triệt để
chống lại khuôn mặt Thiên Chúa đầy tính
vương giả và quí tộc ấy qua việc
ngài hoàn toàn dấn thân phục vụ cho người
nghèo, cho những người bị bỏ rơi
và bị khinh miệt nhất. Thật vậy,
sự dấn thân này là lư do nền tảng
giải thích việc Anphongsô thoát ly khỏi
thế giới của những người giàu,
của những người quyền thế,
nhất là thoát ly khỏi “thế giới”
được hiểu theo nghĩa xấu: sự
lạm dụng tôn giáo để phục vụ
cho quyền lực và danh vọng.
Như
chúng ta đă ghi nhận, sự dấn thân đầu
tiên của Anphongsô nhắm đến những người
Lazzeroni. Ngài không chỉ quan tâm săn sóc
những kẻ bơ vơ không nhà, mà hơn
thế nữa, ngài biến họ thành những người
cộng tác để xây dựng các nhóm huynh
đệ trong chính tầng lớp của họ.
Ngài tổ chức các “lớp đêm dạy
cầu nguyện” trong đó những con người
này tham dự một cách đầy năng động
và sáng tạo. Thiên năng của Anphongsô bộc
lộ nơi sự săn sóc ân cần của ngài
đối với người nghèo không
nhiều bằng nơi sự kính trọng mà ngài
dành cho họ, đặc biệt qua việc ngài
sẵn sàng tín nhiệm họ trước, ngay
cả khi ‘sự tín nhiệm trước’
ấy của ngài không đem lại kết
quả tức thời.
Cha
của Anphongsô, một nhà quí tộc có tính cách
hướng nội, là một người dễ
nóng nảy nhưng đồng thời rất e dè.
Trong nhiều năm, ông không nói chuyện với
Anphongsô – đứa con mà ông cho là phản
bội lại danh giá của gia đ́nh. Một hôm,
ông bố quí tộc này đi ngang qua một nhà
thờ chen chúc người, và một bài hát
cảm động đă thu hút sự chú ư
của ông. Ông ṭ ṃ bước vào ... và rất
đỗi ngạc nhiên khi nhận ra đứa
con trai mà ông kể như đồ bỏ đang
hát bài Tin Mừng từ trên thư đài và
đang truyền cảm xúc sâu lắng cho cả
cộng đoàn đang hiện diện. Đó là
khoảnh khắc hoán cải của ông bố này
– ông bắt đầu ước mơ không
chỉ tham gia vào cộng đoàn mới thành
lập này mà ông c̣n mong muốn trở thành
một chức việc cho nhà thờ. Vốn
thực tiễn, Anphongsô đă từ chối
nguyện vọng đó của cha ḿnh.
Các
bạn đồng hành đầu tiên của
Anphongsô – ban đầu chuyên giúp đỡ những người nghèo túng và
bị bỏ rơi ở Naples, về sau đảm
nhận việc săn sóc mục vụ cho các dân
quê nghèo – tất cả đều trở thành
linh mục khi tuổi đời đă khá
muộn. Chính trong tinh thần phản kháng một
cách yêu thương và phi bạo lực chống
lại một số sự dữ nổi cộm
trong Giáo Hội thời đó mà ngoài ba lời
khấn truyền thống, Anphongsô và các bạn ḿnh
c̣n thêm hai lời khấn hoàn toàn mới: -ưu
tiên kính trọng và quan tâm tới người nghèo,
những người bị khinh miệt, bị
bỏ rơi; và –không bao giờ săn đuổi
hay chấp nhận các danh dự, đặc
quyền, tước vị hay thậm chí chức
giám mục trong Giáo Hội.
