BERNARD
HARING, C.SS.R.
------------------------------
GIÁO HỘI
CẦN
LOẠI
LINH MỤC NÀO ?
------------------------------
<OJ>
-2001-
Lm.
Lê Công Đức
Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD
IMPERILED,
A
Critical Examination Of The Ministry
In
The Catholic Church
Của:
BERNARD HARING, C.SS.R.
Do
nhà: TRIUMPHTM
BOOKS,
Liguori,
Missouri xuất bản
2. ÁNH SÁNG CHÓI
L̉A CỦA THÁNH KINH
Đức
Giêsu, Đấng tự xưng là “Con Người”,
Đấng là “một người trong chúng ta”,
đă yêu cầu Gioan Tẩy Giả, con trai
của một tư tế và ngôn sứ, làm phép
rửa cho Ngài cùng với đám đông ở sông
Gio-đan. Hành động này là một biểu tượng
đầy kích cảm cho thấy sự liên đới
đầy sức cứu độ của Ngài
với các tội nhân và sự giải cứu
họ khỏi ṿng tội lỗi.
Phép rửa của
Đức Kitô – một ch́a khóa căn bản
để nhận thức
Trong
cốt lơi của nó, sự chuyển đổi
từ t́nh trạng tội lỗi tới sự liên
đới cứu độ là một ch́a khóa
để nhận hiểu ư nghĩa cuộc hoán
cải mà Gioan rao giảng. Chính Đức Kitô,
Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, làm cho
chúng ta có thể đạt được sự
hoán cải này, ở mức trọn vẹn
của nó. Tuy nhiên, phép rửa của Đức
Kitô c̣n có ư nghĩa hàm súc hơn nhiều
chứ không chỉ là một sự chuyển
đổi từ t́nh trạng liên đới trong
tội lỗi tới ơn cứu độ.
Đó là một biến cố độc đáo
của Ba Ngôi Thiên Chúa, trực tiếp hướng
chỉ đến cái chết thập giá và
cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Trong hành
động Đức Giêsu công khai lănh nhận phép
rửa, Ngài tự thánh hiến chính ḿnh và đồng
thời được thánh hiến bởi
quyền năng Chúa Thánh Thần – được
biểu tượng nơi h́nh chim bồ câu ḥa b́nh
– để tôn vinh Cha là Đấng măi măi làm
chứng cho Đức Giêsu: “Đây là Con Yêu
Dấu của Ta, Ta rất hài ḷng về Người”
(Mt 3,1-7); “Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta hài ḷng
về Con” (Lc 3,22; Mc 1,11). Những lời
ấy – được trịnh trọng nhắc
lại trên núi Tabo – âm vọng lại câu mở
đầu của Bài Ca Thứ Nhất trong
bốn Bài Ca Isaia Đệ Nhị (Is 42,1).
Việc
thánh hiến qua phép rửa này, vốn luôn luôn hướng
chỉ đến đỉnh điểm là cái
chết Thập Giá và cuộc Phục Sinh, bộc
lộ cho thấy căn tính của Đức Giêsu
là Đấng Cứu Độ và là vị Thượng
Tế mới, như được khai triển
trong Thư Do Thái. Được thụ thai
bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền
năng Chúa Thánh Thần, Đức Kitô được
mạc khải như là Người Tôi Tớ và
Người Con phi bạo lực, đau khổ và
đầy năng lực giải phóng của Thiên
Chúa – Ngài là biểu tượng đích
thực và là hiện thân của Bồ Câu ḥa b́nh.
Ngài là Đường không sai lầm, là Chân Lư
và Sự Sống hoàn toàn mới của ḥa b́nh
được hun đúc từ thái độ phi
bạo lực đầy sức giải phóng,
từ sự liên đới có năng lực
cứu độ và từ những đau khổ
của Ngài.
Các
linh mục - và tất cả những ai thuộc
về đoàn dân tư tế, ngôn sứ và vương
đế phục vụ của Thiên Chúa - không
bao giờ có thể suy tư cho đủ về
bốn Bài Ca của Người Tôi Tớ vốn
được Đức Giêsu xem như chương
tŕnh sống và hoạt động của Ngài và
– do đó – cũng là chương tŕnh sống
cho các môn đệ Ngài.
Dacaria, tư tế
và ngôn sứ
Giao
ước mới và nhăn quan hoàn toàn mới
của nó về chức linh mục đă
được biểu tượng nơi Dacaria,
cha của Gioan Tẩy Giả, là người
thuộc về một trong những phẩm hàm cao
nhất của chức tư tế Lêvi và là người
đang chu toàn một việc phụng tự
truyền thống khi Thiên Chúa mạc khải cho
ông biết vai tṛ của con trai ông: “Em bé sẽ
đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa
nhiều con cái It-ra-en về với Đức Chúa.
