BERNARD
HARING, C.SS.R.
------------------------------
GIÁO HỘI
CẦN
LOẠI
LINH MỤC NÀO ?
------------------------------
<OJ>
-2001-
Lm.
Lê Công Đức
Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD
IMPERILED,
A
Critical Examination Of The Ministry
In
The Catholic Church
Của:
BERNARD HARING, C.SS.R.
Do
nhà: TRIUMPHTM
BOOKS,
Liguori,
Missouri xuất bản
10. NHỮNG CON
VẬT TRÊN TÀU NÔ-E HÔM NAY
Trong
khi quả thật Giáo Hội đang có
những linh mục và giám mục mà Giáo Hội
đáng có, th́ có một câu hỏi quan
trọng là: Phải chăng các linh mục đang
có được loại Giáo Hội mà họ
đáng có? Một câu hỏi thật gay go!
Tất cả chúng ta, từ những Kitôhữu b́nh
dân chất phác nhất cho tới giáo hoàng, đang
là những người hưởng dụng bao kho
tàng quí báu của lịch sử Giáo Hội, nhưng
chúng ta cũng là những kẻ kế thừa các
gánh nặng của Giáo Hội để lại
nữa - đây là
một điểm mà tôi muốn đề
cập qua suốt quyển sách này. Lịch sử
của chúng ta là một lịch sử nhập
nhằng, v́ chúng ta cưu mang trong ḷng ḿnh
nhiều kư ức phấn khởi đan quyện
với vô số những dấu ấn của thương
tích. Với tất cả những điều
đó trong tâm tư ḿnh, tôi muốn nhận định
ở đây về các loại linh mục khác
nhau trong Giáo Hội chúng ta, nhất là v́ câu
hỏi căn bản của chúng ta - “Giáo
Hội cần loại
linh mục nào?” – có quan hệ
trực tiếp với loại Giáo Hội mà chúng
ta sẽ có.
Con tàu Nô-e:
nguồn cảm hứng cho chức linh mục
Ở
đây tôi mạn phép bạn đọc để
cố gắng mô tả những loại linh
mục khác nhau đang trong hành tŕnh với đoàn
dân lữ hành của Thiên Chúa mà chúng ta gọi là
Giáo Hội. Nhằm mục đích đó, tôi
sẽ sử dụng biểu tượng con tàu Nô-e
như con tàu của chúng ta, đặc biệt
bởi v́ con tàu ấy là h́nh ảnh báo trước
con tàu của ơn cứu độ do Đức
Giê-su Kitô đem lại.
Một
hôm, Nô-e trở nên chán nản, buồn phiền và
trong nước mắt ràn rụa ông đến
gặp Chủ của con tàu và thưa: “Lạy
Chúa, tại sao Chúa giam con trong con tàu này với quá
nhiều những con vật kinh khủng như
thế này – nào là những con khỉ ngu ngốc,
nào là những con heo hôi hám, nào là ...?” Ông
kể một danh sách dài ngoẵng những
thứ tồi tệ. Thiên Chúa lắng nghe đầy
thương cảm, rồi Ngài ôn tồn nói: “Này
Nô-e thân mến, ngươi đừng quên
rằng con tàu này là ơn cứu độ
của ngươi ở đây và lúc này. Chúng ta
cứu sống những con vật tội
nghiệp ấy nữa th́ càng hay đấy
chứ, phải không?”
Con gà trống:
vừa kiêu hănh vừa trịch thượng
Một
số linh mục dường như chọn con gà
trống làm bổn mạng. Họ đứng
chễm chệ trên cao, tự ca ngợi vinh quang và
quyền lực của ḿnh: “Lạy Chúa, hăy nh́n
và hăy lắng nghe con đây! Con là chúa tể trong
lănh địa của con. Vâng, Chúa hăy bảo
đám gà mái và gà con ấy biết lắng nghe và
vâng lời con, v́ ích lợi của chính chúng nó!”
Rất
nhiều cám dỗ tồi tệ khiến người
ta kiêu ngạo – những cám dỗ này dễ dàng
dấy lên trong hàng ngũ giáo sĩ, nhất là
những vị có chức tước cao. Tôi tin
rằng Thiên Chúa của chúng ta, Đấng vô cùng
kiên nhẫn, phải bụm miệng cười và
nhân hậu chịu đựng những con gà
trống quái đản này. Thật vậy, tôi
tin rằng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn tha thứ
cho họ, bởi v́ nếu tôi – chỉ là
một con người được tạo
dựng giống h́nh ảnh Thiên Chúa – mà có
thể ph́ cười vào những tṛ cao ngạo
ấy, trong một số chừng mực nào đó,
th́ Thiên Chúa c̣n có thể cười thấm thía
hơn biết chừng
nào!
Dù sao,
cứ nh́n cho kỹ, người ta sẽ thấy
rằng cái toát ra từ những linh mục
tự măn không phải là hương thơm thánh
đức mà đúng hơn chỉ là mùi tanh hôi.
Để tự vệ, các linh mục này có
thể không ngần ngại đưa ra những
giải thích rất quờ quạng để
biện minh cho tính cách tự măn của ḿnh.
Chẳng hạn, chẳng phải họ là
những vận động viên khỏe nhất và
đă vượt qua những kẻ khác trong
cuộc chạy đua tranh giành địa vị
đó sao? Chẳng phải rơ ràng là họ
rất có tài trong việc cai quản và tổ
chức những “sân nuôi gà vịt” của
họ đó sao? Họ chẳng xác quyết
rằng họ - với quyền Thiên Chúa ban cho và
với những chức tước hẳn hoi -
mới có sự tinh thông để giảng
dạy và cai quản đó sao? Rồi, với
tất cả những hào quang đó, họ
chẳng bước đi một cách ‘hách x́
xằng’ trong những rừng màu sắc, ánh sáng,
biểu ngữ ... xứng đáng với địa
vị của họ đó sao?
Nhưng
câu hỏi lồ lộ nhất văn c̣n nguyên đó.
Thật sự các vị đó đang làm ǵ trong
con tàu cứu độ này? Không phải do
bởi ḷng khiêm nhường vô hạn mà
Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Kitô, đă nhập
thể và hiện thực hóa chương tŕnh
cứu độ đó sao? Không phải Thiên Chúa
là Đấng đă bác bỏ mọi sự gán
ghép chức linh mục với thói trịch thượng
kiểu gà trống đó sao? Người Tôi
Tớ của Thiên Chúa đă không cảnh giác
tất cả chúng ta qua lời cầu nguyện
của Đức Maria, người Nữ T́ khiêm
tốn đó sao?: “Ngài đập tan những
ai ḷng trí kiêu căng. / Ngài hạ những người
quyền thế xuống khỏi ngai vàng, / và nâng
lên những người bé mọn” (Lc 1,52)
Chúc
tụng Ngài, lạy Chúa, v́ trên con tàu của Ngài
có nhiều linh mục, giám mục, giáo hoàng không
khoe khoang hợm hĩnh, bên cạnh những con người
thấp hèn, cô thân cô thế của Ngài – đó
là những người anawim, những người
chú tâm lắng nghe Lời Ngài và thể hiện
cuộc sống khiêm nhường của Đức
Giêsu Người Thợ Mộc. Trong sự
thấp hèn của họ, Ngài đă mạc
khải cho họ vinh quang đích thực của
Ngài!