Trong
những năm Anphongsô học chương tŕnh
thần học, có một khuynh hướng
khắt khe cứng nhắc rất phổ biến
nơi các giáo sư của ngài, nhất là nơi
những người giảng dạy môn thần
học luân lư. Thật khó cho Anphongsô tách ḿnh ra
khỏi khuynh hướng này. Vậy điều ǵ
đă giúp Anphongsô làm được chuyện
đó? Theo nhận xét của tôi, đó chính là
cuộc thoát ly gồm ba chiều kích mà ngài đă
thực hiện: thoát ly khỏi thế giới
đặc quyền để dứt khoát đi
tới với những người nghèo và
những người bị khinh miệt; thoát ly
khỏi ḷng tự tôn về văn hóa để
đến với những con người
đơn sơ chất phác và hấp thụ tính
cách đơn sơ của họ; và cuối cùng,
thoát ly khỏi cái thế giới lạm dụng
tôn giáo và trục lợi cá nhân để đạt
đến tấm ḷng và nhăn quan của Đức
Kitô, Người Tôi Tớ Đau Khổ của
Giavê. Một lần nữa, ở đây tôi
muốn qui chiếu đến bản văn Mt
4,1-11, trong đó Đức Giêsu được mô
tả như một người vạch mặt các
mưu chước Satan nhằm cám dỗ người
ta sử dụng tôn giáo để tranh thủ
bổng lộc trần thế, tranh thủ hào
quang, danh dự và quyền lực trên người
khác.
Những tranh căi
kỳ quặc về hiệu lực của
việc truyền chức
Cuộc
tranh luận lố bịch về chuyện ai (trong
số các kẻ được Đức Giêsu
chọn đi theo Người) sẽ là người
có địa vị cao nhất đă không
chấm dứt với các môn đệ thuở
đầu tiên ấy. Thật vậy, câu hỏi
thâm căn cố đế ấy c̣n ám ảnh nơi
Giáo Hội thời Constantine một cách lố
bịch hơn nhiều so với cuộc tranh
luận của các ngư phủ chất phác xưa
kia. Không thể đếm được bao nhiêu
cuộc tranh luận và bao nhiêu câu hỏi đă
được đặt ra xung quanh tính hiệu
lực của nghi thức bí tích, nhất là
của nghi thức truyền chức. Những
cuộc tranh căi ấy đă rộ lên vào
thời đó và vẫn c̣n tiếp tục cho
đến hôm nay.
Cách
đây hai năm, khi tôi ở Prague, tôi có dịp
có mặt tại một cuộc qui tụ một
số nhóm Công Giáo. Họ trước đó
vốn từng trải qua một giai đoạn dài
bị bách hại, phải sống chui nhủi và
đă phải truyền chức ‘chui’ cho
nhiều linh mục, một số các linh mục này
là những người đă kết hôn. Thật
tuyệt vời biết bao đức tin của
họ, thái độ dấn thân và tinh thần
đơn sơ của họ! Rơ ràng, những con
người được truyền chức này và
gia đ́nh của họ là những Kitôhữu
hết sức tuyệt vời.
Nhưng
có một vấn đề gây trăn trở
một cách không cần thiết cho những linh
mục này, đó là họ nghi ngờ tính
hiệu lực của việc truyền chức
của ḿnh – nỗi nghi ngờ ấy được
thổi phồng lên bởi một số thẩm
quyền trong Giáo Hội. Các linh mục và giám
mục này được truyền chức
một cách hết sức bí mật sau khi
được Giáo Hoàng Piô XII đích thân cho phép,
mặc dù ngài tránh các thủ tục ngoại giao
thông thường do phải cảnh giác mật
vụ cộng sản đang ráo riết hoạt
động lúc bấy giờ. Tôi có may mắn
gặp nhiều linh mục trong diện này và
cả một số giám mục nữa – trong
đó có một giám mục được
truyền chức một cách vô cùng kín đáo
bởi vị giám mục trước đây
của (giáo phận) Augsburg.
Vị
giám mục nói trên là một trong những vị
tiên phong dũng cảm nhất và có nhiều
ảnh hưởng nhất trong số những người
được truyền chức chui thời
bấy giờ. Không ai chối căi ông là một
con người linh lợi tháo vát, có ḷng can đảm
và khả năng tiên lượng trỗi vượt.
Thật đáng tiếc, một số quan chức
thiển cận ở Rôma đă tuyên bố
rằng ông mất quân b́nh tâm lư và do đó
việc truyền chức cho ông rất có thể
vô hiệu lực.
