BERNARD
HARING, C.SS.R.
------------------------------
GIÁO HỘI
CẦN
LOẠI
LINH MỤC NÀO ?
------------------------------
<OJ>
-2001-
Lm.
Lê Công Đức
Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD
IMPERILED,
A
Critical Examination Of The Ministry
In
The Catholic Church
Của:
BERNARD HARING, C.SS.R.
Do
nhà: TRIUMPHTM
BOOKS,
Liguori,
Missouri xuất bản
7. NHỮNG
VẤN NẠN XUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐỘC
THÂN
Khi nói
về sự độc thân v́ Nước
Trời, chúng ta phải hết sức cẩn
thận để phân biệt giữa độc
thân xét như một sự chọn lựa
tự do nơi tự thân nó và sự độc
thân được chọn lựa như
một điều kiện dứt khoát để
được truyền chức linh mục.
Những xem xét
khẩn trương
Những
xem xét xa hơn nữa sẽ giúp chúng ta phân
biệt giữa sự chấp nhận tự
do đích thực đối với đời
độc thân xét như là tiêu chuẩn
được kỳ vọng cho chức linh
mục của đời tu và, đàng khác,
sự chấp nhận tự do không chủ
yếu cho giá trị và hấp lực nội
tại của chính nó - mà bởi v́ đó là
điều kiện dứt khoát để trở
thành một linh mục. Qua quá tŕnh thời gian, sự
đồng ư v́ luật đ̣i hỏi nó có
thể trở thành một nguồn vui với
một nhận thức được đào sâu
hơn về ư nghĩa và vẻ đẹp
của nó, hoặc đàng khác nó có thể ngày càng
trở thành một gánh nặng phải mang.
Mỗi
linh mục sống đời độc thân
của ḿnh một cách độc đáo trong
bối cảnh văn hóa và xă hội riêng
của ḿnh. Chúng ta sẽ nhận ra rằng
bối cảnh xă hội tại phần lớn các
quốc gia ngày nay rất khác biệt với
bối cảnh đă tồn tại vào thời mà
luật nối kết chức linh mục với
đời độc thân xuất hiện trong Giáo
Hội.
May mắn
Việc
so sánh giữa t́nh yêu và sự trung thành
trong đời hôn nhân đích thực với
một đời sống độc thân đích
thực sẽ là khởi điểm của tôi
cho cuộc thảo luận này, v́ tôi tin rằng
một đời hôn nhân hạnh phúc là một h́nh
ảnh thích đáng để đối chiếu
với một cuộc đời độc thân
được sống cách chân thực và
thuyết phục.
Vợ
chồng Eric và Dorothee, những người
bạn của tôi, mời tôi tham dự dịp
họ cử hành ngân khánh hôn nhân. V́ tôi không
thể tham dự, sau đó Eric đă kể cho tôi
mẩu đối thoại giữa anh và vợ anh
trong dịp đó. Trước mặt tất
cả bạn bè và quan khách, anh nói với vợ:
“Thật may mắn em ạ!
Hôm nay chúng ta vẫn yêu nhau như chúng ta
đă yêu nhau vào ngày đầu tiên của
cuộc sống vợ chồng.” Nghe tới
đây, vẻ mặt Dorothee sa sầm, và Eric
kịp nhận ra ḿnh đă nói tầm phào, anh
lập tức đính chính:
Anh xin lỗi
v́ đă đánh giá chưa đúng về
cuộc sống chung giữa chúng ta. Một điều
rất rơ ràng là t́nh yêu của chúng ta đă
được đào sâu và trở nên vững
chắc hơn. Trong quá tŕnh đó, chúng ta đă
học biết chấp nhận những mảng
tối của nhau – là cái làm cho ánh sáng trở
nên rực rỡ hơn. Qua ngần ấy tháng năm,
chúng ta đă giúp nhau xử lư các điểm
yếu của ḿnh. Đành rằng khi đi vào
cuộc sống chung, chúng ta đă đủ trưởng
thành, nhưng quá tŕnh học hỏi đă không
phải lúc nào cũng lăng mạn. Chúng ta đă
thường cần phải xin nhau sự thứ
tha. Và t́nh yêu của chúng ta đă lớn lên
biết bao khi chúng ta chia sẻ nó với bốn
đứa con của ḿnh, nhất là trong quá tŕnh
học hỏi hết sức thiết yếu để
nuôi dạy Gerald, đứa con trai bệnh
hoạn tội nghiệp của chúng ta. Cám ơn
em thật nhiều, Dorothee! Ngay từ đầu,
em đă sẵn sàng tín nhiệm vào anh – và em
vẫn luôn luôn sẵn sàng tín nhiệm như
thế trong quá tŕnh cả hai chúng ta ngày càng khám
phá nhiều hơn về các tiềm năng bên
trong của ḿnh. Chúng ta hăy hy vọng rằng,
trong những năm sắp đến, t́nh yêu
của chúng ta sẽ tiếp tục lớn lên,
tiếp tục sinh hoa trái và chín muồi.
Những
ư tưởng tuyệt vời ấy của anh
bạn tôi đă thường xuyên thúc đẩy
tôi suy tư về cách sống và cách yêu đời
độc thân của chính ḿnh trong và xuyên qua t́nh
yêu không ngừng lớn lên của Đức Kitô.
Tôi cảm nghiệm Đức Kitô đă diễn
tả t́nh yêu của Ngài đối với tôi
một cách vô cùng quảng đại và kiên
nhẫn. Rơ ràng chính bởi t́nh yêu mà Thiên Chúa
đă chọn tôi vào đời sống linh
mục, và tôi có thể chân thành nói rằng cũng
chính bởi t́nh yêu mà tôi đă đáp trả
lại tiếng gọi ấy. Chắc hẳn hơn
cả Eric và Dorothee, tôi đă phải học
biết loại t́nh yêu này đ̣i hỏi
những ǵ và bao hàm những ǵ. Đó là một
quá tŕnh học tập lâu dài, và tôi hoàn toàn
nhận ra rằng quá tŕnh này phải tiếp
tục. Tôi vuốt ve hy vọng rằng tôi sẽ
luôn luôn là một học tṛ chăm chỉ,
biết mở ra đón nhận những ư tưởng
mới và những khả năng mới. Tạ
ơn Chúa v́ trên đường ḿnh đi tôi
đă không có một khủng hoảng nghiêm
trọng nào, nhưng chắc chắn đă có
nhiều lỗi lầm và thiếu sót. Cho phép
ngọn lửa của Thánh Thần thanh luyện các
động cơ của ḿnh và, đồng
thời, đánh thức trong ḿnh một tinh
thần khiêm tốn và quảng đại sâu xa hơn,
tôi cảm nghiệm thấy việc đó đă
không phải bao giờ cũng “du dương lăng
mạn”.