Những con chim sơn
ca
Một
trong những ca sĩ dễ thương và
được ngưỡng mộ nhất trong các
loài chim, đó là chim sơn ca. Tôi thường
lắng nghe tiếng hót trong trẻo của sơn
ca vào giờ kinh sáng của ḿnh, mặc dù tôi chưa
bao giờ nh́n thấy một chú sơn ca nào. Chim
sơn ca giúp tôi suy niệm về một khía
cạnh đặc biệt nói lên tính đích
thực của Kitôhữu và của người
linh mục. Thật kỳ lạ, chim sơn ca
vừa giấu ḿnh không cho người ta nh́n
thấy, vừa tự bộc lộ ḿnh qua
tiếng hót rộn ră giữa trời đêm. Dù
chúng ta có nghèo khả năng suy tư đến
mấy đi nữa, tiếng hót thánh thót của
loài chim này cũng có thể nhắc chúng ta
nhớ rằng thật quan trọng biết bao
việc xây dựng một đời sống linh
mục đích thực có sức cuốn hút người
ta hướng đến sứ điệp chan ḥa
niềm vui của Thiên Chúa và ca tụng Ngài,
chứ không phải thu hút sự chú ư về phía
người sứ giả. Chim sơn ca nhắc chúng
ta rằng cái tôi của chúng ta không thể bành
trướng và che lấp sứ điệp
niềm vui giải phóng của Thiên Chúa hay hoàn toàn
làm tắc nghẽn không cho người tín
hữu nghe được sứ điệp
ấy. Người linh mục đích thực là
người linh mục thể hiện bản ngă
thực của ḿnh, bằng cách hướng
chỉ cho người khác thấy Thiên Chúa –
chứ không phải thấy chính ḿnh. Người
linh mục đích thực là người sứ
giả không bao giờ đứng ch́nh ́nh cản
lối sứ điệp. Đây chính là ư nghĩa
cốt yếu của câu châm ngôn I-nhă: Mọi
sự để vinh danh Chúa hơn!
Có
một kinh nghiệm mà tôi thường ôn lại
trong tâm trí ḿnh giúp minh họa rất rơ ơn
gọi của loài chim sơn ca. Năm 1950, tôi có
dịp giảng tuần đại phúc tại
một giáo xứ trong vùng, chị giúp việc cha
sở đă kể cho tôi một câu chuyện
rất ấn tượng – nhân v́ lúc ấy tôi
đang sôi nổi khen ngợi mối quan hệ
tốt lành giữa vị cha sở cao niên của
chị và linh mục phụ tá của ngài.
Được biết trước đó chị
chưa bao giờ kể câu chuyện này với
bất cứ ai, v́ cha sở đă bắt chị
thề phải giữ kín. Tuy nhiên, chị
quyết định kể cho tôi, tin tưởng
rằng tôi sẽ không x́ nó ra cho mọi người
trong giáo xứ biết. Và câu chuyện về chim
sơn ca ấy của chúng ta như sau:
Sau khi
trải qua 5 năm với tư cách là một sĩ
quan quân y trong quân đội hồi Chiến Tranh
Thế Giới Thứ Hai, người linh mục
trẻ ấy được bổ nhiệm
về làm phụ tá mục vụ ở giáo
xứ, và ngay lập tức, chinh phục
được trái tim của mọi người.
Bực bội về điều này, ông cha sở
luôn luôn nhắc cho cha phụ tá mới của ḿnh
nhớ rằng ông mới là người trách
nhiệm giáo xứ chứ không phải anh ta.
Đong đưa giữa ḷng ganh tị và sự
thán phục, ông cha sở dần dần nhận
ra rằng nên chăng ḿnh học hỏi một
điều ǵ đó từ cha phụ tá trong
việc phục vụ giáo xứ của ḿnh,
một giáo xứ vốn có rất nhiều dân
tị nạn nghèo khổ.
Một
bữa nọ, cha phụ tá yêu cầu chị giúp
việc sắp xếp để đưa
chiếc giường ngủ của ḿnh tới
cho gia đ́nh nghèo nhất mà ngài vừa ghé thăm.
Ngài cũng cấm chị không được nói
cho ai biết rằng đó là chiếc giường
duy nhất của ngài. Thế rồi, điều
xảy ra là có một sự ngộ nhận
dần dần được lan truyền giữa
các giáo dân trong giáo xứ. Người ta nói
với nhau rằng cha sở đă gửi tặng
chiếc giường của ngài cho một gia
đ́nh nghèo – và ai nấy tỏ niềm trân
trọng đối với nghĩa cử ấy
của cha sở. Cha sở không thể đính chính
ǵ được cả. Tuy nhiên, ông t́m ra
một cách giải quyết khá hay: ông quyết
định tặng hai trong số những cái giường
thừa không dùng đến của ông cho
những người nghèo nhất trong giáo xứ.
Kết quả là một mối quan hệ hoàn
toàn mới đă được h́nh thành
giữa cha sở và cha phụ tá, và cả
giữa cha sở và giáo xứ nữa. Hơn
nữa, chị giúp việc c̣n cho biết thêm
rằng câu chuyện này cũng là một bài
học hết sức ấn tượng cho
bản thân chị.
Tôi tin
rằng vị linh mục trẻ ấy có thể
sẽ phàn nàn chị giúp việc của ḿnh
nếu ngài biết chị ấy đă kể cho
tôi nghe câu chuyện, nhưng tôi đă hứa
với chị rằng tôi sẽ giữ kín câu
chuyện ấy khi tôi c̣n lưu lại tại giáo
xứ. Tuy nhiên, về sau khi đi phục vụ
tại nhiều quốc gia khác nhau, tôi đă
kể câu chuyện này cho rất nhiều linh
mục. Đây cũng là một câu chuyện mà tôi
tự ôn lại trong tâm trí ḿnh thường xuyên
– v́ nó nêu bật một khuôn mặt linh mục
khiêm nhường, biết giấu ḿnh đi để
người ta có thể thật sự quy hướng
về Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Nhà luân lư khắt
khe
Không
thể đếm được đă bao nhiêu
lần tôi được giới thiệu là “một
nhà luân lư tên tuổi” mỗi khi tôi
được mời nói chuyện với một
cử tọa. Ay náy trong ḷng, tôi tự hỏi
tại sao người ta lại gán cho ḿnh cái tước
hiệu sỉ nhục này; v́ phần đông người
ta hiểu mấy chữ “nhà luân lư” theo
một nghĩa rất tiêu cực. Một nhà luân
lư là một con người luôn luôn xét đoán và
khiển trách người ta. Ông ta luôn luôn cố
nhồi nhét cho người ta tất cả
những điều luật và những quy định
cấm “nghiêm ngặt”, mà không mấy lưu tâm
đến những hoàn cảnh có thể cho phép
các ngoại lệ. Ông ta dồn cho thiên hạ
những nỗi sợ hăi. Thật là kinh khủng!
Nếu nền luân lư kỳ quặc ấy là tiêu
chuẩn ơn cứu độ của Thiên Chúa,
th́ hẳn là con tàu Nô-e sẽ nhanh chóng bị
bỏ phế, và hỏa ngục sẽ trở thành
nhung nhúc dân cư!
Nhà luân
lư – theo nghĩa đặc trưng – là người
chuyên tâm nhắm kiểm soát hoàn toàn lương
tâm người ta, một phần qua việc đ̣i
hỏi người ta xác định chính xác các
tội theo thứ loại và theo số lượng.
Trong khung cảnh ṭa giải tội, vị linh
mục thường vô t́nh biến cuộc
gặp gỡ ấy thành một nơi tra khảo
và xét nét, chủ yếu bằng những câu
hỏi đại loại như: Anh đă
phạm tội thủ dâm kinh khủng ấy bao
nhiêu lần? Chị đă nuôi dưỡng trong ḷng
những ư tưởng không trong sạch ấy bao
nhiêu lần, và chị hăy nói rơ đó là
những ư tưởng không trong sạch thuộc
loại nào?...
Rất
may, các tín hữu Công Giáo ngày nay đă biết
chọn lựa cha giải tội cho ḿnh, và
phần đông có thể t́m ra những linh
mục biết nhận thức – như Thánh An-phong-sô
– rằng vai tṛ chủ yếu của cha giải
tội là trở thành tấm gương phản
chiếu khuôn mặt của Thiên Chúa vô cùng thương
xót, khuôn mặt của Đức Giêsu Đấng
Chữa Trị. Những linh mục này hiểu
rằng việc “xét xử” (trong chừng
mực mà con người có thể làm) tiên vàn có
nghĩa là việc biện phân giữa đâu là
t́nh yêu đích thực và đâu là t́nh yêu
giả mạo.