Phải
nghĩ sao về một tuyên bố kỳ cục
như thế? Nếu một sự mất quân b́nh
tâm lư được người ta quyết
đoán – chứ không phải được
chứng minh hẳn hoi – là lư do để người
ta nghi ngờ hiệu lực bí tích truyền
chức của đương sự, th́ chúng ta có
thể không bao giờ chấm dứt được
những mối nghi ngờ về bao thế hệ
linh mục, v́ chắc chắn trong lịch sử
có hàng ngàn giám mục (gồm cả những giám
mục trong thời đại chúng ta) bị
mất quân b́nh hơn cả vị giám mục nói
trên kia. Tiếc thay, ông đă qua đời
rồi và do đó không thể tự bênh vực
cho ḿnh được.
Đ̣i
các linh mục đă được truyền
chức chui, nhất là những người đă
kết hôn, phải được “truyền
chức lại” đúng qui định – đó
là điều hết sức quái đản. Người
ta khó chịu và ngán ngẩm gọi đây là
“siêu chức thánh” (superordination). Một số
người miễn cưỡng chấp nhận
lệnh này, trong khi những người khác
dứt khoát không chấp nhận. Giáo Hội không
có đủ các vấn đề thực để
giải quyết hay sao mà c̣n bày ra những vấn
đề nhân tạo như thế? Tôi
thực sự tin rằng những linh mục nói
trên – một cách độc đáo - là hiện
thân đích thực và sống động của
Đức Giêsu, Con Người, Đấng là
“một người giữa chúng ta”. Tôi cho
rằng cần phải coi các linh mục ấy như
là h́nh mẫu cho chức linh mục tương
lai.
Khi tôi
c̣n là một nhà thần học luân lư trẻ,
một số linh mục thuộc loại nguyên
tắc chi li, trong đó một số có chức tước
cao, đă đến t́m sự tư vấn
với tôi v́ cảm thấy bất an xung quanh tính
hiệu lực của bí tích truyền chức.
Bạn có thể tưởng tượng
được mối băn khoăn nhất
của họ là ǵ không? Họ tự hỏi không
biết hồi được truyền chức ḿnh
có đă đụng chạm cùng một trật
đến chén thánh, đĩa thánh và bánh thánh
trên bàn thờ hay không (vào thời ấy, sự
đụng chạm này được coi là dấu
hiệu chủ yếu cho hiệu lực của
việc truyền chức) – và họ lo
rằng nếu ḿnh đă không làm nghi thức
đó một cách thành sự th́ tất cả
những thánh lễ và những bí tích mà ḿnh
cử hành sau đó đă không có hiệu lực!
Rất may, Giáo Hoàng Piô XII đă chấm dứt
tất cả những băn khoăn ngớ
ngẩn này bằng cách chính thức tuyên bố
rằng nghi thức nói trên không có liên quan ǵ
với tính hiệu lực của việc
truyền chức.
Ngày
nay, trong nhăn giới đại kết, những
tranh luận xung quanh tính hiệu lực kiểu như
trên càng đặc biệt gây sốc. Các linh
mục Anh giáo trở về với Công Giáo
vẫn phải được truyền chức
đúng qui định, và sự tranh căi chính
yếu chống lại tính hiệu lực th́
thật khá kỳ quặc. Người ta nêu
lập luận rằng các giám mục Anh giáo
vốn trước kia ly khai khỏi Giáo Hội Công
Giáo trong thời Cải Cách đă không thật
sự biết ư nghĩa của bí tích truyền
chức và chức linh mục và, do đó, họ
có thể đă không có ư hướng đúng
đắn.
Nếu
lập luận ấy chứng tỏ có trọng lượng
đối với Rôma, th́ nên bắt đầu
“truyền chức lại” cho tất cả các
linh mục và giám mục của chính chúng ta
nữa. Nhưng ai sẽ làm điều này? Chúng
ta có thể tự hỏi rằng các giám mục
thời Phục Hưng của Giáo Hội Công Giáo
có ư hướng đúng đắn hay không.