Chỉ
dần dần tôi mới nhận biết rằng
Đức Kitô, Đấng Cứu Độ,
đă gặp gỡ và đă trắc nghiệm ḿnh
nhất là qua những con người trong hoàn
cảnh khốn khổ, chẳng hạn những
người li dị – họ ch́m đắm trong
bao nỗi khó khăn, họ phải chịu đựng
bao thái độ phê phán và bài xích, ngay cả
từ phía Giáo Hội. Mặc dù nay tôi đă
luống tuổi, tôi vẫn ư thức rằng ḿnh
chỉ là một học tṛ bé bỏng mà thôi.
Sống
độc thân và yêu thương trong tư cách
một con người độc thân trong thế
giới hôm nay là một công việc chỉ có
thể đảm nhận trôi chảy khi chúng ta
đặt sự tín thác của ḿnh không phải
vào chính ḿnh mà vào chỉ một ḿnh Thiên Chúa, và
biết không ngừng mở ḷng ra đón nhận
sự hướng dẫn của Mầu Nhiệm
Thánh.
Cám
ơn các bạn, Eric và Dorothee, v́ đă tặng
cho tôi một bài học tuyệt vời! Mong sao bài
học này sẽ sinh hoa kết quả trong đời
tôi và trong đời nhiều bạn bè linh
mục độc thân của tôi!
Bất chấp
những khó khăn
Có
lần tôi giảng tuần đại phúc cho
những người tị nạn. Vài ngày đầu,
trong số những người lớn đến
tham dự chỉ có một người là đàn
ông. Không rơ v́ lư do ǵ, những người đàn
ông khác trong thị trấn hứa với nhau
rằng họ sẽ không đến nghe giảng.
Ṭ ṃ muốn t́m hiểu, tôi gặp đôi
vợ chồng duy nhất vốn vẫn đến
tham dự một cách đều đặn và
sốt sắng. Trong cuộc trao đổi ấy,
người vợ đă kể cho tôi nghe câu
chuyện riêng của chị. Hồi c̣n là
một thiếu nữ, chị từng có ư định
trở thành một nữ tu, nhưng rồi
chị gặp Robert và phải ḷng anh ấy.
Bị giằng co trong ḷng, chị gặp cha
giải tội và thố lộ nỗi băn khoăn:
“Thưa cha, giữa hai đàng: trở thành
một nữ tu và chinh phục một người
đàn ông về với đức tin, đàng nào
sẽ đẹp ḷng Chúa hơn?” Chị tin
chắc rằng ḿnh sẽ thuyết phục
được Robert một cách khá dễ dàng, v́
anh ta là một chàng trai thật sự tuyệt
diệu. Quả vậy, chị đă hoàn toàn thành
công trong việc đó.
Chính
nhờ những cố gắng của người
chồng rất có khả năng và giàu nhiệt
tâm của chị mà chúng tôi đă có thể lôi
kéo được hầu như tất cả nam
giới Công Giáo của thị trấn ấy
đến với tuần đại phúc. Người
vợ tuyệt vời của anh đă bắt
đầu bằng một cú liều lớn, và
chị đă gặt hái được gấp trăm.
Điều tương tự cũng đúng đối
với nhiều người trẻ cảm
thấy viễn tượng sống độc thân
suốt đời là một cú liều. Nếu các
linh mục thật sự yêu mến Thiên Chúa và
đoàn dân của Ngài, trong đó gồm cả
những con người khó khăn và khốn
khổ nhất, tại sao họ không dám liều
và – trong ư thức về những giới
hạn của con người ḿnh – mạnh
dạn xin được giải chức trong trường
hợp họ nhận ra rằng ḿnh không thể
sống độc thân được nữa?
Một
số người trẻ rất nhiệt thành
với Thiên Chúa và rất say mê việc chinh
phục người ta cho Thiên Chúa, nhưng họ
không thích thú với đời độc thân,
nhất là nếu họ sợ sự nguyền
rủa của những kẻ khác và lo ngại
khả năng ḿnh có thể bị đối
xử tệ hại trong trường hợp ḿnh
không sống cuộc đời độc thân
một cách trung thành. Những người trẻ
này phải có đủ can đảm để
tự ḿnh mạnh dạn chọn lựa. Không ai
có thể nói cho ai khác biết sự
chọn lựa ấy liều lĩnh như
thế nào.
Tuy nhiên,
cần ghi nhận một điều ở đây.
Trong một số trường hợp cha giải
tội hay người tư vấn có thể
phải vạch rơ rằng cú liều ấy có
thể quá không cân xứng. Mặt khác, người
ta sẽ dễ dàng hơn và yên tâm hơn để
quyết định chọn lựa cú liều
ấy nếu những người cầm
quyền trong Giáo Hội có cái nh́n cảm thông hơn
khi xảy ra trường hợp có những linh
mục – ở mọi độ tuổi - dù
nỗ lực hết sức ḿnh nhưng vẫn
đến lúc nhận ra rằng ḿnh không thể
luôn luôn sống đời độc thân cách
trọn vẹn.
Từ
kinh nghiệm giảng dạy và giúp tĩnh tâm cho
hàng ngàn linh mục trên khắp thế giới, tôi
được biết rất nhiều linh mục
là những người sau một thất bại
ban đầu đă có thể sống đời
độc thân linh mục một cách khiêm tốn
và nhiệt thành thực sự. Cũng như trong
hôn nhân, sự dấn thân sống đời
độc thân thường sẽ mănh liệt hơn,
hạnh phúc hơn và đích thực hơn sau
một cơn khủng hoảng.