Em sẽ... làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch
lại hướng về nẻo chính đường
ngay” (Lc 1,15-17). Sứ điệp ấy của
thiên thần là một sứ điệp chan ḥa
niềm vui: “Ông sẽ được vui mừng
hớn hở, và nhiều người cũng
sẽ được hỷ hoan ngày con trẻ chào
đời” (Lc 1,14).
Tính
mới mẻ của sứ điệp này và
những bối cảnh xung quanh nó quá vĩ đại
ngoài khả năng tiếp nhận của Dacaria
đến nỗi ông trở thành câm. T́nh
trạng câm này của Dacaria tự nó là một
biểu tượng của sự thay đổi
lớn lao đă diễn ra. Dù vậy, ông vẫn
trung thực đưa tin cho vợ ḿnh là Êlidabét,
người thuộc ḍng tư tế Aaron và là
một phụ nữ vừa có đức tin sâu
sắc vừa có nhăn giới ngôn sứ.
Ngôi
nhà của Dacaria trở thành khung cảnh đặc
biệt cho một hiện tượng ngôn sứ
độc đáo. Tất cả mọi người
đều nói tiên tri – Êlidabét, Dacaria, Maria
nữ t́ khiêm cung của Chúa, và nhất là em bé
Gioan với sự kiện “nhảy mừng
trong bụng mẹ” (Lc 1,44).
Gioan Tẩy Giả,
con trai của một tư tế và ngôn sứ
Theo
luật, Gioan sẽ trở thành một thành viên
của tầng lớp tư tế có phẩm hàm
cao của người Do Thái. Thế nhưng, chúng
ta không nghe nói ǵ về việc Gioan thực
hiện những chức năng tư tế theo
truyền thống. Phép rửa đặc biệt
của Gioan, trong tư cách là một dấu
hiệu của sự hóan cải, th́ có tính
phụng vụ theo ư nghĩa tốt nhất
của từ ngữ này, nhưng nó hoàn toàn đối
nghịch với bất cứ hệ thống nghi
lễ nào. Phép rửa của Gioan vén mở trước
mầu nhiệm thâm sâu của Phép Rửa Đức
Giêsu và, qua đó, vén mở cho thấy mầu
nhiệm Phép Rửa của chính chúng ta – nó
đánh dấu việc chúng ta đi vào trong Giao
Ước Mới của ơn cứu độ,
một giao ước được đặc trưng
bởi ơn gọi và căn tính của Đức
Giêsu xét như Người Tôi Tớ và Người Con khiêm
hạ, đau khổ, phi bạo lực và có
quyền năng chữa trị của Thiên Chúa.
Ở
cốt lơi của phép rửa Gioan Tẩy Giả là
Đức Giêsu, “Con Người”, hiện thân
tuyệt đối của sự liên đới có
năng lực cứu độ, Đấng
mở ra Luật Mới với ư nghĩa tối
thượng là: “Anh em hăy mang lấy gánh
nặng của nhau, và như thế anh em sẽ
chu toàn Luật của Đức Kitô” (Gl 6,2).
Sống luật này, đó không chỉ là nẻo
đường dẫn tới sự liên đới
có sức cứu độ (một sự liên
đới được đào sâu không
ngừng đến vô hạn) – mà đó cũng
là con đường duy nhất để thoát ra
khỏi t́nh trạng liên lụy trong tội
lỗi. Giao Ước Mới nằm ở trung tâm
mầu nhiệm thâm sâu của Phép Rửa Đức
Giêsu và, do đó, của Phép Rửa chúng ta
nữa.
Sự tương
phản: tư tế của các ông hoàng!
Vụ
giết người tàn ác theo lệnh của nhà
vua - mà Gioan Tẩy Giả là nạn nhân - báo trước
việc Đức Kitô chịu đóng đanh và
chịu chết trong tay của các thượng
tế và người đại diện của
quyền bính Đế Quốc Rôma.
Hai
số phận của Gioan Tẩy Giả và
của Đức Giêsu minh họa sự lạm
dụng có hệ thống của tôn giáo vốn
ủng hộ kẻ cường quyền và thí
đốt những người nghèo hèn, yếu
thế. H́nh thức lạm dụng này cũng là
một trong những cám dỗ lớn nhất
được ghi nhận nơi giới tư
tế thuộc các tôn giáo và văn hóa khác nhau.
Một đoạn văn về tư tế Amaziah
trong Sách Ngôn Sứ Amos cho ta thấy rơ sự
thật này:
Bấy
giờ ông A-mát-gia, tư tế đền thờ
Bết-En, sai người đến gặp Gia-róp-am,
vua It-ra-en, và thưa: “A-mốt âm mưu chống
đức vua ngay trên lănh thổ It-ra-en, và đất
nước này không c̣n chịu nổi bất
cứ lời nào của ông ta nữa. V́ A-mốt
nói như thế này:
“Gia-róp-am
sẽ chết v́ gươm, và It-ra-en sẽ
bị đày biệt xứ.”