Họ có hiểu biết hơn những người
kia về chức linh mục là ǵ không? Giáo Hoàng
Gioan XII phóng đăng được bầu lên ngôi
giáo hoàng năm 17 tuổi, trước mặt Chúa,
đă hiểu biết được bao nhiêu
về ư nghĩa của việc trở thành
một giám mục – chưa nói là trở thành
một giám mục Rôma? Thiển nghĩ để
khôn ngoan hơn, cần phải dẹp bỏ
những tranh căi và những quan tâm ngớ
ngẩn này và – thay vào đó – hăy cố
gắng nhận hiểu sâu xa hơn ư nghĩa
của truyền thống tông đồ am hợp
với toàn bộ Tin Mừng của Đức
Giê-su Kitô.
Nếu
chỉ bận bịu với vấn đề nghi
thức như thế, sẽ có những khó khăn
đặc biệt nghiêm trọng xung quanh vấn
đề kế thừa không gián đoạn
của các giám mục Rôma. Lịch sử nhắc
chúng ta nhớ rằng có nhiều giáo hoàng là
những kẻ buôn thần bán thánh được
bầu vào chức vị đó một cách không
ngay chính. Đă nhiều lúc người ta không
biết ai là người kế vị đích
thực của Thánh Phê-rô, nhất là trong
những thập niên có tồn tại đồng
thời đến hai hay ba giáo hoàng, một
số trong đó là những con người
bất xứng. Rơ ràng, có một tính tông
truyền trong Giáo Hội mà – nếu hiểu theo
một nghĩa thâm sâu hơn – có thể giúp chúng
ta chấm dứt một cách dễ dàng hơn
những tranh căi đần độn, nhất là
nếu chúng ta biết thiết tha với công
cuộc thăng tiến đại kết.
Cần biết hài hước
Khiếu
hài hước của chúng ta, một cách nào
đó, chắc chắn là một phản ảnh bé
nhỏ của khiếu hài hước vĩ đại
nơi Thiên Chúa. Nếu chẳng vậy, làm sao Thiên
Chúa có thể chịu được chúng ta
một cách vô cùng kiên nhẫn như thế? Hài
hước quả thật là một đức tính
đầy năng lực giải phóng và chữa
trị.
Chẳng
hạn đối với vấn đề về
tính hiệu lực, từ một nhăn quan sinh
vật học, chúng ta biết một số người
đàn ông có nhiều yếu tố nữ hơn
là yếu tố nam trong DNA (di truyền tố)
của ḿnh; thế nhưng xét mặt ngoài,
họ vẫn là đàn ông. Nếu, theo giáo
huấn của Vatican, phụ nữ không thể
được truyền chức một cách thành
sự, th́ bằng cách nào chúng ta giải thích
việc truyền chức cho các linh mục và giám
mục với những di truyền tố chứng
tỏ họ là nữ nhiều hơn là nam?
Xuất phát từ lập luận dựa cơ
sở trên sinh vật học được Vatican
sử dụng để bác bỏ việc
truyền chức cho phụ nữ, ta thấy
ở đây bật ra một câu hỏi thứ
hai, không kém hài hước: Chúng ta sẽ phán
đoán thế nào về hiệu lực của
việc truyền chức cho những người
là đàn ông theo di truyền tố song lại
bộc lộ cốt cách ẻo lả yếu
ớt như phụ nữ?
Điều
cần rút ra ở đây là: khi chúng ta khởi
đi từ những tiên đề sai lạc, th́
chúng ta sẽ không bao giờ có thể đạt
đến những cách giải quyết khả dĩ
hợp lư. Những lập luận hàm hồ,
thiếu cơ sở và viển vông có thể
được vượt qua một cách tốt
nhất, ít là phần nào, nếu ta có đủ
tinh thần hài hước.
Giáo Hội đang
cần loại thần học luân lư nào?