Có
nhiều linh mục thực sự rút ra
được hạnh phúc từ cuộc
sống độc thân (chứ không phải
họ vẫn hạnh phúc được dù họ
sống độc thân!) Cũng có nhiều linh
mục rất hạnh phúc trong đời độc
thân song họ có thể c̣n hạnh phúc hơn
nữa và rực sáng hơn nữa nếu như
họ được phép kết hôn hoặc
nếu như họ đă được
truyền chức trong tư cách là những người
kết hôn. Có những linh mục có những
phẩm chất nhân bản và tôn giáo tuyệt
vời song lại gặp rắc rối về
những vấn đề tính dục, chẳng
hạn chuyện thủ dâm – một khó khăn mà
họ không thể vượt qua, bất chấp
bao nỗ lực lớn lao ḿnh đă thực
hiện; những linh mục này càng khốn đốn
hơn nữa do bởi thái độ bi thảm hóa
một cách quá quắt của Giáo Hội đối
với vấn đề thủ dâm. Thường
th́ thủ dâm không phải là một vấn đề
luân lư chút nào cả, mà đúng hơn đó là
một vấn đề tâm lư và có liên quan đến
hoóc-môn.
Nếu
các linh mục được giúp đỡ
một cách thuyết phục để bớt bi
kịch hóa những khó khăn của họ,
họ có thể ngạc nhiên nhận ra rằng ḿnh
dần dần trở nên được tự do
trọn vẹn. Ngay cả dù điều đó không
xảy ra, họ vẫn có thể trở thành
những linh mục tuyệt vời. Một số
linh mục thực sự trở thành những linh
mục và những nhà chữa trị tuyệt
vời chính nhờ các vấn đề mà họ
phải đương đầu và đang
cố gắng vượt qua. Trong sự hiểu
biết và chấp nhận hoàn toàn những
yếu đuối của ḿnh, họ trở nên
khiêm tốn hơn, cảm thông hơn và nhân
hậu hơn đối với những người
yếu đuối khác. Tôi cho rằng nhiều người
trẻ rất có thể sẽ sẵn sàng hơn
để chọn lựa đời linh mục
độc thân nếu như vấn đề
thủ dâm không bị thổi phồng và hiểu
sai một cách quá đáng.
Trái
lại, một linh mục sống thành công đời
độc thân của ḿnh và có tài năng về
giảng dạy, tư vấn ... vẫn có thể
bị cám dỗ nếu không bởi tính kiêu hănh
th́ cũng bởi ḷng tự tôn. Khi ḷng tự tôn
này phát triển ngày càng lồ lộ hơn,
vấn đề của ông thậm chí có thể
trở thành nghiêm trọng hơn nữa: ông
dễ dàng tiến tới chỗ tự măn.
Một
linh mục vui tính và cởi mở nọ có
lần kể cho tôi nghe cách mà anh ta giải
quyết được tính tự tôn nơi ḿnh.
Anh giải thích cho giáo dân của ḿnh rằng
việc phê b́nh một cách trung thực thẳng
thắn là một nhân đức, và anh cho họ
biết rằng lúc nào họ cũng có quyền
– thậm chí có bổn phận – phê b́nh
chủ chăn của họ, đó chính là
một hành vi bác ái. Một giáo dân, thấm
nhuần những lời đó của anh, đă
gặp anh vào Chúa Nhật sau đó và nói: “Thưa
Cha, nghe bài giảng của Cha, con cứ tưởng
như ḿnh đang nghe chú gà trống của Thánh
Phê-rô đang gáy bài ca tự khoe khoang ḿnh
bằng những ngôn từ hoa mỹ.” Anh bạn
của tôi nói rằng anh bị sốc kinh
khủng bởi câu nói ấy, song anh cho biết cũng
chính nhờ đó mà anh đă bước
xuống khỏi đỉnh núi cao ngạo của
ḿnh. Trong câu chuyện này và trong những câu
chuyện tương tự khác, tôi tin rằng
điều mà nhiều linh mục có thể rút ra
là rằng dù ǵ đi nữa th́ mọi sự cũng
đă diễn tiến tốt đẹp.
Độc thân trong so sánh với một cuộc hôn
nhân vô hiệu
Chỉ
trong vài thập niên gần đây các chuyên viên
giáo luật và luân lư mới khám phá thấy và
chấp nhận sự kiện rằng rất
nhiều cuộc hôn nhân trong Giáo Hội có
thể được tuyên bố là vô hiệu
bởi v́, ngay từ đầu, những mối
kết hợp này tự bộc lộ cho thấy
là quá yếu ớt và bệnh hoạn đến
nỗi chẳng có mấy cơ hội thành công,
ngay cả khi một trong hai hoặc cả hai bên
đều có ư hướng ngay lành. Mặc dù
những đôi bạn này được thấy
cũng b́nh thường thôi, song trong tính t́nh,
cảm nghĩ và những khía cạnh quan
trọng khác, họ quá khác biệt nhau đến
độ hoàn toàn lạ lẫm, và rơ ràng họ
không thể nào vượt qua được
những phản ứng “dị ứng” đối
với nhau. Đành rằng chúng ta không phủ
nhận những khác biệt thường là
yếu tố giúp cho người ta nên phong phú,
song chúng ta cũng phải thừa nhận rằng
một số khác biệt quá lớn đến
nỗi việc sống chung với nhau suốt
đời chỉ làm cho đôi bạn thành
bệnh hoạn kinh niên. Từ lâu rồi, Giáo
Hội Chính Thống đă nhận ra rằng
điều này hoàn toàn có thể xảy ra, và
rằng những cuộc hôn nhân ấy có thể
không những được coi như đă
chết mà thậm chí có thể được
coi là không thành sự ngay từ đầu.