Bấy
giờ A-mát-gia nói với ông A-mốt: “Này
thầy chiêm ơi, mau chạy về đất
Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về
đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bết-En này,
đừng có ḥng nói tiên tri nữa, v́ đây là
thánh điện của quân vương, đây là
đền thờ của vương triều.” (Am
7,10-13).
Có
thể cần đến cả pho sách để
chỉ nói về đề tài mối quan hệ
giữa các tư tế với các vua, nhưng
thiển nghĩ chỉ cần chấp nhận
rằng trong Giáo Hội Công Giáo nhiều người
trong chúng ta có lư do để ăn năn hối
lỗi v́ đă gắn bó mật thiết và là
đồng minh của những thế quyền áp
bức. Thiết tưởng sẽ hữu ích
việc vạch ra cách mà mối quan hệ bẩn
thỉu này được h́nh thành và phát
triển.
Trong
ba thế kỷ đầu của Giáo Hội, các
giám mục – cách riêng - đă trung thành theo bước
chân của Đức Kitô. Trở thành một giám
mục, linh mục, phó tế hay một kỳ lăo
của Giáo Hội, điều đó tất nhiên
có nghĩa rằng người ấy hoàn toàn
sẵn sàng trở thành một ứng viên của
cái chết tử đạo. Những người
được tuyển chọn ấy hiểu khá
rơ ơn gọi phổ quát và đặc biệt
của ḿnh, và họ sẵn sàng đón nhận
những hệ lụy của ơn gọi ấy
trong ánh sáng của biến cố Đức Giêsu
chịu phép rửa ở sông Giođan, một phép
rửa bằng nước và máu.
Thế
kỷ IV, khi Constantine, một người
“trở lại” với đức tin, được
tôn phong hoàng đế bởi giám mục Rôma, th́
những thay đổi lớn đă xảy ra.
Trong khi quả thực Giáo Hội được
giải phóng khỏi cuộc bách hại đẫm
máu, th́ một cách nhanh chóng Giáo Hội cũng
bị bế tắc trong bổn phận bước
theo chân Đức Giêsu Người Tôi Tớ.
Sự thỏa hiệp và quị lụy quyền bính
thế tục - (điều mà Đức Giêsu
đă chất vấn, như được
thấy trong câu chuyện cám dỗ, và điều
mà Ngài đă giải trừ huyền thoại
trong toàn bộ cuộc sống của Ngài từ
khi nhận phép rửa cho đến cái chết
Thập Giá) - không may đă trở thành một
thực tại trong mọi thành phần của Giáo
Hội. Nhiều giám mục hoặc chịu
khuất phục hoặc ngày càng xích tới
gần nghiệp chướng trở thành “tư
tế của các vua”.
Trong
cố gắng nâng đỡ Giáo Hội và nâng
đỡ các vị lănh đạo của Giáo
Hội trong tư cách là cột trụ và là
bộ mặt của xă tắc, các hoàng đế
và các vua đă xây dựng những dinh thự
nguy nga cho các vị ấy, đă hào phóng ban
tặng đủ thứ đặc quyền đặc
lợi thế gian, đă tôn phong cho các vị
những tước hiệu đầy cao ngạo
như “Nhà Thần Học Của Triều Đ́nh”,
“Tổng Giám mục Hoàng Thân”, “Đức Thánh
Cha”, “Đức Cha”, vân vân và vân vân...
Hiện
tượng kỳ dị này và những biến
cố có tính bước quặt đảo ngược
này – vốn c̣n gây nhiều di lụy măi đến
hôm nay – phải được suy tư và đánh
giá lại trong ánh sáng của phép rửa bằng
nước và máu của Đức Giêsu. Cách mà
chúng ta chọn để nh́n và suy tư về
những biến cố lịch sử từng
định h́nh một khuôn mặt chuyên chế
như thế của Giáo Hội và của
quyền lănh đạo trong Giáo Hội có thể
ảnh hưởng rất quan trọng đến
bản chất và chất lượng của
sự chọn lựa căn bản của chúng ta
trong tư cách là những Kitôhữu và những
linh mục trong thời đại hôm nay.