Rảo
qua cái thế giới kỳ quặc nhiễm
nặng bệnh nghi lễ, chúng ta trở về
với một câu hỏi cốt lơi về con người
linh mục tương lai. Đứng trước
thực tế rằng, một phần nào đó,
các linh mục đă được đào
tạo một cách méo mó bởi những hệ
quả tiêu cực của khuôn khổ luân lư và
nghi thức theo mẫu thức Triđentinô,
một câu hỏi căn bản đặt ra cho chúng
ta là: Người linh mục lư tưởng
của hôm nay và tương lai cần được
dạy cho thứ thần học luân lư nào, không
chỉ để đương sự nhận
hiểu chính bản thân ḿnh mà c̣n để giúp
cho đương sự trong sứ vụ rao
giảng Tin Mừng – một sứ vụ
thiết yếu bao hàm việc hướng dẫn
luân lư cho người ta?
Phần
đông các linh mục thuộc loại nệ nghi
lễ và gặp bối rối nhiều trong các
thế kỷ vừa qua đều là những
nạn nhân của một nền thần học
luân lư của Rôma. Họ bị đ̣i hỏi
phải học một danh sách dài liệt kê
những tội trọng được phân
loại chính xác, trong đó có nhiều tội
được coi là ex toto genere. Hàng trăm
câu hỏi về tội trọng được
giải đáp trong qui chiếu với các định
chế về nghi thức, và thường là ch́m
trong đám mây mù của những cấm kỵ.
Giáo
huấn về một sự vâng phục và trung thành
theo quan niệm hẹp ḥi đă dẫn tới
một thái độ khắc nghiệt trong đó
mọi chất vấn đụng chạm đến
thẩm quyền Giáo Hội đều bị
đè bẹp. Một thứ tinh thần khù
khờ xoàng xĩnh có thể sống c̣n
được trong một bầu khí có xu hướng
tiêu diệt mọi sự nghi ngờ nghiêm
trọng đối với chính thể chế.
Dĩ nhiên, những chủng sinh và linh mục
sắc sảo hơn sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn trong việc trấn áp các nghi ngờ
của ḿnh về tính chính đáng của một
hệ thống luân lư như thế và, do đó,
cách này hay cách khác những chủng sinh và
những linh mục này phải chịu khốn
khổ rất nhiều về mặt tâm lư.
Nhiều
người xem ra đă t́m được cách
giải quyết. Hàng trăm câu hỏi nhỏ
được mở ra để thảo luận,
và bởi v́ những tranh luận kiểu đó
sẽ không cùng, nên một số người có
cảm nghĩ rằng ít nhất qua đó họ
cũng phát triển được khả năng
biện phân. Nhưng những “câu hỏi mở
ra” này phần lớn lại không phản
ảnh những mối quan tâm nóng bỏng của
số đông dân chúng.
C̣n một vấn
đề nghiêm trọng khác nữa tập trung
xung quanh những thủ bản thần học luân
lư của Rôma được sử dụng
rộng răi lúc bấy giờ; những thủ
bản này đưa ra một cái nh́n hết
sức thiển cận về ân sủng, xem ân
sủng sự trợ giúp của Thiên Chúa để
người ta chu toàn mọi điều luật và
mọi qui tắc một cách trung thành. Thật xa
lạ biết bao với nhăn quan của Thánh Phao-lô
về ân sủng: “Anh em không thuộc về
Lề Luật, nhưng là thuộc về ân
sủng” (Rm 6,14). Thêm vào với vấn đề
này là vô số những luật phạt vạ
của Giáo Hội, chưa kể đến
một hệ thống chi li những tước
phẩm và vinh dự dành sẵn cho những linh
mục ngoan ngoăn vâng phục nhất. Thật là
một sự xuống cấp của đời
sống linh mục khi mà ḷng kính sợ chính đáng
đối với Thiên Chúa bị thay thế hay
bị pha trộn bằng một hệ thống
những h́nh phạt và những hứa hẹn!
