BERNARD
HARING, C.SS.R.
------------------------------
GIÁO HỘI
CẦN
LOẠI
LINH MỤC NÀO ?
------------------------------
<OJ>
-2001-
Lm.
Lê Công Đức
Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD
IMPERILED,
A
Critical Examination Of The Ministry
In
The Catholic Church
Của:
BERNARD HARING, C.SS.R.
Do
nhà: TRIUMPHTM
BOOKS,
Liguori,
Missouri xuất bản
8.
KHUÔN MẶT LINH MỤC THỜI CÔNG ĐỒNG VÀ
SAU CÔNG ĐỒNG
Tại
Công Đồng Vatican II, các giám mục – và các
cố vấn của các ngài trong đó đa
số là linh mục – rất ư thức rằng các
linh mục trong Giáo Hội đang kỳ vọng
một văn kiện mạch lạc sáng tỏ
về đời sống và sứ vụ của
họ giữa một thế giới và một Giáo
Hội đang thay đổi. Măi đến
cuối Công Đồng, vào ngày 7-12-1965, sau
một giai đoạn thai nghén đầy vất
vả, các Nghị Phụ mới phê chuẩn xong
Sắc Lệnh Về Sứ Vụ Và Đời
Sống Linh Mục.
Những nỗ
lực ban đầu
Đầu
tháng 10 năm 1964, bản dự thảo thứ 17
về chức vụ linh mục được
đệ tŕnh cho hội nghị khoáng đại
và đă nhận được những phê phán
kịch liệt. Thay mặt các giám mục Tây
Đức, Hồng Y Julius Dopfner của Munich đă
đưa ra sự phản đối dữ
dội nhất. Bản văn được đánh
giá là hoàn toàn trật khớp với kinh
nghiệm lịch sử về các linh mục và giáo
dân, làm nên một thứ thần học và tu
đức khơi khơi bên ngoài lịch sử.
Phản ứng tức thời ấy của đại
đa số các giám mục đă cho thấy
hết sức rơ rằng chính đây là điểm
yếu nhất của bản văn kiện
dự thảo.
Một
bản văn hoàn toàn mới được
gấp rút soạn thảo. Quả thực, ủy
ban soạn thảo đă tập trung mọi
cố gắng để bao hàm những vui
mừng, hy vọng, buồn sầu, lo lắng
của con người trong thế giới hôm nay mà
các linh mục chia sẻ. Tuy nhiên, ba mươi năm
sau Công Đồng, phải nhận rằng các
vị soạn thảo và biểu quyết bản
văn đó vẫn chưa nhận thức
được hết tầm mức của cơn
khủng hoảng, và tầm mức của sự
thay đổi chi phối trực tiếp đến
các nền văn hóa và các xă hội hôm nay cũng
như ngày mai. Vẫn c̣n thiếu một sự tiên
lượng gắn liền với thực
tiễn; và Giáo Hội vẫn cần phải
nhạy cảm hơn nhiều rất nhiều,
ngay cả khi đang phải đương đầu
với bao khó khăn và biến động.
Dù sao,
chúng ta cũng nên xem lại Sắc Lệnh quan
trọng này, v́ chính trong đó chúng ta sẽ
gặp thấy một số điểm rất có
ư nghĩa như sau:
Các linh mục không thể thực sự phục
vụ người ta trừ phi các vị thấu
cảm hoàn toàn hoàn cảnh sống của họ,
nghĩa là các linh mục phải sống ở
giữa dân chúng được ủy trao cho ḿnh
(đoạn 3). Cần phải nhấn mạnh
đến việc giúp người ta tiến
tới mức trưởng thành đầy đủ
(đoạn 6). Và há chúng ta không thể khẳng
định rơ rằng ở đây có bao hàm
việc nhận thức và khích lệ người
ta biết phê b́nh đó sao? Một điểm
quan trọng khác, đó là các linh mục cần
đặc biệt quan tâm đến những người
đau khổ, những kẻ bệnh tật,
những người nghèo khó. Cũng không nên quên
rằng Sắc Lệnh này nhấn mạnh đến
việc xây dựng cộng đoàn Kitôhữu
với trung tâm là Thánh Thể (đoạn 8).