Cũng
vậy, điều tương tự có thể
xảy ra - và đă rất thường xảy ra
- trong đời sống độc thân không x́-căng-đan
hoặc ít nhất là không có x́-căng-đan nghiêm
trọng. Làm sao một chàng trai hai mươi ba
tuổi có thể thấy trước được
hết mọi vấn đề khó khăn
thực tế xung quanh đời sống độc
thân của một ông cha sở? Vấn đề
càng khó hơn nữa khi chàng trai này vốn
được niêm kín trong hàng rào của
tiểu chủng viện và đại chủng
viện, hoàn toàn cách ly khỏi cuộc sống bên
ngoài.
Tất
cả chúng ta đều từng biết những
câu chuyện đại loại như một linh
mục tốt lành đáng kính nào đó bỗng
dưng làm mọi người phải ngạc nhiên
khi ông xin được giải chức –
tức ‘hồi tục’, theo cách nói vẫn c̣n
rất phổ biến ngày nay. Trong một số
trường hợp, đây không phải là
vấn đề độc thân mà đúng hơn
đây là một kinh nghiệm thương tổn
thâm sâu mà tôi xin đặt cái tên là “tưởng
vậy nhưng không phải là vậy”. Xin
kể ở đây một trường hợp –
chắc hẳn không phải là một trường
hợp hi hữu.
Tại
bữa ăn chung vào ngày Lễ Giáng Sinh, ông cha
sở độc đoán nọ mắng xối
xả anh linh mục phụ tá hai mươi chín
tuổi của ḿnh v́ linh mục trẻ này
duỗi thẳng hai cánh tay khi đọc lời
nguyện - (anh bắt chước điều này
nơi một vị hồng đáng kính). Cha
sở nói: “Anh sẽ biết tay tôi nếu anh c̣n
tiếp tục làm gương xấu qua việc
bất tuân phục các qui luật thánh của
phụng vụ.” Một cách từ tốn, anh
linh mục trẻ lên tiếng: “Bất tuân
phục như đức hồng y, giám mục giáo
phận chúng ta, phải không thưa cha?” Câu nói
đó quá đủ để cho cha sở
lồng lộn lên, ông phồng mang trợn
mắt quát: “Bổn phận của anh là
phải tuân phục luật lệ của Giáo
Hội, chứ không phải là bắt chước
một hồng y. Anh chỉ là một linh mục
phụ tá quèn. Anh không là cái thá ǵ cả, anh
hiểu không?”
Chiều
tối hôm ấy, gặp lại nhau chỗ chân
cầu thang, cha sở lại xả cơn hằn
học của ḿnh lên cha phụ tá một lần
nữa. Vài năm sau, anh linh mục trẻ này cho
tôi biết rằng đó chính là buổi tối
mà anh thủ dâm lần đầu tiên – không
phải để t́m khoái cảm mà chỉ như
một cách bày tỏ nỗi chán nản tột cùng.
Rồi, v́ anh c̣n tiếp tục sống ở
đó nên những cuộc ‘đụng độ’
với cha sở vẫn c̣n tiếp tục -
thế là, anh tiếp tục thủ dâm theo
với đà leo thang của nỗi chán nản
trong ḷng ḿnh. Anh t́m sự giúp đỡ của
một nhà tâm lư trị liệu; qua trao đổi,
vị y sĩ này xác quyết rằng anh cần
được giải phóng khỏi môi trường
ngột ngạt và độc hại ấy.
Vị y sĩ khuyên anh xin giải chức, giải
thích rằng đó là điều kiện tiên
quyết để mong có cơ hội chữa
trị vấn đề của anh.
Nhiều
năm sau đó nữa, tôi gặp lại anh. Lúc
này anh đă kết hôn với một phụ
nữ duyên dáng và đă có những đứa
con kháu khỉnh. Hơn nữa, anh kể rằng
anh đang tham gia tích cực vào giáo xứ trong tư
cách một giảng viên giáo lư. Quả thật,
cả gia đ́nh anh toát ra một tinh thần
nhiệt tâm truyền giáo, và cả nhà đều
hạnh phúc. Thế nhưng, tôi vẫn trằn
trọc băn khoăn rằng biết đâu
chức linh mục và đời độc thân
của anh đă không bị đánh mất,
nếu như anh không vướng phải
những kinh nghiệm nghiệt ngă ấy. Điều
ǵ sẽ xảy ra nếu như anh đă
được trao cho cơ hội sống với
những linh mục tốt lành, những linh
mục biết giúp nhau nên phong phú bằng cách
chấp nhận tính cách riêng của mỗi người?
Vô số người xung quanh chúng ta, kết hôn
hay độc thân, đă từng là nạn nhân
của những thương tổn tương
tự – duy chỉ v́ những dị ứng đối
với sự khác biệt trong cá tính.
Luật
hiện hành của Giáo Hội Công Giáo Rôma qui
định rằng độc thân là cửa ngơ
duy nhất để bước vào chức linh
mục thừa tác. Một luật như thế
thật độc hại cho nhiều người
do bởi kinh nghiệm của họ về một
“Giáo Hội khác”, cắm rễ trong những cơ
cấu độc đoán và in đậm dấu
những thái độ tiêu cực, những phán xét
và những pháp chế từ trên cao ban xuống.
Ở đây tôi không thể không nói lên quan điểm
của ḿnh đối với cách giải
quyết trong trường hợp các linh mục
xin được giải chức – một cách
giải quyết rất giống với (đôi
khi c̣n căng hơn) cách giải quyết
được áp dụng cho những người
li dị. Nói tắt, đó là cách giải
quyết quá hà khắc!
Tôi
đă có dịp trao đổi với Giáo Hoàng
Phao-lô VI về vấn đề này; và tôi
nhận ra rằng ngài hết sức nhạy
cảm đối với vấn đề.
Thậm chí ngài đă gửi các linh mục có
chuyện rắc rối đến gặp tôi
để được tư vấn. Hơn
nữa, ngài hứa sẽ xướng xuất
những thay đổi. Cho tới lúc bấy
giờ, thỏa ước giữa Ṭa Thánh
với chính phủ Ư qui định rằng
những linh mục hồi tục để
kết hôn sẽ không được chính
phủ cung cấp việc làm. Theo quan điểm
của Giáo Hội, một linh mục đă
kết hôn và có con cái chỉ có thể được
nhận vào hiệp thông với Giáo Hội khi
đương sự cung cấp được
bằng chứng rằng ḿnh tiết dục hoàn
toàn, sống chung với vợ chỉ như anh em
thôi. Nếu vị linh mục này ‘xé rào’ dù
chỉ một lần, đương sự
sẽ mắc vạ và phải được
thẩm quyền Ṭa Thánh Rôma giải quyết. Giáo
Hoàng Phao-lô VI đă có những thay đổi
dứt khoát về vấn đề này.