Phúc
cho những hành khách nào ở trên con tàu Giáo
Hội – trong tiếp xúc với các linh mục và
các Kitôhữu khác – có thể cảm nghiệm
được không chỉ quyền năng
giải phóng của Thiên Chúa theo lời Thánh
Phao-lô: “Anh em không c̣n thuộc về Lề
Luật, nhưng là thuộc về ân sủng
của Thiên Chúa” (Rm 6,14), mà họ c̣n –
nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần –
có thể giúp đỡ nhau một cách đầy
khích lệ. Hăy cút đi, hỡi các nhà luân lư, và
đừng bao giờ quay trở lại bao lâu các
người chưa có đủ ḷng khiêm tốn
thực sự để biết suy ngẫm về
sự quảng đại và ân cần thứ
tha của Đấng đă sáng tạo nên các
người!
Những người
lính gác
Làm
một lính gác, hay một người bảo
vệ, tự nó không phải là cái ǵ xấu,
nếu các linh mục nhận hiểu trách
nhiệm của ḿnh là bảo vệ các quyền
chính đáng và sự tự do của mọi người,
chống lại những xâm phạm bất công.
Tuy nhiên, những người bảo vệ đức
tin rất dễ t́m thấy sự khoái trá trong
quyền lực và trong việc hành sử vai tṛ
kiểm soát, nhất là nếu họ tóm cổ
được một kẻ nào đó đang sai
quấy. Leo thang tới một mức thái quá, các
linh mục như thế sẽ hùng hổ tố cáo
người ta dù chỉ do một vi phạm
nhỏ nhặt nhất đối với một
điều luật ít quan trọng nhất – mà
không bao giờ kiểm tra xem chính bản thân
điều luật đó có thực sự chính
đáng không.
Thật
đáng ngạc nhiên để nhận thấy
rằng trong Giáo Hội hôm nay, các nhà bảo
vệ thường sử dụng quyền cao
chức trọng của ḿnh để thi hành
sự kiểm soát thái quá trên mọi vấn
đề về chính thuyết (orthodoxy), nhất là
về những giáo thuyết không được
mạc khải - trong khi đó, họ hoàn toàn không
có khả năng thuyết phục ngay cả
những Kitôhữu nghiêm túc nhất tin rằng
những giáo thuyết ấy đến từ Thiên
Chúa. Đó là chưa kể đến những
sự kiểm soát mà họ áp đặt trên người
ta về những vấn đề chẳng có liên
quan ǵ đến chính thuyết cả! Một
hệ thống kiểm soát gần như toàn
bộ là một hệ thống thoát thai từ
sự nghi ngờ, và nó tạo ra một bầu khí
không lành mạnh cho các mối quan hệ con người
– điều này rơ ràng tương phản
với sứ mạng của Giáo Hội là
chữa trị chứ không phải xét xử.
Trong
một nền văn hóa ngày càng có nhiều
khả năng nhồi sọ, nắn ép công
luận, nắn ép cả gien của con người,
th́ câu hỏi nóng bỏng được đặt
ra là: Ai kiểm soát những nhà kiểm soát?
Thực vậy, những nhà-kiểm-soát-không-được-ai-kiểm-soát
có thể ví như một cơn dịch tàn
khốc mà chúng ta cần phải luôn luôn cảnh
giác.
Trong
lịch sử, chúng ta thấy rằng tất
cả những chế độ độc tài
chuyên chế, như chế độ của Hitler
và của Stalin, đă không ngừng đẩy
mạnh một hệ thống kiểm soát ngày càng
tinh vi hơn. Sau sự sụp đổ của
chế độ theo đường lối Stalin
ở Đông Đức, người ta phải
giật ḿnh khám phá ra rằng vô số người
đă bị kiểm soát một cách âm thầm
bởi những kẻ khác ngồi trên chóp bu và
không bị ai kiểm soát – và rồi đến
lượt ḿnh, chính những người bị
kiểm soát này đă trở thành những người
kiểm soát. Điều đáng ghi nhận
nữa là nhiều nhà kiểm soát như thế là
những con người vốn có nhiều
tiếng tăm! Ngay cả những tù nhân trong các
trại tập trung cũng sẽ được
đăi ngộ tốt hơn nếu họ nhận
công việc kiểm soát và tố cáo các bạn tù
của ḿnh. Rốt cục, hầu như mọi
người đều trở thành tù nhân của
chính ḿnh cách này hay cách khác do bởi hệ
thống kiểm soát có tính thanh trừng, lừa
gạt và phản phé ấy.
Giáo
Hội, ở mọi cấp, phải ghê tởm và
xa lánh một hệ thống kiểm soát như
thế. Thay vào đó, chúng ta hy vọng rằng Giáo
Hội sẽ chọn con đường “khoan nhượng
lẫn nhau về lương tâm” – nghĩa là
trong thực tiễn Giáo Hội sẽ tích cực
hậu thuẫn một công luận lành mạnh
đồng thời thúc đẩy sự đối
thoại trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau.
Giới
thẩm quyền trong Giáo Hội không bao giờ
được phép nhân nhượng trước
cám dỗ a dua chấp nhận những xu hướng
thoát thai từ các ư thức hệ kinh khủng mà
chúng ta đă kinh nghiệm trong thế kỷ này.
Trong tư cách là người hướng dẫn
người ta đến với chân lư và ánh sáng,
Giáo Hội phải luôn luôn cảnh giác để
chống lại những khẩu hiệu hồ
đồ và rỗng tuếch kiểu như: “Hitler
muôn năm! Hitler luôn luôn đúng!”
Hơn
nữa, một Giáo Hội đảm nhận
sứ mạng thể hiện công lư và sự khiêm
nhường của Đức Kitô cũng cần
phải thận trọng pḥng tránh những ư
thức hệ sai lầm và thiên lệch quá
mức của chính ḿnh nữa. Trong tiến tŕnh
này, mọi linh mục – dù là giáo hoàng, hồng
y, giám mục, cha sở hay phụ tá mục
vụ – đều có thể đóng góp rất
nhiều cho Giáo Hội bằng cách biết
đưa ra cũng như biết đón
nhận những sự phê b́nh có tính xây
dựng, xét như một phương thế
để nhận thức sâu hơn về chân lư.
Trong thời đại này, lịch sử đặc
biệt nhắc chúng ta về ư nghĩa và giá
trị của việc thực thi nhân đức
phê b́nh – qua việc suy tư thần học và
chia sẻ kinh nghiệm. Nhân đức này giả
thiết rằng tất cả chúng ta, ở
bất cứ vị trí nào trong Giáo Hội, cũng
đón nhận và cống hiến cho nhau sự phê
b́nh trong tinh thần xây dựng.
Việc
tiếp nhận nhăn quan của Công Đồng
Vatican II có thể là một kinh nghiệm giải
phóng lớn lao và là một cơ hội tuyệt
vời cho chúng ta tiến xa hơn trong nỗ
lực đại kết – nhất là kể
từ khi Giáo Hoàng Gioan XXIII đă mở đường
cho chúng ta qua việc ngài đột phá cách
ngoạn mục vào cuộc đối thoại chân
thành và cởi mở.
Sự
nhấn mạnh của Công Đồng về
việc thúc đẩy tính tập đoàn và
về việc phát triển các cơ cấu phân
nhánh (subsidiary) cần phải vượt thắng
trên các khuynh hướng tập quyền, chuyên
chế và o ép. Năo trạng “cha chú” và việc
hành sử kiểm soát thái quá cần phải
bị vạch mặt rơ để mọi người
thấy rằng nó là một kẻ thù của
sự tự do và của năng lực sáng
tạo mà Đức Kitô đă đem lại cho
tất cả mọi người chúng ta.
Một
trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất
để đo lường tính đích thực
của một ơn gọi linh mục, đó là
sự cắm rễ sâu xa trong tinh thần phi
bạo lực và sự thể hiện tinh
thần này trong thực tiễn. Trước
Vatican II, tại một số nơi trong Giáo
Hội, có tồn tại một thứ thần
học luân lư đặt nền trên sự
khống chế (để trang bị cho các nhà
kiểm soát khác nhau) – và thứ thần học
này đă sản sinh ra cả loạt những
linh-mục-nhà-bảo-vệ rất tiêu cực.