Nói
chung, Đức Giêsu không chống đối
chức tư tế Do Thái giáo trong truyền
thống mà Ngài nhận được, Ngài cũng
không chống đối các tư tế một cách
quơ đũa cả nắm. Những xung đột
chính của Ngài là với các phần tử cao
nhất trong giới tư tế. Tuy nhiên, đáng
ghi nhận sự kiện rằng Đức Giêsu
không bao giờ gọi chính Ngài hay các môn đệ
Ngài là “tư tế”, Ngài cũng không nói
đến cơ chế của một “chức
tư tế mới”. Ít nhất những
phần cũ nhất của Tân Ước
gần sát với thời Đức Giêsu không bao
giờ dùng từ “tư tế” để
nói về Đức Giêsu hay các tông đồ
của Ngài. Chỉ trong bản văn rất
muộn sau này, là Thư Do Thái, được
viết khi Giáo Hội đă phát triển một
mức nào đó thành một tổ chức và cơ
cấu, th́ từ ngữ này mới được
sử dụng, và chủ yếu nhằm đề
ra một tương phản rơ rệt với
bất cứ ǵ có dáng dấp một mối quan
hệ gây chất vấn có thể dẫn đến
việc các giáo sĩ trở thành “tư
tế của các vua”. Trái lại, nhăn quan Tân
Ước về chức linh mục th́ hoàn toàn
khác biệt, và nhăn quan ấy được h́nh
thành như vậy trong ánh sáng của phép rửa
Đức Giêsu trong nước sông Giođan và
trong máu của Ngài nơi cuộc tử nạn
Thập Giá.
Câu chuyện về
hy tế của Abraham
Sẽ
là thiếu sót việc duy chỉ chăm chú đến
những khác biệt rành rành giữa chức tư
tế của Cựu Ước và tính mới
mẻ của những người tôi tớ
của Tin Mừng. Chúng ta cũng cần phải lưu
tâm tới những quan niệm sai lầm về hy
tế nữa.
Abraham
sẵn sàng giết Isaác để làm hy lễ
đền tội dâng lên Thiên Chúa, đôi khi các
nhà thần học nói về ư niệm hy tế
đă chọn thái độ sẵn sàng ấy làm
khởi điểm cho ḿnh. Hồi tôi bắt
đầu học thần học, người ta
vẫn c̣n giảng dạy rằng Thiên Chúa
thử thách sự sẵn sàng của Abraham trong
việc giết Isaác để làm hy lễ. Abraham
sẵn ḷng, đó là sự thật, nhưng nói
rằng Thiên Chúa muốn điều đó th́
quả là một xác định hết sức
đáng ngờ. Để hiểu chức linh
mục của Tân Ước, điều trước
hết là phải xua tan những ư niệm sai
lầm về hy lễ để có thể
hiểu đúng ư nghĩa đích thực của
câu chuyện Abraham. Trong chiều hướng đó,
cách đây khoảng 50 năm, W. Eichrodt, một
học giả Thánh Kinh tên tuổi đă đề
ra một cách giải thích hoàn toàn khác, cách
giải thích này nói chung được chấp
nhận trong giới Thánh Kinh và được
giảng dạy trong lănh vực huấn giáo ngày
nay.
Eichrodt
chỉ ra rằng, trong môi trường và nền
văn hóa sơ khai mà Abraham đă sống và
đă từ bỏ để theo tiếng Chúa
gọi, có một niềm xác tín rằng trong
một số trường hợp Thiên Chúa
chỉ có thể được vuốt giận
bằng hy tế đứa con trai đầu ḷng
của người ta. Người ta phải rùng
ḿnh tự hỏi trong gịng lịch sử đă có
bao nhiêu đứa con trai đầu ḷng bị hành
quyết một cách dă man “nhân danh Thiên Chúa”.
Abraham không là ngoại lệ của sự mê tín
thảm khốc này. V́ ông sống trong bối
cảnh mà theo truyền thống của thời ông,
một hy tế như thế được
kỳ vọng, v́ thế Abraham với lương
tâm sai lạc của ḿnh đă kết luận
rằng việc giết con ḿnh để tế
lễ là điều hoàn toàn đúng đắn.
Tuy nhiên, ngay cả trong lương tâm sai lạc này
của Abraham, một điều ǵ đó tốt
vẫn có thể được nói về ông: Ông
sẵn sàng làm theo thánh ư Thiên Chúa khi ông hiểu
sai thánh ư ấy! Tuy nhiên, khi câu chuyện diễn
tiến, Thiên Chúa đă can thiệp và đă
giải phóng Abraham khỏi một lương tâm
mê tín. Đây là một kinh nghiệm mạc
khải vĩ đại và một bước
đột phá về văn hóa để giải
phóng con người khỏi một h́nh ảnh sai
lầm và bạo lực khủng khiếp về
Thiên Chúa.
Một
trong những bằng chứng rơ ràng nhất cho cách
giải thích của Eichrodt là sự kiện
hiển nhiên rằng kể từ đó đă có
phát triển một ư thức trong It-ra-en rằng
việc cố gắng làm nguôi ḷng Thiên Chúa
bằng mạng sống con người là một
tội ác kinh tởm chống lại Thiên Chúa và
loài người. Tuy nhiên, Thánh Kinh cũng nhanh chóng
chỉ ra rằng trong một số giai đoạn
tàn bạo nào đó của lịch sử Ít-ra-en,
vẫn có một số người bị ảnh
hưởng và bị nhiễm cái nh́n kinh
khủng ấy – một cái nh́n vẫn c̣n
rất b́nh thường trong thế giới xung
quanh It-ra-en.