B. F.
Skinner, một bậc thầy xuất chúng trong
việc huấn luyện chuột và khỉ, đă
quả quyết rằng con người cũng có
thể được huấn luyện như loài
chuột và loài khỉ, bằng cách sử
dụng một sách lược huấn luyện tương
tự bao gồm một sự pha trộn đúng
liều lượng giữa những phần thưởng
hấp dẫn và những đe loi kinh hoàng. Tôi
nghĩ rằng điều đó chỉ đúng
cho những kẻ yếu nhược, tầm thường,
nhất là khi những kẻ ấy bị niêm
trong một hệ thống luân lư nệ luật
kết hợp với một nền giáo dục
chỉ đề cao chuyện thưởng
phạt. Rất tiếc là Skinner không biết ǵ
về một nền thần học và giáo
dục luân lư đặt nền tảng trên kinh
nghiệm về ḷng quảng đại và về
tính nhưng không (gratuity). Sẽ thật
đáng xấu hổ nếu các vị lănh đạo
Giáo Hội ngày nay không ư thức về – hay không
nhạy cảm với – năng lực giải phóng
của một đời sống không c̣n
thuộc về luật lệ nữa mà đă
thuộc về ân sủng.
Nếu
các linh mục được đào tạo
bởi loại luân lư ngụy tạo và nệ
luật của Rôma và đồng thời bị
phơi sườn cho những quyến rũ
của danh vọng trong Giáo Hội, th́ quả
thật họ sẽ phải có một mức tinh
sạch phi thường trong ư hướng và
một đức tin hết sức mạnh mẽ
mới có thể vượt qua những cám
dỗ cuồn cuộn lên từ cả bên trong
lẫn bên ngoài ḿnh – nhất là khi ảnh hưởng
của nền giáo dục thuở thiếu
thời của họ càng được củng
cố thêm bởi một môi trường Giáo
Hội đầy dẫy những cám dỗ
của Satan làm cho người ta “sử dụng”
tôn giáo và các chức vụ tôn giáo để mưu
cầu danh vọng và quyền lực cá nhân.
Cuối
cùng, thật không có ǵ đáng
ngạc nhiên khi tại một số vùng trên
thế giới vốn c̣n in đậm dấu
ấn của một truyền thống luân lư và
một cơ cấu nặng tính thưởng
phạt, các linh mục thường bị coi –
theo một nghĩa nào đó – là những kẻ
lừa bịp, hay nếu dùng từ ngữ
nhẹ nhàng hơn th́ đó là những “kẻ
mắt lác”. Người ta cảm thấy h́nh như
các linh mục luôn luôn qui chiếu đến
hệ thống thưởng phạt, với câu
hỏi trằn trọc măi trong tâm trí họ là: Làm
như thế này th́ sẽ ảnh hưởng ra
sao đến uy tín cá nhân và sự nghiệp
của ḿnh? Thật đáng buồn, thường
th́ chỉ sau khi đương sự đă
ổn thỏa được mối quan tâm
vị kỷ này rồi, th́ vấn đề
sự thật mới được đặt ra.
Cũng may, nhiều linh mục trưởng thành
vốn đă từng trải qua chế độ
đào tạo cứng ngắt và đầy tính
nệ luật song không bị ảnh hưởng
sâu đậm lắm, v́ họ biết luôn trước
hết tham vấn Tin Mừng và nh́n ngắm
mẫu gương của Chúa Giêsu và các thánh.
V́ vai
tṛ của linh mục chủ yếu là vai tṛ nêu
chứng tá khả tín, nên điều tối quan
trọng là tất cả các cơ cấu Giáo
Hội, tất cả các mối quan hệ căn
bản trong Giáo Hội, và toàn bộ việc
đào tạo luân lư phải khích lệ và thúc
đẩy sự trung thực và tinh thuần
tuyệt đối. Cố gắng này cũng trùng
hợp với nhu cầu khẩn thiết phải
pḥng tránh sự lan tràn của các tâm bệnh
do Giáo Hội. Bất cứ ǵ có thể gây phương
hại đến yêu cầu tuyệt đối
về sự trung thực và sự đáng tin
cậy của người linh mục đều
không bao giờ có thể được dâng lên
Thiên Chúa như một hy lễ khả dĩ
được Ngài chấp nhận.