Công
Đồng đă không quên lưu ư đến
hiện tượng lịch sử đang đổi
thay nhanh chóng, song tại sao có vẻ như các
Nghị Phụ không thấy trước những
hệ quả nổi cộm nhất của
hiện tượng này – chẳng hạn, các
vấn đề xung quanh tính đa nguyên và
sự ḥa giải – trong ư thức đầy
đủ về sự đa dạng văn hóa?
Sắc lệnh nhấn mạnh một cách đúng
đắn đến tầm quan trọng của
tinh thần khó nghèo nơi các linh mục, thế
nhưng tại sao không hề thấy nói rằng
chính các giám mục phải là những mẫu gương
sống động về cuộc sống khó nghèo
và đơn sơ? Bản văn cũng giới
thiệu động lực phong phú cho linh đạo
linh mục xét như một diễn tả của
mối dây liên đới huynh đệ. Cuối
cùng, song không kém quan trọng, các linh mục
được thúc bách trung thực đánh giá chính
ḿnh trong ánh sáng của những đ̣i hỏi mà
họ phải đáp ứng để có thể
sống gần gũi dân chúng (đoạn 22).
Công Đồng có
chịu trách nhiệm về cơn khủng
hoảng nghiêm trọng của
chức linh mục hôm nay không?
Trước
hết, một cách chính xác chúng ta muốn nói ǵ
qua hai tiếng “khủng hoảng”? Cần
phải phân biệt giữa khủng hoảng xét
như biểu hiện của sự suy sụp và
khủng hoảng hiểu như một dấu
hiệu lớn lên (hay một cơ hội cho phép
đạt được một bước trưởng
thành mới).
Mười
năm sau Công Đồng Vatican II, một linh
mục gốc Tây Ban Nha vốn từng phục
vụ tại Châu Mỹ Latinh đă viết – dưới
sự hướng dẫn của tôi – một
luận án tiến sĩ về cơn khủng
hoảng được ghi nhận quá rơ rệt
trong đời sống linh mục. Anh kết
luận rằng cơn khủng hoảng này hoàn toàn
có thể trở thành một loại khủng
hoảng để lớn lên, nếu việc
đào tạo linh mục được nhận
thức và được thực thi theo đúng
tinh thần của Hiến Chế Mục Vụ Gaudium
et Spes của Công Đồng. Anh cũng kết
luận rằng một trong những lư do chính làm
cho cơn khủng hoảng này trở nên nghiêm
trọng, đó là người ta thường
chẳng quan tâm – nếu không nói là hoàn toàn
vứt bỏ – đường hướng canh tân
linh đạo như được đề ra
trong Hiến chế nói trên.
Không
thể chối căi ǵ nữa, thời đại
chúng ta là một thời đại với bao
biến động lịch sử dồn dập.
Phần đông các giới thẩm quyền trong
Giáo Hội không có đủ sự chuẩn
bị về linh đạo và thần học
để có thể nhận thức được
đầy đủ tầm mức của thách
đố đặt ra cho Giáo Hội hôm nay. Đặc
biệt, những người ủng hộ phong trào
Khôi Phục, khư khư t́m cách quay về
thời cũ và tố cáo rằng Công Đồng
phải chịu trách nhiệm về cơn
khủng hoảng và t́nh trạng xáo trộn này,
họ không đủ khả năng (hay không
muốn) nhận ra và khảo sát những mối
nguy hiểm và những cơ hội mà lịch
sử trong đà biến chuyển nhanh chóng
hiện nay đang đặt ra. Họ tiếp
tục đắm ch́m và bị giam hăm trong
một thứ triết học và thần học cũ
ś mốc meo, coi như mọi sự đều ngưng
đọng, không có ǵ thay đổi cả!