Trong khi tôi hy vọng năo trạng khống chế
ấy, v́ lợi ích của Giáo Hội, sẽ
lụi tàn đi, th́ tôi vẫn nghĩ rằng
cần nêu ra ở đây ít nhất hai ví dụ
về thứ năo trạng này như một
cảnh tỉnh cho những ai c̣n có xu hướng
tơ tưởng đến nó.
Sau khi
từ Nga trở về vào năm 1945, tôi giảng
tĩnh tâm Mùa Vọng tại một giáo xứ.
Theo lời đề nghị của tất cả
các nhà thừa sai, tôi đă mời mọi người,
không trừ ai, đến lănh Bí Tích Ḥa Giải
hoặc đến để trao đổi – v́
theo ḷng thương xót vô hạn của Đức
Kitô, mọi người đều được
mời gọi lănh nhận ơn b́nh an của bí
tích này. Nhiều người, gồm cả
những người li dị và tái hôn, đă can
đảm hưởng ứng lời mời
ấy của tôi. Thế nhưng, cha sở
của giáo xứ đă không giấu giếm
sự bực bội đối với tôi; ông
bảo là ông rất “quan tâm đến kỷ
luật Giáo Hội”. Bữa nọ, cha sở không
chỉ từ chối không cho một phụ
nữ rước lễ mà ông c̣n quát mắng
chị cách thậm tệ trước mặt các
tín hữu khác.
Tại
bữa cơm tối, không dằn được
sự bức xúc, ông đă thẳng thắn
chỉ trích tôi: “Anh đă giải tội cho
những người đang sống trong t́nh
trạng rối” (rơ ràng cha sở ám chỉ
những người đă li dị và tái hôn).
Đúng lúc ấy, chồng của người
phụ nữ nói trên bước vào và cho cha
sở biết rằng vợ của anh ta không
phải là một người li dị. Anh
chồng này yêu cầu cha sở phải thanh minh
lại chuyện này và phải xin cộng đoàn
giáo xứ tha thứ. Tối hôm ấy, cha sở
đă nói lên lời xin lỗi cả với tôi!
Điều kỳ diệu nhất là chính kinh
nghiệm choáng váng này đă trở thành một
kinh nghiệm hết sức ích lợi cho chính
vị cha sở ấy.
Rồi,
trong Mùa Chay, tôi phụ trách “ngồi ṭa”
suốt ba ngày tại một giáo xứ khác, nơi
mà tôi nhận ra rằng rất ít người
chọn xưng tội với cha sở. Và một
sự việc xảy ra đă giúp tôi hiểu
tại sao. Hôm ấy, đang bước vào ṭa
giải tội, tôi trông thấy cha sở bạt
tai một phụ nữ. Liền sau đó, người
phụ nữ này đến gặp tôi và than
thở rằng chị chẳng làm ǵ nên tội
ngoại trừ việc chị nghiêng qua nhắn
một câu ngắn cho một phụ nữ khác
ngồi bên cạnh trong nhà thờ. Trong nhận
thức của ḿnh, vị cha sở này tự
cảm thấy ông là một linh mục nhiệt
thành, chu toàn mọi bổn phận. Trong lương
tâm, hẳn ông không có ǵ áy náy – nhưng
vấn đề vẫn c̣n đó: Lương tâm
của ông là loại lương tâm nào? Rơ ràng là
quan điểm của vị cha sở này về
vai tṛ canh gác (để bảo vệ kỷ
luật của Giáo Hội) đă phát xuất
từ một lương tâm được hướng
dẫn cách sai lạc.
Hỡi
các linh-mục-nhà-canh-gác tội nghiệp! Có
lẽ các anh đă đơn sơ hấp thụ
một loại giáo huấn và kỷ luật luân
lư vừa bệnh hoạn vừa là mầm
rắc gieo bệnh hoạn. Xin các anh đừng
để cho hàng ngàn khoản luật và khoản
cấm đoán nhân tạo dựa trên một
hệ thống cứng ngắt giam hăm các anh! Trong
đáy tâm hồn ḿnh, các anh há không cảm
thấy xấu hổ về t́nh trạng nô
lệ dưới ách luật của ḿnh sao? T́nh
trạng nô lệ này nhiễm vào các anh, rồi
qua các anh, những người khác cũng bị
nhiễm độc; c̣n đâu nữa sự
tự do của con cái Thiên Chúa! Nếu các anh nh́n
kỹ trong các tín hữu – mà các anh cho là
bọn thất học và dốt nát – các anh
sẽ gặp thấy rất nhiều nhà chữa
trị tuyệt vời, nhiều chứng nhân
của niềm vui và niềm an b́nh nội tâm. Các
anh hăy đến gặp họ, v́ chắc
chắn họ có thể giúp ích nhiều cho các
anh đấy!
Rất
may là con số các linh mục khắt khe thái quá
đang có chiều hướng giảm dần, nhưng
vẫn c̣n khá nhiều nhà cực đoan trẻ
tiếp tục xuất hiện – đó là
những linh mục có thái độ cực đoan
bảo thủ, v́ họ đă được
dạy để tin vào luật lệ và kỷ
luật - cơ hồ như đó là những giá
trị tối thượng của chức linh
mục và của sứ vụ của họ
vậy.
Đối
với các linh-mục-nhà-canh-gác, được
khống chế bởi những luật lệ và
qui định, th́ sự độc thân không
phải là một kinh nghiệm tự do trong
mức độ mà nó được hiểu như
một phần của “cơ cấu luật thánh”.
V́ vậy, các linh mục này không cảm nếm
được kinh nghiệm chan ḥa niềm vui
của đặc sủng độc thân.
Nhiều
linh mục khắt khe và nệ luật là
những con người nói chung tốt lành và thành
tâm, nhưng do bị hướng dẫn sai
lạc nên đă có nhận thức không đúng
đắn về thế nào là một nhà bảo
vệ chân lư. Lẽ ra họ có thể đắc
lực hơn rất nhiều nếu như họ
sẵn ḷng hơn để được
dẫn dắt bởi Đức Kitô để
đi vào trong miền đất hứa của năng
lực sáng tạo và của tính đích
thực, thay v́ cố bám chặt vào những
lan can luật lệ vốn bảo đảm cho
họ một thứ cảm giác ổn định
giả tạo mà thôi!
Như
tôi đă từng đề cập, trong chúng ta có
nhiều bạn trẻ thiết tha phục vụ
Thiên Chúa trong chức linh mục nhưng không dám
dứt khoát dấn thân – không chỉ v́ họ
sợ sẽ tới lúc nhận ra ḿnh không
thể sống đời độc thân, mà c̣n v́
họ sợ sẽ bị khai trừ khỏi hàng
linh mục một cách nhục nhă. Tôi đă
phải bao lần ứa nước mắt
với các linh mục vốn đă thành tâm
dấn thân và vốn giàu các khả năng nhân
bản, nhưng bị dồn tới đường
cùng bởi các nhà bảo vệ luật cứng
cỏi của Giáo Hội. Những kinh nghiệm
thuộc loại này trở thành một phản
chứng tá đối với niềm vui của
đời sống độc thân.
Tuy nhiên,
tôi vẫn không hoàn toàn tẩy chay vai tṛ người
canh gác của chức linh mục thừa tác.
Chỉ mong rằng vai tṛ này được
nhận hiểu trong ư thức rộng hơn
về “một người giữa chúng ta”.
Nếu các linh-mục-nhà-canh-gác hành động
một cách hoàn toàn phi bạo lực, họ có
thể trở thành những nhà tiên phong của
một nền văn hóa phi bạo lực.
Những người cảnh sát mẫu mực và
phi vũ trang làm công việc bảo vệ tự
do và trật tự cộng cộng – đó
chắc chắn là một bước đột
phá tuyệt vời về văn hóa.