Vai tṛ của linh
mục ph́nh ra thái quá
Người
linh mục theo mẫu thức Triđentinô,
nhất là trong thế kỷ 19, thường
bị quá tải bởi quá nhiều vai tṛ
phải đảm nhận và, do đó, phải
khốn khổ nhiều. Ông phải là một
mục tử tốt, một cha giải tội siêng
năng, một vị giảng thuyết có sức
lôi cuốn, một ông thầy dạy luật, và
đồng thời c̣n phải là một người
điều hành các nghi lễ. Thêm vào đó, ông
phải dạy giáo lư, phải quản lư tài
sản và tiền bạc của giáo xứ, vân vân
và vân vân ... Chỉ có trời mới liệt kê
hết các bổn phận của ông.
Một
cách thiết yếu, các vai tṛ được ghi
nhận trong lịch sử của giáo hoàng đă
được tham chiếu như một nguyên
mẫu cho vai tṛ của ông cha sở ở giáo
xứ. Xưa nay giáo hoàng vẫn là giám mục Rôma,
thủ phủ của nước Ư và là thượng
phụ của Tây phương và của đa
số các lục địa. Qua thời gian, các giáo
hoàng dần dần dành cho ḿnh quyền bổ
nhiệm các giám mục. Trong quyển De
Consideratione của Thánh Bernard, một quyển
tuyển tập các bài giảng tĩnh tâm cho Giáo
Hoàng Eugene III, tác giả thẳng thắn và
quyết liệt cảnh cáo mọi sự ph́nh trướng
các hoạt động của giáo hoàng:
Suốt
ngày con nghe trong dinh thự của Đức Thánh
Cha đầy dẫy những tiếng bàn tán rôm
rả về luật và luật. Và con chẳng
nghe thấy luật nào khác ngoài luật của Hoàng
Đế Justinian! Con chẳng nghe ǵ về thứ
luật mà ḿnh thích thú – luật yêu thương.
Đức Thánh Cha đă phung phí phần lớn
thời giờ cho những vấn đề chính
trị. Xung quanh Đức Thánh Cha vây kín
những kẻ xu nịnh, dối trá và những
người t́m kiếm bổng lộc. Đức
Thánh Cha hăy dành thời giờ quí giá của ḿnh
để suy niệm và rao giảng Tin Mừng
một cách phấn khởi ...
Trong
thời đại chúng ta, giáo hoàng đảm
nhận công việc bổ nhiệm hầu như
tất cả bốn ngàn giám mục trên khắp
thế giới và điều hành một bộ máy
đồ sộ phụ trách việc bổ
nhiệm các nhà thần học và việc
giảng dạy của họ trên toàn cầu, không
c̣n bao nhiêu chỗ cho các công việc khác. Giáo hoàng
có khuynh hướng trở thành người giám
thị toàn thế giới, và gần đây
tỏ ra muốn trở thành chính hiện thân
của vị thầy dạy luân lư. Như
một thể chế quân chủ chuyên chế, hoàn
toàn chỉ có giáo hoàng định đoạt
chuyện mở rộng ra hay hạn chế
bớt mức độ cộng tác của
hồng y đoàn hay của thượng hội
đồng giám mục. Đây há không rơ ràng là
biểu hiệu của sự ph́nh trướng quá
mức nơi hàng giáo sĩ đó sao? Sự
kiện giáo hoàng ôm đồm quá rộng như
vậy có thực sự thăng tiến các ơn
gọi linh mục đích thực không? và có giúp
người ta nhận thức đúng đắn
về chức linh mục và chức giám mục
theo nền tảng Thánh Kinh không?
Cũng
vậy, chúng ta có thể tự hỏi liệu các
linh mục và giám mục ôm đồm trăm công
ngàn việc như thế có c̣n thời gian dành
cho việc thường huấn và cập nhật
về thần học, tu đức và các khoa nhân
văn không? Họ có đủ thời gian cho
việc cầu nguyện, cho việc khám phá các phương
pháp cầu nguyện và cho việc cố gắng
ḥa hợp giữa cuộc sống và cầu
nguyện không? <OJ>
|