H́nh
ảnh sai lạc này về một vị Thiên Chúa
hay báo thù đ̣i hỏi con người dâng hy
tế các con trai đầu ḷng, lạ thay,
lại được đưa trở lại vào
một lư thuyết cứu chuộc được
gán (có lẽ một cách lầm lẫn) cho Thánh
Ansenmô. Lư thuyết này dẫn đến sự
ngộ nhận thông thường rằng tội
lỗi của loài người quá lớn đến
nỗi công lư của Thiên Chúa đ̣i hỏi hy
lễ là chính Con Một của Ngài để
chuộc lại. Dĩ nhiên, lư thuyết này sau
đó phủ trùm bóng rợp của nó trên
hầu như mọi sự được coi là
hy lễ trong tương quan với chính Đức
Giêsu. Để làm sáng tỏ sự ngộ
nhận này, không ǵ hữu ích hơn là nh́n sát hơn
phép rửa của Đức Giêsu và tất
cả những hệ quả theo sau trong ánh sáng
ấy.
Người Tôi
Tớ phi bạo lực, đau khổ và có
sức mạnh giải phóng của Thiên Chúa
Tin
Mừng Máccô giới thiệu căn tính và
sứ mạng của Đức Giêsu trong ánh sáng
của một nhận hiểu căn bản
được t́m thấy trong bốn Bài Ca
của Isaia Đệ Nhị: “V́ Con Người
đến không phải để được
phục vụ nhưng là để phục vụ“
(Mc 10,45). Trong tư cách là Người Tôi Tớ,
Đức Giêsu được nh́n nhận là Người
Con yêu dấu. Trong bản văn tiếng Hípri, câu
mở đầu của Bài Ca Thứ Nhất nói
về ebed, nghĩa là người tôi tớ
được tôn vinh – được tín thác
mọi sự. Bản Bảy Mươi dùng
từ Hy lạp pais để chỉ đứa
con trai. Trong ánh sáng của các Bài Ca Người Tôi
Tớ, Đức Giêsu được hiểu trước
hết như người tôi tớ ḥa b́nh –
một cách hiểu không hề có bao hàm bất
cứ ư niệm sai lạc nào về nhu cầu
được nguôi giận của Thiên Chúa.
Đúng hơn, cách hiểu ấy nhằm giúp cho
con người t́m ra con đường ḥa b́nh nơi
chính Đức Giêsu, Đấng là đường
ḥa b́nh và là hiện thân của thái độ
phi bạo lực.
Lời
Đức Giêsu mời gọi yêu thương
kẻ thù là con đường biến kẻ thù
thành bạn hữu. Con đường ḥa b́nh mà
Đức Giêsu vạch ra cho chúng ta là con
đường phi bạo lực – nó chọn
lựa đau khổ và thậm chí sự chết
thay v́ giết chết hay làm hại kẻ thù. Chính
năng lực phi bạo lực đầy sức
giải phóng này là điểm tựa cho một
thái độ hoàn toàn sẵn sàng khai quang con
đường ḥa b́nh, và sẵn
sàng làm thế bằng cách trao ban mạng
sống. Đức Giêsu là Sự Thật, và
một cách rất chuyên biệt, Ngài là Sự
Thật về tinh thần phi bạo lực đầy
sức giải phóng.
Nhưng
câu hỏi vẫn c̣n: Phải chăng Thiên Chúa
đă đ̣i hy lễ là chính Con Một Ngài?
Bởi v́ chúng ta đứng trước một
mầu nhiệm thâm sâu và bởi v́ từ góc nh́n
của ḿnh chúng ta chỉ có thể phát biểu
trong những giới hạn của ngôn ngữ,
của nhăn quan, bối cảnh con người chúng
ta – là những cái luôn luôn khiếm khuyết và
bất toàn - nên câu trả lời là vừa có
vừa không. Trong mối tương quan nội
tại và năng động của Ba Ngôi, Thiên
Chúa muốn chỉ cho con người thấy con
đường ḥa b́nh bằng bất cứ giá
nào. Như vậy, “hy tế Đức Kitô”
là cái giá của ḥa b́nh và ḥa giải – một
cái giá vừa có sức thanh toán sự chết
vừa có sức trao ban sự sống, cái giá
tột cùng của mạc khải độc đáo
về t́nh yêu vô hạn của Thiên Chúa. Nhưng,
để hiểu cái giá này, cần phải
cảnh giác một điều ǵ đó. Thiên Chúa
không hề có ư định hay có kế hoạch
sát hại Đức Giêsu, Người Con Yêu
Dấu. Điều Thiên Chúa thực sự
nhắm đến chính là sự ḥa giải cho
một nhân loại ḥa b́nh và phi bạo lực. Hơn
nữa, Thiên Chúa muốn – và Ngài tiếp
tục muốn – chúng ta sẵn sàng trả giá
cho ḥa b́nh, ḥa giải và cho t́nh yêu cứu độ
như được hiểu trong ngôn ngữ
của Thánh Phao-lô: “Ngài là sự b́nh an
của chúng ta” (Ep 2, 14).