Những kẻ
nệ nghi thức
Trong
con tàu của ơn cứu độ, con số
những nhà nệ nghi thức luôn bối rối
và luôn gây bối rối cho kẻ khác cũng
đă giảm dần. Cách đây khoảng năm
mươi năm, tinh thần nệ nghi thức là
một trong những đại dịch trong Giáo
Hội. Không phải là họa hiếm việc người
ta nh́n thấy – chẳng hạn - những linh
mục quá lo lắng về vấn đề thành
sự hay không thành sự của bí tích, phải
vă mồ hôi mỗi khi đọc lời
truyền phép. Ngay cả những linh mục giàu năng
lực và được đặt vào những
chức vụ quan trọng cũng bị hoang mang
do nỗi nghi ngờ về chức thánh của ḿnh.
Họ tự hỏi lúc ḿnh được
truyền chức, ḿnh có đă đồng
thời chạm vào chén thánh, đĩa thánh và bánh
thánh hay không (bởi theo luật, nếu không
vậy th́ việc truyền chức ấy không thành
sự!)? May là Giáo Hoàng Piô XII đă chấm
dứt bi hài kịch này bằng việc chính
thức tuyên bố rằng đó không phải là
một điều kiện cho hiệu lực
của việc truyền chức.
Tinh
thần nệ nghi thức trong bất cứ
dạng nào cũng có thể trở thành một
chứng bệnh vừa tự măn về ḿnh
vừa xem thường kẻ khác. Việc xét nét
chi li, ngay cả trong những qui định nghi
thức nhỏ nhặt nhất, có thể trở
thành một thứ lô cốt an toàn đối
với những linh mục cắm rễ trong thái
độ khư khư vâng lời tối mặt.
Trong viễn ảnh đó, ta thấy các nhà
nệ nghi thức dễ dàng trở thành những
con chó canh cửa hung dữ. Xin dẫn ở đây
một ví dụ. Hồi đó, là một linh
mục trẻ Ḍng Chúa Cứu Thế đang lưu
lại tại một trong những cơ sở
của ḍng, tôi hỏi vị bề trên xem
liệu ḿnh có thể làm lễ trước khi ḿnh
ra đi vào sáng ngày mai hay không. Vị bề trên
trả lời một cách đầy ẩn ư:
“Nếu anh dám!” Sau Thánh Lễ, khi tôi đang
gấp rút sửa soạn ra đi cho kịp
chuyến tàu, một đàn anh trong nhà chặn tôi
lại và nói: “Này, Bernard! Anh đă phạm hai
sai sót về phụng vụ, và chúng tôi ở
đây rất kiêng kỵ điều đó.” Sau
khi nghe giải thích về hai điểm ấy, tôi
nói với anh rằng chẳng có luật Giáo
Hội nào đề cập đến những
điều mà anh quan tâm cả. Để trả
lời tôi, anh trưng ra một thủ bản
được viết bởi một tu sĩ Ḍng
Chúa Cứu Thế, trong đó có đề
cập rơ vấn đề mà anh ta đang
khiếu nại. Rồi anh kết luận: “Chúng
ta phải tuyệt đối giữ luật, v́
sự hiệp nhất của chúng ta!”
Cho dù
những trường hợp nệ nghi thức quá
quắt và những sự kiểm soát đầy
ác ư đă giảm thiểu rất nhiều, song
chủ nghĩa nệ nghi thức vẫn c̣n
tồn tại giữa chúng ta. Ngay cả giữa
những vị lănh đạo trong Giáo Hội,
tinh thần này vẫn c̣n là một cản
trở nghiêm trọng đối với việc
hội nhập văn hóa và đối với tính
thanh thoát trong phụng vụ.
Luật
độc thân hiện nay, ít nhất một
phần nào, không đang góp phần xúi quẩy
cho năo trạng về sự trong sạch của
nghi thức vốn gây phương hại đến
mệnh lệnh quan trọng của Chúa - “Tất
cả anh em, hăy làm việc này để nhớ
đến Thầy!” – đó sao? Nói cách khác,
luật nhân tạo về độc thân có
thể trở thành một cản trở đối
với quyền cử hành Thánh Thể của người
tín hữu, một quyền được chính Chúa
bảo hộ.
Kẻ nhút nhát
Thật
đáng thương cho các bạn! Ai đă
thiến hoạn các bạn và tước khỏi
các bạn mọi năng lực sáng tạo,
mọi sự dũng cảm và nhiệt t́nh? Hàng
bao thế kỷ, Giáo Hội ở Rôma đă
thiến hoạn các chàng trai trẻ nhằm
mục đích giữ lại âm giọng cao
của họ, v́ phụ nữ không được
phép hát trong nhà thờ. Thật là một thực
hành kinh khủng tự bản thân nó; thứ
nữa, lư do của thực hành ấy cũng
hết sức sai lầm. Tôi cho đây chỉ là
một ví dụ về việc tước đoạt
khỏi các linh mục năng lực sáng tạo và
sự thẳng thắn.
Những
linh mục nhút nhát há đă không được
Thiên Chúa ban cho - cũng như mọi người
khác – một tinh thần can đảm và một
ḷng trung thực đó sao? Người linh mục
nhút nhát là một người đă không may
hấp thu một năo trạng đầy tính áp
đặt và đe dọa về quyền lực.
Thay v́ vạch mặt loại quyền lực này
để thấy rơ bản chất của nó, các
linh mục nhút nhát – xuất phát từ một
cảm thức khiêm tốn sai lầm – lại hành
hạ kẻ khác, và trong tiến tŕnh đó làm
ách tắc những khả năng phát triển
sự vững mạnh nội tâm nơi chính ḿnh.
Việc
vượt qua tính nhút nhát đ̣i phải có
một sự đánh giá trung thực và một
sự huy động những tiềm năng
nội tâm, nhất là sự khôi phục tính
mềm mỏng bẩm sinh. Trong quá tŕnh này, các
linh mục và các thừa tác viên giáo dân có
thể được chữa trị và được
giải phóng khỏi sự áp chế chính ḿnh –
một sự chữa trị có thể đem
lại cho họ khả năng chữa trị
kẻ khác nữa. Thận trọng sáng suốt là
nhân đức giúp pḥng tránh cho các linh mục
khỏi làm nhiễm độc kẻ khác do
việc áp đặt cho họ cảm thức và
thực hành sai lầm của ḿnh về thái độ
lụy phục một cách nô lệ.
Này
bạn nhút nhát, hăy để cho Tin Mừng âm
vang trong cơi ḷng bạn, và hăy để cho
dầu hoan lạc thấm vào mọi lỗ chân lông
của bạn để giải phóng bạn! Hăy
cho phép ḿnh đón nhận sự dũng cảm và
sức mạnh của Đấng Bảo Trợ,
và bạn sẽ sinh hoa trái dồi dào! Hăy thành
khẩn cầu xin Chúa Thánh Thần đổ tràn
cho bạn đặc sủng can đảm và
niềm vui, nhờ đó bạn có thể an
ủi và khích lệ kẻ khác! Hăy nỗ lực
đào sâu nhận thức của bạn về Paraklesis
của Thánh Kinh, v́ chính Chúa Thánh Thần là
Đấng Bào Chữa cho bạn trước
Đấng Sáng Tạo! Chính năng lực
giải phóng của Chúa Thánh Thần – nếu
được bạn sẵn sàng đón nhận
– sẽ giải phóng bạn khỏi sự
rụt rè và nhút nhát, sẽ đem lại cho
bạn tràn trề niềm vui và đổ đầy
trong bạn ngọn lửa tự do, quà tặng quí
báu của Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần dũng
cảm và sáng tạo của Đức Kitô,
Vị Ngôn Sứ và là Người Tôi Tớ Giavê,
sẽ đem lại cho bạn tinh thần phi
bạo lực, sự tự do, ḷng tin tưởng
và nghị lực trong tâm hồn.
Kẻ bi quan
Những
người bi quan thâm căn cố đế có
thể được ví với những sinh
vật xem ra gây phiền toái nhất trên con tàu Nô-e.
Họ trút toàn những sự quấy rầy trên
kẻ khác. Một số trong họ là “những
ngôn sứ của thời cuối cùng”, thường
xuyên quấy nhiễu thiên hạ, như Giáo Hoàng
Gioan XXIII đă nhắc đến hồi đầu
Công Đồng. Thật không may cho chúng ta,
những kẻ bi quan ghê gớm ấy vẫn c̣n
khả năng tác động một cách tiêu
cực cho bầu khí Giáo Hội.