Ngay
đầu triều đại của ḿnh, Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đă áp dụng một biện pháp
nghiêm ngặt hơn nhiều so với vị
tiền nhiệm. Theo chỗ tôi ghi nhận, các
kết quả chỉ có bi đát hơn chứ không
khích lệ chút nào. Thật vậy, người
ta nhận thấy nhiều cựu linh mục
kết hôn theo thủ tục dân sự hay thậm
chí chỉ sống chung với người
‘bạn’ của họ mà không hề có hôn thú
theo pháp luật. Một sự kiện khác cũng
nghiêm trọng không kém, đó là tôi nghe một
số bạn trẻ nói rằng họ không c̣n có
đủ can đảm để lănh chức thánh
và sống đời độc thân linh mục
bởi v́ họ sợ sẽ gặp lôi thôi
lớn nếu
chẳng may sau này họ khám phá ra rằng ḿnh
thực sự không thể sống độc thân
được.
Hai nẻo đường
khác biệt
Về
mối ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân,
của độc thân, và – quả thật -
của toàn bộ đời sống Kitôhữu, có
hai cách nhận hiểu và thực hành rất khác
biệt. Một là nẻo đường của
Tin Mừng, từ lăng kính này Thánh Phao-lô nh́n
thấy mọi sự trong nhăn giới của ân
sủng Thiên Chúa. Nẻo đường thứ
hai là nẻo đường thiên lệch về
luật, về sự giữ luật và sự
kiểm soát bởi luật.
Hôn nhân,
như được hiểu từ viễn tượng
ân sủng, có nghĩa là tín thác rằng Thiên Chúa
sẽ ban ơn giúp sức cho người ta để
họ dám dấn thân vào giao ước hôn
nhân trong viễn tượng trung thành suốt
đời với giao ước ấy. Ngay cả
trong trường hợp gặp những khó khăn
và trắc trở, người ở trong giao ước
hôn nhân vẫn không bỏ cuộc. Nói đúng hơn,
cũng như Thiên Chúa tiếp tục không
ngừng tín nhiệm trước đối
với đôi bạn, đôi bạn được
mời gọi thể hiện cùng một sự
quảng đại và ḷng tín nhiệm như
thế. Sự tha thứ của Thiên Chúa
được thực hiện bởi việc người
ta kêu xin và sẵn sàng cung ứng sự tha
thứ về những lỗi lầm và những
vấp ngă của nhau. Chỉ khi một
cuộc hôn nhân trở nên rơ ràng không c̣n là
một con đường cho hai người chia
sẻ ơn cứu độ nữa và trở thành
mối nguy hại lớn cho tính thống nhất
và sự lành mạnh của cá nhân th́ lúc ấy
hai người mới có thể chia tay – dĩ
nhiên vẫn không bao giờ đánh mất
niềm hy vọng rằng rồi sẽ đạt
được sự tha thứ lẫn nhau.
Trong
khi đôi bạn không nên bước vào giao ước
hôn nhân một cách nông nổi hay một cách tùy
tiện, th́ sự thành công vẫn không hoàn toàn
được bảo đảm ngay cả trong trường
hợp họ đă quyết định một cách
đầy cân nhắc. Bất chấp ư hướng
ngay lành vào ban đầu, có thể rồi đến
một ngày đôi bạn khám phá ra rằng
mối kết hiệp giữa họ đă đổ
vỡ không thể hàn gắn được. Ngay
cả lúc ấy, hay phải nói đặc
biệt là lúc ấy, cả hai người
cần biết tín thác hơn nữa vào Thiên Chúa,
Đấng luôn rộng ban cho họ khả năng
bắt đầu lại và khích lệ họ xem
xét lại toàn cục vấn đề để
t́m ra giải pháp tốt nhất có thể.
Từ
nhăn giới nệ luật, hôn nhân được
đặt nền trên một cái nh́n có tính
khế ước rằng đó là một bí tích
ràng buộc vĩnh viễn, và sự ràng buộc
vĩnh viễn này được tất định
chiếu theo luật. Ngay cả khi rơ ràng một
cuộc hôn nhân đă đổ vỡ và hoàn toàn
không thể sửa chữa ǵ được, “bí
tích” có tính khế ước ấy vẫn treo
trên đầu hai người như thanh gươm
của Damocles. Cách diễn giải này về bí tích
đă đến lúc cần phải được
dứt khoát loại bỏ.
Sự
độc thân, như được hiểu
từ viễn tượng nệ luật, có
thể dẫn đến hiện tượng
đối xử với một linh mục vấp
ngă như thể anh ta là một kẻ phản
bội hay là một kẻ cùi hủi, thế nhưng
vẫn cương quyết buộc anh ta tiếp
tục làm một linh mục chiếu theo luật
– ngay cả khi sự việc cho thấy rành rành
rằng luật không hề cứu anh ta. Trái
lại, luật ấy không chỉ làm thương
tổn anh ta, mà c̣n có thể hủy diệt anh ta
nữa.
Tuy nhiên,
nếu theo quan điểm đích thực
của Thánh Phao-lô, chúng ta nhận thức đúng
đắn rằng mọi Kitôhữu không c̣n
ở dưới chế độ Lề Luật
nữa, nhưng là thuộc về ân sủng, th́
một người cảm thấy ḿnh
được mời gọi sống đời
linh mục độc thân sẽ đặt
trọn niềm tín thác vào ân sủng Thiên Chúa,
sẽ sống đời sống thấm đẫm
cầu nguyện, sẽ bước đi một cách
sáng suốt, sẽ không ngừng tỉnh thức.
Tuy nhiên, chúng ta không thể loại bỏ khả
năng rằng rồi một ngày nào đó, rơ ràng
độc thân được thấy không
phải là ơn gọi của đương
sự. Trong trường hợp này, đương
sự nên được ân cần khích lệ xin
giải chức mà không chút lo sợ bị Giáo
Hội trù dập hay khinh miệt.