Để làm sáng tỏ điều này hết
sức có thể, Ba Ngôi Vị - Đấng Sáng
Tạo, Đấng Cứu Độ và Đấng
Hiệp Nhất – cấm giết người và
nhất là cấm giết người nhân danh Thiên
Chúa. Giết người là tội ác ghê tởm
nhất. Như vậy, nhận thức này làm sáng
tỏ cho mọi thời rằng Thiên Chúa không bao
giờ có ư muốn Người Con nhập
thể của Ngài bị giết như một
nạn nhân để làm cho Ngài nguôi ngoai hay để
chuộc tội.
Điều
Thiên Chúa thực sự nhắm đến là thái
độ sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm,
thậm chí chấp nhận chết trên thập giá
nếu cần, để mạc khải t́nh
yêu vô hạn của Thiên Chúa và để cho con
người thấy con đường ḥa b́nh, chân
lư và sự sống. Cuối
cùng, đây là giá mà Đức Giêsu đă
trả, thậm chí đến độ trên thánh
giá Ngài cầu nguyện cho các kẻ thù của
Ngài và cho mọi tội nhân. Như thế,
việc giết Đức Giêsu trên thập giá là
hệ quả của sự dám liều ấy
chứ không phải là hệ quả của “hy
tế có thể được chấp nhận”
như đă được dạy hằng bao
thế kỷ và vô t́nh đă vẽ ra cho Thiên Chúa
một khuôn mặt khắc nghiệt và tàn
bạo.
Cả
ba Sách Tin Mừng Nhất Lăm đều tŕnh bày câu
chuyện Đức Giêsu chịu phép rửa trong
ánh sáng của bốn Bài Ca Người Tôi
Tớ. Ngay cả Tin Mừng Gioan cũng minh nhiên
giới thiệu: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa,
Đấng xóa tội trần gian!” (Ga 1,29).
Gioan cũng nhắc chúng ta nhớ chủ đề
cốt lơi của Bài Ca Thứ Nhất trong
bốn Bài Ca Người Tôi Tớ: “Tôi trung
Ta sẽ không kêu to, không nói lớn, không để
ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau
bị giập, nó không đành bẻ găy; tim đèn
leo lét, nó chẳng nỡ
tắt đi“ (Is 42, 2-3); “Bị ngược
đăi, người cam chịu nhục, chẳng
mở miệng kêu ca; như chiên bị đem
đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén
lông, người chẳng hề mở miệng”
(Is 53,7).
Một
kết quả dị hợm do cách nghĩ méo mó
biến Đức Giêsu thành một con dê tế
thần ấy là bản văn tiếng Anh của
bản Thánh Kinh Giê-ru-sa-lem – bám chặt vào cách
dịch: “Yahweh has been pleased to crush him with
suffering” = “Giavê hài ḷng đè bẹp người
trong đau khổ” (Is 53,10). Chúng ta có thể
nói rằng Thiên Chúa rút ra được niềm
vui khi hành hạ Đức Giêsu không? Bản Thánh
Kinh Anh ngữ mới và tất cả các bản
dịch đại kết mới đều nói
một cái ǵ đó hoàn toàn khác: “Yet the Lord
took thought for his tortured Servant and healed him who made
himself a sacrifice” = “Tuy nhiên Đức Chúa
nghĩ đến Người Tôi Tớ tan nát
của Ngài và chữa lành Người đă
tự hiến ḿnh làm hy lễ” (Is 53,10).
Trong
khi chúng ta có thể và sẽ tiếp tục nói
về “hy lễ” như một cách giải phóng
khỏi tội lụy để đạt đến
sự liên đới trong ḥa b́nh, đạt
đến t́nh yêu vô vụ lợi, công lư có
sức cứu độ, th́ hy lễ theo nghĩa
đúng đắn của nó có hàm chứa
những sự chọn lựa gay go kèm theo
những hệ quả khó khăn cho các linh
mục và các Kitôhữu. Những hệ thống
nghi lễ, những công phu khổ hạnh và
những “hy sinh” trống rỗng không thể là
hầm trú cho ta ẩn náu và không thể cho phép
ta bất cần một sự nhận thức
đích thực về cuộc sống. Hơn
nữa, tất cả chúng ta phải sẵn sàng và
mau mắn từ bỏ những ǵ ngăn cản
bước tiến của ḿnh trên con đường
ḥa b́nh và công lư hướng về Thiên Chúa, và
chúng ta phải sẵn sàng đảm nhận
những gánh nặng do ḥa b́nh và ḥa giải
đặt ra bằng cách dám chịu đau
khổ, thậm chí dám chịu chết, nếu
đó là yêu cầu của Tin Mừng ḥa b́nh, Tin
Mừng của Người Tôi Tớ đau
khổ của Thiên Chúa.