Nhiều
khi loanh quanh Vatican tôi bắt gặp những linh
mục với khuôn mặt nhăn nhó cách thảm
hại, trong những bộ áo thụng đen
viền sọc tía, tôi thường tự hỏi
không biết có cách nào để làm cho những
khuôn mặt ấy tươi tắn lại không.
Trong Giáo Hội không có chỗ nào có thể giúp
trị liệu cho những con người ấy
sao? Hay, ít nhất, không có chỗ nào để
những con người ấy lánh mặt đi
cho tới khi – nhờ ơn Chúa – họ vượt
qua được tính cách bi quan của họ và
không gây lây nhiễm cho kẻ khác sao?
Trong chính
ơn gọi của ḿnh, người linh mục là
dấu chỉ và là chứng tá của niềm vui
cứu độ. Linh mục được
mời gọi trở thành một bài ca ngợi
khen, một nguồn phấn khích và hy vọng,
ngay cả dù anh ta thuộc loại tính cách
sầu muộn. Nếu có được những
điều kiện thích hợp, có lẽ
những người sầu muộn bẩm sinh có
thể trở thành những Kitôhữu chiêm
niệm sâu sắc – một số thậm chí có
thể nhận được những kinh
nghiệm thần nhiệm.
Tuy nhiên,
những linh mục khác đă h́nh thành một thái
độ bi quan do bởi áp lực quá tải
của công việc và của những trách
nhiệm vượt quá khả năng đáp
ứng của ḿnh, nhất là những người
nằm trong các môi trường quá nhấn
mạnh đến tính hiệu năng và sự thành
công. Do các xu hướng tự nhiên của ḿnh,
những người bi quan có thể dễ dàng
trở thành bị chán nản do bởi những môi
trường căng thẳng và những cơ
cấu thiếu lành mạnh. Nếu họ có cơ
hội sống và làm việc trong một môi trường
vui vẻ, b́nh an, th́ họ có thể trở thành
những nguồn an b́nh và khích lệ cho nhiều
người khác. C̣n trong những hoàn cảnh éo
le nhất, rượu nồng trong tính cách riêng
của họ dễ dàng hóa thành giấm chua. Và
đây quả là một bi kịch!
Con
chồn hôi là biểu tượng của
những người bi quan trầm kha. Tướng
dạng của nó cũng được mắt,
nhưng nó là một nỗi kinh hoàng cho ai ở
gần, đặc biệt khi nó cảm thấy
bị đe dọa! Lần nọ khi đang có
mặt ở Mỹ, tôi ghé thăm Martin, em trai ḿnh.
Nhà của Martin thật xinh xắn, nhưng bị
bao vây bởi một mùi hôi rất khó chịu. Chú
ấy kể: “Em trông thấy một con chồn
hôi ngoài vườn và, thật không may, em đă
cố xua đuổi nó. Bị đe dọa, nó
tiết ra thứ mùi hôi ngào ngạt ĺ lợm như
thế đấy. Bây giờ em phải chờ mùa
mưa đến, may ra cái mùi khủng khiếp này
mới được gột rửa đi.”
Nếu
chồn hôi biết cầu nguyện, có lẽ nó
sẽ thưa: “Lạy Chúa là Chúa của mọi
tạo vật, gồm cả con nữa. Tướng
mạo con cũng khá đẹp đẽ, nhưng
chẳng ai thích nổi con. Lạy Chúa, tại sao
Chúa ban cho con thứ mùi này, một vũ khí
tự vệ quá lợi hại đến nỗi
khi thoáng ngửi ấy mùi của con, mọi người
đều chạy tránh xa và con phải lủi
thủi một ḿnh? Lạy Chúa, con sẽ cần
phải trải qua cuộc khủng hoảng nào
về căn tính, để có thể tống
khứ được thứ mùi này?”
Bạn
là người bi quan? Biết đâu đó, khi
đọc lời nguyện này của chồn hôi,
bạn chợt nhận hiểu chính ḿnh đầy
đủ hơn, và bạn sẽ bắt tay vào
một cuộc đổi thay chính ḿnh.
Anh hề
Mới
đây, tôi đọc thấy trên báo chí câu
chuyện về những nhóm hài thường xuyên
ghé đến giúp vui miễn phí tại khoa nhi
của các bệnh viện. Những nghệ sĩ
hài này, với khả năng trời cho, là
nguồn vui tuyệt vời của các em. Các bác sĩ
nói rằng các tṛ hài hước có tác dụng tích
cực cho tiến tŕnh trị liệu, nhất là
đối với những bệnh nhân mắc
chứng căng thẳng thần kinh. Tôi có quen
biết một anh hề rất dễ thương.
Anh là cha của ba đứa trẻ, và có thể
dễ dàng nhận một ghế giáo sư đại
học. Thế nhưng, anh chọn công việc
của một nghệ sĩ hài, và anh gieo
tiếng cười khắp mọi nơi. Tôi
thấy rơ ràng từ nơi anh toát ra một cái
nh́n lạc quan đối với cuộc đời.
Tôi cho h́nh ảnh người nghệ sĩ hài là
một h́nh ảnh rất gần gũi với
ơn gọi linh mục. Phải chăng những
con người hài hước như anh bạn
ấy của tôi – với tâm hồn rất
mực dễ thương – không thể
được Giáo Hội sai đi để làm
mục tử cho những nghệ sĩ hài khác,
cho các gia đ́nh, cho các bạn bè, và nhất là
cho những người ốm đau ủ dột
và đang cần đến dầu hoan lạc?
Đă
có thời các vị vua khôn ngoan thuê những anh
hề giúp vui cho triều đ́nh. Những anh chàng
ngớ ngẩn một cách tinh tế này được
trao cho đặc quyền được nói
bất cứ ǵ ḿnh thích, một cách khôi hài và
thường đồng thời một cách trào
lộng, nhằm mục đích vạch ra
những cái dở và những chiều hướng
nguy hiểm trong triều đ́nh. Như vậy, nhà
vua cho thấy ông hiểu được ư nghĩa
của sự tín nhiệm trước,
một sự tín nhiệm rốt cục đem
lại ích lợi cho ông. Nh́n thoạt qua, tṛ
hề có vẻ chỉ là tṛ hề thuần túy,
nhưng ẩn bên dưới thường có
một sứ điệp đầy ư nghĩa.
Những tuồng “táo bạo” nhất của các
anh hề trong hoàng cung thường nhằm
mục đích trách cứ hay cảnh giác nhà vua và
quần thần về những tiêu cực và sai sót,
một sự đóng góp rất có giá trị cho
sự ổn định của triều đại,
nếu nhà vua biết khôn ngoan sẵn sàng lắng
nghe.
Về
một phương diện nào đó, tṛ hề có
thể là một cách phản kháng lại
những sai trái; và về một phương
diện khác, nó có thể loan báo Tin Mừng
rằng t́nh h́nh có thể thay đổi để
nên tốt hơn, miễn là chúng ta đủ khôn
ngoan, như vị vua kia, biết mở tai nghe và
mở mắt nh́n. Tôi tin rằng không chỉ
một ḿnh tôi nghĩ đến nhu cầu
phải có một số anh hề thật “độc”
ở Vatican và ở nhiều nơi khác. Họ
sẽ góp phần lớn để biến
những nơi đó thành hấp dẫn hơn, lành
mạnh hơn và có tính xây dựng hơn.
Những anh hề thanh nhă, thâm thúy xứng đáng
được chúng ta biết ơn sâu xa, v́
họ không chỉ giúp chúng ta cười mà
họ c̣n giúp chúng ta nhận thức về ḿnh
một cách nghiêm túc. Tôi cho rằng một Giáo
Hội không trân trọng tiếng cười và
không đánh giá cao một cảm thức hài hước
thâm sâu th́ quả là một Giáo Hội không nghiêm
túc – theo ư nghĩa đích thực của hai
tiếng “nghiêm túc”.