Một
thoáng nh́n qua hàng ngàn năm truyền thống
Phật giáo sẽ có thể hữu ích cho chúng ta
trong vấn đề này. Trong khi các phật
tử rất đề cao đời sống
độc thân, họ cũng hiểu rằng
trừ một số trường hợp đặc
biệt ngoại lệ, người ta sẽ không
bao giờ đưa ra một lời cam kết
không thể rút lại. Theo một truyền
thống Phật giáo, sự độc thân
được sống tạm thời trong một
giai đoạn được coi như là một
chuẩn bị tốt cho cuộc sống hôn nhân
sau này. Đành rằng tôi không hề đề
xuất việc bắt chước cách thực hành
này, tôi vẫn nghĩ rằng chúng ta nên có
một cái nh́n mới mẻ hơn và nhân văn
hơn về truyền thống của chúng ta,
nhất là khi các hoàn cảnh lịch sử đang
thay đổi một cách rất thâm sâu và nhanh
chóng.
Độc thân trong
bối cảnh lịch sử
Nhà
khoa học lừng danh Marcel Légaut, một trong
nhiều người tự nguyện chọn
sống đời độc thân, đă hùng
hồn nhắc cho Giáo Hội ấy rơ giá trị
và hoa quả của sự độc thân v́ Nước
Trời. Những hoa quả này càng được
gặt hái rơ rệt hơn nếu người ta
lưu ư đầy đủ đến toàn
bộ bối cảnh trong đó cuộc sống
độc thân được thực hiện. Tuy
nhiên, ông cũng xác nhận – và tôi đồng
ư - rằng không bao giờ được phép
hiểu những luật liên quan đến các
đặc sủng đặc biệt như là cái
ǵ có tính vượt thời gian, cơ hồ như
chúng là một thực tại trên trời,
nằm ngoài cảnh vực lịch sử không
ngừng thay đổi.
Độc thân linh
mục như một biển báo trên đường
Sự
độc thân linh mục – được
sống một cách trung thành và vui tươi – có
thể là một sự giúp đỡ và là
một biển báo trên đường cho
những ai, v́ hoàn cảnh nào đó của
cuộc sống, bị buộc phải sống
độc thân, ngay cả dù họ không tự
nguyện chọn lựa như thế. Tôi nghĩ
đến những người li dị và
rất nhiều người, nam cũng như
nữ, sống đời sống độc thân
hoặc bởi v́ không có cơ hội để
kết hôn hoặc v́ những khó khăn về
sức khỏe không cho phép họ lập gia đ́nh.
Cảm thông với những người không
thể kết hôn – đó có thể là một cách
giúp củng cố niềm khao khát nhận
hiểu sâu sắc hơn tiếng gọi độc
thân của chính chúng ta. Hơn nữa, chúng ta có
thể học được nhiều điều
từ những người độc thân đă
biết chấp nhận cuộc sống không do ḿnh
chọn lựa, và những người đă khám
phá ra không chỉ cách tạo ư nghĩa cho đời
độc thân của ḿnh mà cả cách để
sống đời độc thân của ḿnh
một cách đầy hiệu quả.
Trong
cuộc chiến tranh trước đây ở Nga,
một linh mục đứng tuổi thuộc Giáo
Hội Chính Thống Nga đến gặp tôi
để xin giúp đỡ - v́ ông bị bệnh.
Sau khi chào ông, tôi hỏi ông câu hỏi xă giao:
“Ngài và bà nhà vẫn khỏe chứ?” Ông
trả lời: “Vợ tôi đang ở trên
trời; và tất cả các con tôi cũng không c̣n.
Bây giờ tôi sống hoàn toàn một ḿnh –
một ḿnh với Chúa và cho Chúa.” Khuôn mặt
ông rạng rỡ khi ông thốt lên những
lời đó, một cách hết sức đơn
sơ chân thành đến nỗi tôi không nén
được niềm cảm kích sâu sắc. Tôi
nghĩ rằng đó là bài giảng ngắn
nhất và tuyệt vời nhất trong tất
cả những bài giảng mà ḿnh nghe được
về ơn gọi độc thân của ḿnh.
Nếu
các linh mục chúng ta, với ơn Chúa, có
thể sống đích thực đời độc
thân của ḿnh, th́ tự thân điều đó
có thể là một sứ điệp không
lời song đầy sức tác động đối
với nhiều người phải sống độc
thân v́ họ không có sự lựa chọn nào khác.
Thế nhưng, việc suy tư về ư hướng
này và về giá trị của sự độc
thân mà thôi th́ không đủ. Sự độc
thân phải đẩy ta tới nhiệt t́nh cao hơn
và sáng kiến mới mẻ hơn để nâng
đỡ những con người độc thân,
nam cũng như nữ, bằng hết sức ḿnh.
Ít nhất, chúng ta cũng phải khích lệ
họ sống cuộc sống của họ
một cách hiệu quả hơn - bằng cách giúp
họ cảm nghiệm được sự nâng
đỡ của cộng đoàn, nhất là
bằng cách tạo các cơ hội cho họ phát
triển những t́nh bạn vững bền và
đầy ư nghĩa.
Độc thân và các
vấn đề dân số
Có
một mối nối kết rơ rệt giữa
sự độc thân và vấn đề dân
số. Tôi sẽ đề cập đến hai
khía cạnh có liên hệ đến luật độc
thân linh mục. Vào thời mà việc thực hành
độc thân và luật độc thân
được thấy là điều rất
tự nhiên và phổ biến, th́ t́nh trạng
đông dân số chưa phải là một
vấn đề. Con số gia đ́nh thời
đó cũng không nhiều, và con số ấy không
dễ tăng lên như trong thời đại công
nghiệp và đô thị hóa. Các gia đ́nh quí
tộc, trung lưu và nhất là các gia đ́nh
thuộc tầng lớp nghèo cảm thấy sung sướng
khi con cái họ chọn đời sống trong
cộng đoàn tu tŕ có lời khấn hay
chọn trở thành linh mục triều hoặc ḍng.