Chúng
ta nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ
rằng Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta gọi là
Cha và Mẹ của Đức Giê-su Kitô Đấng
Cứu Độ chúng ta, không hề muốn và không
hề cho phép bất cứ loại hy tế nào
dẫn chúng ta đến chỗ trốn tránh
tiếng gọi đích thực của ḿnh trong, và
cho, lịch sử cứu độ. Ư nghĩa
đích thực của hy tế Đức Kitô rơ
ràng đ̣i hỏi một tinh thần hy sinh chính ḿnh,
một thái độ hoàn toàn sẵn sàng đảm
nhận những gánh nặng của anh chị em ḿnh,
và một ḷng can đảm không nao núng để
đối mặt với những chống đối,
khổ đau và nguy hiểm – tất cả
những cái ấy có thể bật lên trong quá tŕnh
thăng tiến ḥa b́nh, công lư và t́nh yêu cứu
độ.
Tinh
thần phi bạo lực và sự thứ tha
tội lỗi
Cốt
lơi của sự tự thức nơi Đức
Kitô trong tư cách là Người Tôi Tớ phi
bạo lực và là bí tích của ḥa b́nh cũng
dọi tia sáng trên cuộc khủng hoảng
hiện nay xung quanh bí tích ḥa giải.
Câu
chuyện nổi tiếng về Cơn Lụt
Hồng Thủy là biểu tượng rơ ràng cho
thấy con đường tự hủy diệt
của toàn thể nhân loại xuyên qua bạo
lực và sai lầm, cả hai luôn luôn sóng bước
cùng với thói kiêu căng và ngạo mạn. “Đất
đă ra hư hỏng trước nhan Thiên Chúa và
đầy bạo lực. Thiên Chúa nh́n đất
và thấy nó đă ra hư hỏng, v́ mọi xác
phàm đă theo nếp sống hư hỏng trên
mặt đất” (St 6,11-12).
Thánh
Kinh kể lại một lịch sử dài về
bạo lực của chế độ đàn
ông trị. Lamec, người khủng bố các
vợ ḿnh và là một hậu duệ của Cain,
kẻ sát nhân, là một điển h́nh rất rơ
nét cho sự thật này: “Ông Lamec nói với các
bà vợ: ‘Ađa và Xila, hăy nghe tiếng ta! Thê
thiếp của Lamec, hăy lắng tai nghe lời ta!
V́ một vết thương, ta đă giết
một người, v́ một chút sây sát, ta đă
giết một đứa trẻ. Cain sẽ
được báo thù gấp bảy, nhưng Lamec
th́ gấp bảy mươi bảy!” (St
4,23-24).
Điều
rơ ràng là chỉ những con người phi
bạo lực mới được cứu trong và
xuyên qua cơn Hồng Thủy ấy. Chính Đức
Giêsu đă qui chiếu đến nhăn quan này khi
Phêrô hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con
xúc phạm đến con, con phải tha thứ bao
nhiêu lần? Bảy lần chăng?” Đức
Giêsu đáp: “Ta không bảo anh tha thứ
bảy lần, nhưng là bảy mươi
bảy lần” (Mt 18,21-22). Viêc Matthêu vận
dụng ẩn dụ này cho thấy rằng Đức
Giêsu tha thiết muốn chúng ta tha thứ vô
giới hạn.
Được
rửa với Đức Kitô “để
được thứ tha tội lỗi” nghĩa
là được tha thứ, và điều đó
cũng c̣n có nghĩa – quan trọng hơn
nhiều - rằng tất cả được
cứu khỏi số phận tội lụy,
tất cả được mang về mối liên
đới có sức cứu độ, và tất
cả được mời gọi trở thành
những người cộng tác trong sứ
mạng ḥa b́nh và ḥa giải của Đức
Kitô trên trần thế.
Nếu
ta có thể nói rằng chức linh mục
thừa tác thêm một cái ǵ đó cho
chức linh mục phổ quát của tất
cả những ai đă chịu Phép Rửa, th́
sự “thêm một cái ǵ đó” ấy
chắc hẳn nằm ở chỗ: ở mọi
cấp độ, các linh mục phải là
những mẫu gương của thứ tha,
những nhà lănh đạo và những người
kiến tạo ḥa b́nh trên con đường
tiến tới phi bạo lực và hoà giải.