Người
nhạc sĩ
Trên
con tàu Nô-e, chúng ta được nhắc nhớ
rằng Thiên Chúa đă thương yêu cứu
sống hàng ngàn loài chim chóc và những côn trùng
biết bay; chúng không chỉ đóng góp vào
hệ sinh thái mà sự sống chúng ta
cần đến, nhưng c̣n giúp chúng ta vui tươi
với những khúc nhạc của chúng, giúp chúng
ta biết cách thông truyền cho nhau niềm vui
cuộc sống.
Trong
cuộc sống ḿnh, nên chăng các linh mục
trở thành những nhạc sĩ tấu lên
những khúc ca và giúp người khác hát lên
lời ngợi ca Thiên Chúa? Nói rộng hơn, nên
chăng tất cả chúng ta là những Kitôhữu
cùng tấu vang những khúc nhạc mừng Đấng
Tác Thành mọi sự ḥa điệu? Việc chúng
ta diễn tả niềm vui ra bên ngoài và việc
chia sẻ niềm vui trong Chúa sẽ có tác
dụng khích lệ lẫn nhau một cách diệu
kỳ. Cả trái đất này cần phải
biết lên lời ca vang tận trời cao
những bài ca yêu thương như một
lời đáp trả t́nh yêu muôn trùng cao cả
của Thiên Chúa. Tin Mừng và tất cả
tạo vật tự chúng là những bài ca t́nh yêu
kiều diễm, là niềm vui bất tuyệt cho
chúng ta.
Đă
có thời, v́ đặc biệt nhấn mạnh
đến việc xướng hát của linh
mục trong phụng vụ, chỉ những người
được đào tạo tốt về
mặt này mới được truyền
chức linh mục. Rất may, tôi không rơi vào
cái thời như thế – nếu không, chắc
hẳn tôi đă gặp không ít rắc rối. Dù
sao, trong t́nh trạng mất tiếng nói của ḿnh
hiện nay, tôi vẫn rất yêu âm nhạc. Âm
nhạc của Beethoven, Mozart, Handel và Bach đem
lại cho tôi những nguồn cảm hứng sâu
xa, v́ những tác phẩm ấy – cũng như
âm nhạc chuyên biệt phụng vụ ngày nay –
vừa là kết tinh vừa là sự diễn
tả trái tim sáng tạo của Thiên Chúa. Âm
nhạc là tin mừng và là lời cầu
nguyện trác tuyệt luôn luôn có sức nâng tâm
hồn tôi bay bổng.
Điều
tôi muốn nhấn mạnh ở đây là: Trong
toàn bộ cuộc sống của ḿnh, các linh
mục cần phải trở thành những bài ca
ngợi khen đích thực, mời gọi mọi
người dâng lời ca ngợi bất tận lên
Thiên Chúa. Dù gặp phải cảnh ngộ nào
trong cuộc sống, chúng ta vẫn có hàng ngàn lư
do để vui mừng ca tụng và tạ ơn
Ngài.
Nhà chữa trị
Trong
nhiều tôn giáo, nhất là những tôn giáo sơ
khai, tư tế cũng đồng thời là
thầy thuốc, dù đó là nam hay nữ. Sự thánh
thiện rút ư nghĩa của nó ra từ
sự lành mạnh,
và như vậy hai từ ngữ trên có quan
hệ hỗ tương mật thiết với
nhau. Một cách vô song, Đức Giê-su Kitô
vừa là Đấng Mạc Khải vừa là Nhà
Chữa Trị – là Người Tôn Thờ hoàn
hảo của Thiên Chúa, là Đấng Cứu
Độ và Nhà Chữa Trị duy nhất của
mọi người và mọi tạo vật.
Nhờ
chính sự hiện diện của Ngài, nhờ t́nh
yêu và ḷng nhân hậu tuyệt đỉnh của
Ngài, nhờ sự tín nhiệm và niềm hy
vọng đầy sức cảm kích thể
hiện trong các mối quan hệ của Ngài,
Đức Giêsu phát tỏa ra và thông truyền sự
lành mạnh hiểu trong mọi ư nghĩa
của từ ngữ này. Ngài chữa trị
bằng một cách thế mà những kẻ
được chữa trị sẽ dâng lời
ca ngợi Thiên Chúa và – đến lượt ḿnh
– họ mang niềm hy vọng tới cho người
khác. Trong toàn thể con người ḿnh và
một cách vô điều kiện, Đức Giêsu
là Tin Mừng sống động của sự
chữa trị.
Trong
khi không phải mọi linh mục đều
phải trở thành những nhà tâm lư trị
liệu chuyên nghiệp hoặc trở thành
những bác sĩ y khoa, th́ các ngài vẫn cần
phải có một sự thấu hiểu sâu xa
về những yếu tố làm nên sự lành
mạnh toàn vẹn của con người, cũng
như phải nhận hiểu những ǵ có
sức hỗ trợ cho các mối quan hệ lành
mạnh.
Các nhà
thần học luân lư có bổn phận kiểm
tra mọi quan điểm và giáo huấn luân lư
để xem chúng có giúp thăng tiến sức
khỏe, sự lành mạnh và sự chữa
trị hay không, trong khi vẫn luôn trung thành
phản ảnh khuôn mặt đích thực
của Thiên Chúa. Cũng thế, các chuyên viên giáo
luật được ủy thác sứ mạng
kiểm tra việc xây dựng bộ giáo luật
để xem nó có thăng tiến các cơ
cấu và các mối quan hệ lành mạnh có
sức chữa trị hay không. Hơn nữa, các
nhà giáo luật có trách nhiệm cảnh báo đề
pḥng việc sử dụng luật theo chiều hướng
gây ra sự mất ḷng tin lẫn nhau, gây ra
những mặc cảm tự tôn và các hệ
quả tiêu cực khác.
Trong
việc chọn lựa các ứng viên có tiềm
năng cho chức linh mục, cần phải dành
quan tâm thích đáng đến sự lành mạnh
tâm lư nói chung và đến khả năng của
ứng viên trong việc khai mở và dưỡng
nuôi những mối quan hệ tín nhiệm nhau
giữa người với người. Điều
quan trọng là các linh mục và chủng sinh
phải đầy tràn niềm vui trong Chúa và có
một tâm hồn lạc quan, thể hiện nơi
t́nh yêu đối với mọi người.
Đây là những nhà chữa trị đích
thực, dù không phải lúc nào họ cũng cho
thấy rơ ràng điều này trong sứ vụ
của họ.
Người ngôn
sứ
Các
linh mục tốt lành không một cách tự
động có đặc sủng giải mă các
biến cố tương lai, nhưng là trong
mối hiệp nhất với các tín hữu,
chắc chắn họ phải học để
biết cách diễn dịch những “dấu
chỉ của thời đại”. Điều này
có thể được thực hiện qua
việc không ngừng tập chú trước
hết đến những dấu hiệu đầy
khích lệ về sự hiện diện của
Thiên Chúa và, trong mức độ thích đáng,
qua việc chú trọng đến các dấu
chỉ có tính báo động. Những ai chủ
yếu chú ư tới những lộn xộn
trục trặc sẽ có nguy cơ biến thành
“những ngôn sứ của thời cuối cùng”
– đối nghịch hoàn toàn với bổn
phận của người linh mục là rao
giảng tin mừng của Đức Kitô Cứu
Độ.
Con người
ngôn sứ có một nhăn quan toàn diện, họ
không bị lún vào những chi tiết nhỏ.
Họ là những con người biện phân các
biến cố hiện tại, bày tỏ niềm
biết ơn đối với những tốt
đẹp của quá khứ, và đảm
nhận trách nhiệm về tương lai. Trước
hết, những con người ngôn sứ ở
giữa chúng ta là những con người hoàn toàn
sẵn sàng để nắm bắt các cơ
hội mới (những khoảnh khắc kairos)
đem lại niềm hy vọng tươi sáng hơn
cho con người. Con người ngôn sứ không
bao giờ dung túng mối kết hợp ma quỉ
của “nếu’ và “nhưng”. Chính sự qui
phục sức mạnh cứu độ của
Thiên Chúa sẽ trao cho người ngôn sứ
sự sáng suốt đặc biệt để
nhận định những ǵ đang xảy ra
ở đây và bây giờ và để biết rơ
phải làm ǵ. Người ngôn sứ chia sẻ
nhăn quan lành mạnh của ḿnh cho người khác
và tác động người khác bằng năng
lực sáng tạo của ḿnh.