Mặc dù đông dân số không phải là
một vấn đề, nhưng các điều
kiện kinh tế lại khiến cho một
số người không thể cưới vợ.
Thường đây là t́nh trạng của đại
đa số các gia đ́nh lớn. Kết quả
là, một đời sống độc thân trong
các gia đ́nh lớn được chấp
nhận như chuyện b́nh thường trong xă
hội, và chắc hẳn rằng đời
sống độc thân linh mục đă đóng góp
tích cực vào chiều hướng chấp
nhận ấy.
Trong
thế giới ngày nay, t́nh trạng đông dân
số rơ ràng là một vấn đề ngày càng
gay cấn. Trước hết, đây là vấn
đề bảo toàn các điều kiện trên
hành tinh chúng ta để sự sống có thể
tiếp tục. Nói cho ngay, cái đang lâm nguy
nhất là chính trái đất này; và sự
sống c̣n của trái đất này là điều
kiện cần trước hết để nâng
đỡ mọi dạng sự sống. Những
ai tự nguyện đảm nhận đời
sống độc thân v́ Nước Trời th́
cũng đồng thời đang đóng góp
một cái ǵ đó cho thiện ích chung.
Các
vấn đề dân số có thể có một
ảnh hưởng rất lớn đối
với việc tuyển người vào đời
sống độc thân linh mục hoặc tu sĩ.
Trong những điều kiện hiện nay
của xă hội công nghiệp và hậu công
nghiệp Tây phương, quyền kết hôn
được xem như một trong những
quyền căn bản nhất của con người.
Tuy nhiên, nền văn hóa hiện đại,
nhận thức được các vấn đề
gắn liền với t́nh trạng đông dân
số, có khuynh hướng ủng hộ mô h́nh
gia đ́nh chỉ với một hay hai con. Trong
một xă hội với những gia đ́nh
nhỏ như vậy th́ hẳn nhiên việc
tuyển người vào chức linh mục sẽ
gay go hơn rất nhiều so với trong quá
khứ.
Trong
bối cảnh những khó khăn về dân
số hiện nay, ta thấy rất đáng ghi
nhận một số kiểu sắp xếp
của thời trước. Một mô h́nh đă
từng có thời rất quen thuộc, đó là
ông cha sở sống với bà mẹ góa bụa và
một vài chị em gái của ông trong nhà xứ
– không chỉ đơn thuần là để
họ giúp việc nội trợ, mà nhất là
để cha sở có bầu bạn, có một
bầu khí gia đ́nh. Cũng không nên nghĩ
rằng những chị em gái này tự nguyện
từ khước đời sống hôn nhân
để phụ giúp cho người anh (hay em trai)
linh mục của ḿnh. Thường th́ đấy
chỉ là vấn đề hoặc chọn đi
tu hoặc chọn phụ giúp các linh mục
bởi v́ đương sự không có cơ
hội để kết hôn. Ngày nay, dĩ nhiên,
hiếm khi người ta c̣n gặp thấy
một mô h́nh như thế.
Hơn
hai mươi năm cách đây, khi tôi giảng
dạy cho các giáo sĩ ở Malta, tôi nhận ra
rằng ở đó có một truyền thống các
linh mục sống tại gia đ́nh cha mẹ ḿnh.
Họ vô cùng thoải mái và “tự nhiên như
ở nhà”! Mô h́nh này có một hiệu ứng
phụ, đó là các linh mục cảm thấy
nỗi mất mát lớn lao khi phải rời
bỏ gia đ́nh để đi phục vụ
Tin Mừng tại một nước khác.
Lần
nọ tôi ghé thăm một giám mục ở Ư, tôi
rất ngạc nhiên nhận thấy vị giám
mục này không có một người giúp
việc nào cả. Chính ngài phải tự sửa
soạn bữa điểm tâm. Tôi hỏi tại
sao như thế; vị giám mục trả lời
rằng mặc dù ngài có đủ khả năng
để thuê mướn một người giúp
việc, nhưng ngài quyết định không làm
thế, v́ đa số các linh mục của ngài
không có khả năng này. Rồi, tiếp tục
khen ngợi các linh mục của ḿnh, ngài nói
rằng nhiều người trong họ sống
rất cô độc và dành vô số thời
giờ ngồi trước ti-vi.
Một
chuyển biến văn hóa khác có liên hệ
đến sự độc thân là một
chuyển biến về triết học. Dưới
ảnh hưởng các trường phái triết
học khắc kỷ và Platon cổ xưa, đời
sống kết hôn được xem như
một cái ǵ hạ cấp, trong khi đó việc
tiết dục được đánh giá là cao
trọng. Một cách lệch lạc, truyền
thống Augustin hậu thuẫn cho quan điểm
này, về sau trở thành giáo huấn luân lư. Ngày
nay, rất may là tất cả thế giới Kitô
giáo và đa số các nền văn hóa khác có
một cái nh́n đúng đắn và lành mạnh
hơn về tính dục của con người,
xuất phát từ nhăn quan tôn giáo hay những nhăn
quan nhân văn khác.
Một
triết học hay một khoa tâm lư một
chiều nhấn mạnh đến sự thành toàn
cá nhân th́ hầu như không t́m thấy ư nghĩa
trong việc tiết dục. Dĩ nhiên, độc
thân được hiểu trong ánh sáng đức
tin th́ rơ ràng không chỉ là vấn đề
tiết dục. Trước hết, đó là
niềm vui trong Chúa, cùng với ḷng quảng đại
phục vụ Tin Mừng v́ ích lợi của dân
Thiên Chúa, điều này sẽ trao ư nghĩa thâm
sâu hơn cho sự tiết dục, qua đó làm
cho nó trở thành một kinh nghiệm tích cực.
Tuy nhiên, chỉ những người có đức
tin sâu xa mới nhận ra được điều
này.
T́m kiếm các
giải pháp
Không
có giải pháp đơn giản nào cho những
vấn đề phức tạp, nhưng người
ta có thể vạch ra một số con đường
để cố gắng vượt qua chúng.