Con đừơng ấy bao hàm một tinh
thần hủy ḿnh ra không và sẵn sàng
nhận hiểu đúng đắn về thái
độ từ bỏ chính ḿnh. Nói cách khác, các
linh mục phải là những nhà kiến tạo
ḥa b́nh dám nhận mọi hiểm nguy, mọi gánh
nặng, mọi hy sinh cần thiết để
thi hành sứ mạng của Đức Kitô. Để
có được thái độ sẵn sàng và
bỏ ḿnh như vậy, các linh mục cần
biết sẵn ḷng khiêm tốn cộng tác
với mọi người thiện chí nhằm
phục vụ cho ơn cứu chuộc con người
khỏi tội lụy trong mọi h́nh thức
bất công, lầm lạc và bạo lực
của nó ở bất cứ nơi nào mà nó có
mặt. Điều này hoàn toàn khác hẳn
với những thực hành khổ chế có tính
trấn áp chính ḿnh vốn bị nhiều người
chất vấn – những thực hành này có bao
gồm những sự hành hạ chính ḿnh và
những đau khổ không cần thiết
nhằm mục đích làm nguôi ngoai cơn
giận của một vị Thiên Chúa hay báo thù.
Thư
Do Thái giới thiệu Đức Kitô như
vị thượng tế đầy ḷng trắc
ẩn, và chính ḷng trắc ẩn và t́nh thương
này thúc đẩy Đức Kitô thương xót
các tội nhân. Điểm đặc trưng nơi
một người linh mục đích thực là:
“Vị ấy có khả năng cảm thông
với những kẻ ngu muội và những
kẻ lầm lạc, bởi v́ chính người
cũng đầy yếu đuối; mà v́
yếu đuối, nên người phải dâng
lễ đền tội cho dân thế nào, th́ cũng
phải dâng lễ cho chính ḿnh như vậy”
(Dt 5,2-3).
Tôi
có một đề nghị đầy sức
chữa trị và đầy an ủi cho các linh
mục cũng như cho các Kitô hữu phải
khổ sở v́ trằn trọc không biết ḿnh
đă xưng thú đàng hoàng mọi tội
trọng của ḿnh chưa, không biết ḿnh
đă xưng đúng loại tội và đúng
số lượng chưa – đề nghị
đó là: Bạn hăy tập trung mọi sự chú
ư và mọi năng lực của bạn vào
việc trở thành một dấu hiệu hữu
h́nh và đầy thuyết phục của sự
chữa trị, thứ tha và của tinh thần
phi bạo lực hết sức có thể! Đó
là một loại bí tích đấy! Rồi
bạn sẽ được đảm bảo
trong đức tin rằng Thiên Chúa tha thứ
mọi tội lỗi của bạn. Chỉ khi nào
quyết chí bước đi trên lộ tŕnh này,
chúng ta mới có thể đóng góp phần ḿnh vào
nỗ lực vượt qua cơn khủng
hoảng hiện nay xung quanh bí tích của ḥa b́nh
và ḥa giải.
Chức linh mục
của các tín hữu và chức linh mục
thừa tác
Công
Đồng Vatican II đă sải những bước
dài trên con đường vượt qua năo
trạng giáo sĩ trị in hằn bao đời,
năo trạng đó đánh giá cao các linh mục và
đánh giá thấp người giáo dân – sự
phân biệt này dẫn đến nhiều h́nh
thức lảng xa và phân biệt trong Giáo Hội.
Từ một góc nh́n phụng vụ, tôi thấy
những lá chắn ấy chưa bao giờ
được ghi nhận rơ ràng hơn thời
điểm cách đây ít lâu khi tôi ghé thăm
một số nhà thờ ở Ư và nhận
thấy các bàn thờ được đặt
ở một tầng cao hơn gian giữa của
giáo đừơng. Thời ấy, ít khi một
linh mục bước xuống vào giữa ḷng Giáo
Hội, ngay cả lúc cho rước lễ.
May
thay, quyết định của Công Đồng
uỷ trao cho mọi người đă chịu Phép
Rửa - những Kitô hữu không có chức thánh
– các vai tṛ quan trọng trong phụng vụ và
mục vụ là một bước quan trọng
trong việc phá bỏ các lá chắn ấy.
Hiện nay đa số trong chúng ta đều
biết rằng chức linh mục không phải là
một bước đi lên trong bậc thang xă
hội, nhưng đúng hơn, đó là một
sự dấn thân đặc biệt để
đi xuống, trong khiêm nhường và phục
vụ, đến với con người để
trở thành “một người trong họ”.
Khi làm thế, ư nghĩa của chức linh
mục không
bị lạc mất. Đúng hơn, có thể nói,
chức linh mục được văn hồi,
được củng cố và được
đào sâu theo chiều hướng trở lại
với sự khiêm nhường của Đức
Kitô như dấu hiệu căn tính của Ngài là
Thượng Tế tốt lành. Chức linh
mục phổ quát và chức linh mục thừa tác
cùng hướng chỉ đến ơn gọi Phép
Rửa của chúng ta là ơn gọi phục
vụ cho nền ḥa b́nh Messianic trên trái đất
này. <OJ>
|