Các ngôn
sứ qua mọi thời đại đă lay động
lương tâm tập thể và cá nhân của chúng
ta và vạch rơ những cám dỗ tinh vi và
giấu ẩn. Tuy nhiên, đặc sủng vén
mở những ǵ xấu xa và nguy hiểm chỉ
có được dồi dào trong mức độ
mà nó cắm rễ trong sự đón nhận
với ḷng biết ơn về tất cả
những điều tốt lành được ban
cho chúng ta, đặc sủng này cũng có
thể được nhân lên bởi chính chúng ta.
Hối nhân thánh thiện
Trên
con tàu của ơn cứu độ, Phê-rô
được vây quanh bởi những hối nhân
thánh thiện mà ông kính phục sâu sắc.
Nhiều người đă sa ngă không nghiêm
trọng như ông, và chính Phê-rô hẳn cũng
nh́n nhận rằng họ vượt qua ông
cả về ḷng khiêm nhường lẫn về
thái độ ăn năn thống hối.
Karl
Rahner nói rằng Giáo Hội thánh thiện trong
mức độ mà Giáo Hội là một hối
nhân thánh thiện. Điều này cũng áp
dụng cho các linh mục. Nếu chúng ta tự cho
ḿnh là công chính và tự măn về những thành
tích của ḿnh, chúng ta vẫn c̣n đứng trên
đỉnh đống phân cao ngạo, và
tiếng gà gáy cho Phê-rô – trước khi ông sám
hối – cũng gáy cho cả chúng ta nữa.
Con
số ngày càng tăng các linh mục sa ngă về
đức khiết tịnh ngày nay đă gây cho Giáo
Hội nhiều khổ sở và – trong nhiều
trường hợp – đă tạo ra gương
xấu cho các tín hữu cũng như cho những
người không tin. Chẳng hạn, việc dư
luận tố cáo ầm ĩ về những x́ căng
đan t́nh dục với trẻ em ngày hôm nay không
chỉ làm tổn thương đến các
nạn nhân bị lạm dụng, vốn rất
đông đảo, mà c̣n làm tổn thương
đến các linh mục tốt phải bị
điều tra nhũng nhiễu. Tuy nhiên, tôi
muốn khích lệ các linh mục đă lỡ sa
ngă về đức khiết tịnh, dù sa ngă
trong trường hợp nào đi nữa, hăy nh́n
ngắm và bắt chước mẫu gương
của các hối nhân thánh thiện. Đồng
thời, chúng ta đừng bao giờ quên rằng
dù tội lỗi về khiết tịnh có kinh
khủng đến mấy, th́ vẫn có nhiều
dạng sa ngă khác - không kém trầm trọng hơn
và không kém tàn phá hơn - cần được
chúng ta ư thức và hoán cải không ngừng trong
cả đời ḿnh.
Vào
thời mà luật buộc tất cả các linh
mục địa phận phải tĩnh tâm ít
nhất hai năm một lần, một linh
mục đă đến gặp tôi và tâm sự:
“Thưa cha, việc xưng tội c̣n có ư nghĩa
ǵ cho con nữa, khi mà con biết rằng t́nh
trạng của ḿnh đă hoàn toàn hết hy
vọng rồi? Con đă phạm h́nh như
hết mọi thứ tội liên quan đến
Điều Răn Thứ Sáu!” Chúng tôi đă có
một cuộc trao đổi tốt đẹp và
cặn kẽ với nhau. Tôi kết luận
rằng nếu ước mơ của anh ta không
ǵ hơn là trở thành một kẻ giữ
luật một cách xoàng xoàng như bao kẻ xoàng
xoàng khác, th́ tôi không có mấy hy vọng đặt
nơi anh. Đàng khác, tôi nói: “Anh c̣n một
chọn lựa khác nữa: Anh có thể trở thành
một vị thánh!” Anh ta rất đỗi
ngạc nhiên, và trong ràn rụa nước
mắt, anh trả lời tôi: “Thưa cha, với
ơn Chúa giúp, con sẽ cố gắng!” Trong
nhiều năm, anh vẫn giữ liên lạc
với tôi – và kỳ thực, nhờ ơn Chúa,
anh đă triệt để đổi đời.
Thỉnh thoảng, anh viết cho tôi những gịng
này: “Vâng, thưa cha, mọi sự đang
diễn tiến tốt đẹp cho con, bao lâu con
c̣n can đảm sống đời sống
của một hối nhân thánh thiện.” Và dĩ
nhiên, trong các cuộc trao đổi giữa chúng
tôi, chúng tôi thường đề cập đến
những cách thế mà trong đời sống
hằng ngày ḿnh có thể chứng tỏ rằng
ḿnh là một hối nhân thánh thiện. Nhiều
năm sau nữa, anh bạn linh mục ấy
khẩn thiết nói với tôi: “Cha nên kể
lại sự thật đầy thách đố
đă biến đổi đời con này cho
tất cả những ai trong hoàn cảnh tương
tự.” Và, bạn đọc thân mến, tôi
đă kể cho bạn đấy.
Một
lần khác, tôi ghé thăm một linh mục
vừa bị kết án hai năm tù về tội
khai man trước ṭa. Số là anh ta đă
thề mà chối tội dụ dỗ và lạm
dụng t́nh dục một đứa trẻ. Tôi
trao cho anh sứ điệp hy vọng: “Anh hăy
quyết định đi! Anh có thể nên thánh
đấy. Song, sẽ chẳng thể có chút hy
vọng nào cho anh, nếu anh chỉ nhắm làm
một con người tà tà loại thường.”
Trong thời gian chấp hành án tù, với ḷng khiêm
tốn và tốt bụng của ḿnh, anh đă
thật sự
trở thành một tông đồ cho các bạn tù
của anh. Về sau, anh được cử
đi làm mục vụ ở nước
ngoài, và vị giám mục của giáo
phận đó – vốn nắm hiểu tất
cả những ǵ đă xảy ra – đă trao cho
anh một cơ hội khác. Nhiều năm sau
nữa, tôi có dịp gặp một số tín
hữu thuộc giáo xứ anh. Không biết ǵ
về quá khứ của cha sở ḿnh, họ
trầm trồ rằng cha sở của họ là
một mục tử thánh thiện, một mục
tử khiêm nhường và có đời sống
cầu nguyện thâm sâu, một mục tử
sống đời sống giản dị
đơn sơ tận cùng.
Tôi nghĩ
đến tất cả những linh mục
được xem là hoàn toàn găy đổ trước
con mắt của nhiều người. Sự
hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa
vẫn luôn luôn có sẵn cho các linh mục ấy,
nếu họ biết tích cực đón nhận
Ngài và quyết tâm phấn đấu để
trở thành một hối nhân thánh thiện.
Nếu họ có thể thành thật dứt khoát
chọn lựa sự đổi đời, và
nếu – trong tiến tŕnh đó – họ
được giúp đỡ bởi một người
bạn đầy quan tâm khích lệ, họ hoàn
toàn có thể thành công. Hơn nữa, trong
cuộc phấn đấu để hoàn thiện
bản thân, họ chuyển tải cho tất
cả chúng ta chân lư thâm sâu rằng Giáo
Hội chỉ thánh thiện trong mức độ
các phần tử trong Giáo Hội là những
hối nhân thánh thiện.
Tôi cũng
nghĩ đến các linh mục khác – những
linh mục mà chính niềm quyết tâm muốn
phấn đấu trở thành một hối nhân
thánh thiện đă dẫn họ tới chỗ
khiêm tốn quyết định trở về
bậc sống giáo dân. Chỉ có Chúa mới
biết rơ về vô số “cựu linh mục”
đă trở thành những mẫu gương
sống động tuyệt vời qua ḷng khiêm nhường
và nhiệt tâm của họ. <OJ>
|