Một con đường như thế có liên
quan đến vấn đề thời sự
về t́nh bạn giữa các linh mục ở các
giáo xứ gần nhau. Tôi biết một số
linh mục tham gia những nhóm linh đạo như
phong trào Focolare, một phong trào theo mẫu
thức của Bartholomew Holzhauser. Những linh
mục này chọn sống trong những cộng
đoàn nhỏ gồm ba hay bốn người, và
thậm chí họ được khích lệ
bởi các giám mục vốn ủng hộ mô h́nh
này bằng cách sắp xếp cho họ làm
mục vụ tại các giáo xứ gần nhau.
Cách
đây ít lâu, tôi giảng tĩnh tâm cho hai mươi
linh mục vào dịp lễ ngân khánh của
họ và tôi nhận ra rằng t́nh bạn
giữa họ thật tuyệt vời. Tôi rất
phấn khởi khi nghe rằng từ khi thụ
phong linh mục, năm nào họ cũng tổ
chức một tuần đi nghỉ hè và cầu
nguyện với nhau.
Một linh đạo
xây dựng cộng đoàn
Đối
sách tốt nhất cho mối nguy hiểm của
sự cô độc là một linh đạo hướng
nội dựa trên giáo huấn vững chắc
của Thánh Gioan Tác Giả Tin Mừng và Thánh
Phao-lô – “Đức Kitô ở trong chúng ta, chúng
ta ở trong Đức Kitô.” Nếu hiểu
đúng, nhăn quan linh đạo này không dính dáng ǵ
tới chủ nghĩa thoát ly thực tế.
Cảm nghiệm Đức Kitô ở trong ḿnh
một cách sâu sắc, điều đó sẽ
mở ra một chân trời kỳ diệu cho
một t́nh bạn mở rộng ra với
tất cả. Đức Kitô, Đấng
ở trong tôi, yêu tôi và được tôi yêu,
sẽ giúp tôi có thể tháp nhập với Ngài
trong t́nh yêu của Ngài đối với tất
cả anh chị em tôi. T́nh yêu và ḷng quan tâm
của tôi dành cho họ chính là t́nh yêu của
Đức Kitô trong và xuyên qua tôi. Và đến lượt
họ, sự đáp trả đầy yêu thương
của họ là một phần của chính t́nh yêu
Đức Kitô đối với tôi và đối
với họ.
Thật
rơ, mầu nhiệm thâm sâu này là một cái ǵ
lớn lao ngàn trùng - chứ đây không duy
chỉ là vấn đề liệu pháp chống
lại nỗi cô độc. Tuy nhiên, mối nguy
hiểm thật sự của cô độc tự
nó cũng đủ giúp chúng ta khám phá ra và
nếm cảm những tinh túy của một linh
đạo Thánh Thể. Các vị chủ tọa
tại các buổi cử hành Thánh Thể cần
phải thực hiện được cuộc khám
phá và cảm nếm này. Cũng rất cần
thiết việc họ phải mời gọi
những người tham dự tự khám phá ra ư
nghĩa ấy trong linh đạo xây dựng
cộng đoàn, một linh đạo luôn luôn tiên
vàn được thúc đẩy bởi Thánh
Thần, Đấng đưa dẫn ta vào
mầu nhiệm Thánh Thể kỳ diệu. Như
thế, độc thân không được
cảm nhận như một h́nh thức tách ly
khỏi các tín hữu. Trái lại, độc thân
- được thể hiện như “sự
sống trong Đức Kitô” và “t́nh yêu trong
Đức Kitô” - chính là chóp đỉnh và trung
tâm của đời sống độc thân linh
mục.
Sự
mật thiết tuyệt diệu này của sự
sống trong Đức Kitô là phản đề
hoàn toàn đối với tinh thần cá nhân
chủ nghĩa. Ở đây không chỉ những
gọng cùm của cá nhân chủ nghĩa bị tiêu
diệt, mà mọi khả năng phát triển các
mối quan hệ phong phú, như được
diễn tả trong lời nguyện Abba tại
bữa Tiệc Ly, sẽ được thiết
lập lại. Sự sống mật thiết ngày
càng hơn trong lời nguyện Abba là một kinh
nghiệm về Ba Ngôi Thiên Chúa và là một kinh
nghiệm có sức xây dựng những nhịp
cầu trong nhân loại đă được
cứu độ. Chính Đức Giêsu, Đấng
Cứu Chuộc của thế giới và là Con Thiên
Chúa, Đấng nhờ quyền năng của Thánh
Thần, đang thưa lên lời Abba nơi chúng
ta – lời Abba ấy sẽ đồng thời
vang âm thành Abbuni (Lạy Cha chúng con). Vâng, Cha
là Cha của Chúa Giêsu, và là Cha của chúng ta
hết thảy.
Cảm
nghiệm về sự mật thiết theo mẫu
thức Ba Ngôi này sẽ khai phá mọi chân
trời của sự liên đới có sức
cứu độ, của cộng đoàn ơn
cứu độ, của t́nh huynh đệ, và
của tất cả. Trong sự mật thiết
đó, chúng ta sẽ biết nh́n nhận và kính
trọng nhau như là các con trai con gái của
một Cha chung. Chúng ta cũng nhận ra và trân
trọng tiếng gọi mời chúng ta cùng chia
sẻ và cùng trách nhiệm đối với
mọi sự sống thụ tạo. Sức
mạnh của mối liên đới này tùy
thuộc vào chiều sâu của sự mật
thiết giữa chúng ta. Từ nhận thức
đó, chúng ta thấy rơ ràng các tín hữu
được ủy thác cho ḿnh săn sóc
mục vụ không bao giờ là đối tượng
(object) của sứ vụ linh mục. Đúng hơn,
chúng ta là một người ở giữa dân
chúng, đón nhận từ họ nhiều
không kém chi trao tặng cho họ. Như vậy,
ở đây không có chỗ cho sự tách biệt
“ta” và “họ”. Cùng với nhau, trong tư cách
là những chủ thể, tất cả đồng
hành trên con đường với, trong, và hướng
về Đức Kitô, Đấng là xuất phát
điểm và là kết điểm của hành tŕnh
chúng ta. <OJ>
|