Họ dường như không thể - hay không
muốn - chuyển từ một kiểu thức
luân lư nặng tính tuân phục sang một nền
đạo đức mang tính trách nhiệm và
đồng trách nhiệm. Lỗ hổng nơi
họ càng được thấy rơ hơn
nữa qua việc họ bám chặt vào chủ nghĩa
trung ương tập quyền, nắm quyền
kiểm soát thái quá, trực tiếp đối ngược
lại tập đoàn tính và bổ túc tính – là
những giá trị nhân văn hơn. Trong một
thời đại mà các biến chuyển
lịch sử diễn ra hết sức nhanh chóng,
xu hướng tập quyền và tất cả
hệ thống kiểm soát của nó có thể là
nguyên nhân chính dẫn đến sự bỏ
nhỡ hoàn toàn hay sự phong tỏa các cơ
hội hưởng ứng công cuộc đại
kết và ḥa nhập trong tính đa dạng toàn
cầu xuyên qua sự hội nhập văn hóa.
Thật
trớ trêu, những người lẽ ra phải
bật đèn xanh và thúc đẩy bước
nhảy sang kiểu thức mới lại chính là
những người đang đắp ụ để
cản trở bước nhảy ấy. Một
dấu hiệu rơ rệt của phương
diện khủng hoảng này là sự kiện cay
đắng rằng ngay cả những giám mục
hơi hơi năng động cũng được
thay thế ‘đúng qui định’ vừa khi các
vị này đến tuổi nghỉ hưu, trong
khi đó những ‘chiếc phanh hăm ĺ lợm’
th́ được tiếp tục tại vị lâu
hơn nhiều. Các giám mục tiên phong trong nhăn
quan hiện đại bị nguy cơ cho ‘về
vườn’, trong khi đó những vị lề
mề tụt hậu th́ được lưu
dụng. Một tinh thần hoài cổ như
vậy, nói cho cùng, không có ǵ nguy hiểm mấy
nếu ở trong một giai đoạn tĩnh
tại; song trong một thời đại đầy
biến chuyển như ngày nay, việc cố
chấp quay ngược chiều kim đồng
hồ có thể dẫn người ta đến
chỗ phải hứng chịu cái số phận
trở thành cột muối của bà vợ ông Lót.
Những mẫu gương khích lệ
Đứng
trước t́nh trạng hiện nay của Giáo
Hội, chúng ta có thể nói một cách đầy
quả quyết như Galilê rằng: “E pur si
muove!” (Dù sao, nó vẫn quay!). Tôi có thể
dễ dàng viết một quyển sách với
đầy đủ tư liệu trưng dẫn
để hỗ trợ cho các ghi nhận của ḿnh.
Trong tư cách là một linh mục người
Đức, tôi chọn tham chiếu ở đây
bức thư ngỏ của các giám mục Đức
gửi cho các linh mục mang tựa đề “Về
Sứ Vụ Linh Mục” (24-9-1992). Tài liệu
này là một ví dụ tuyệt vời về
sự chuyển đổi kiểu thức
diễn ra trong thời đại chúng ta.
Hết
sức thẳng thắn, các giám mục Đức
đề cập đến cơn khủng
hoảng hiện nay trong chức linh mục và
mời gọi trước hết các thành viên
mở rộng tầm mắt ra để nh́n
thấy những cơ hội tích cực thay v́
phung phí năng lực vào những lời lẩm
bẩm ta thán vô ích trước những t́nh h́nh
bi đát của thực tế. Dĩ nhiên,
bức thư cũng nhắc nhở rằng không
được phép coi nhẹ hay phớt lơ
những khía cạnh ảm đạm của
chức linh mục và những nguy cơ thực
sự của nó. Trước hết, đây là
vấn đề về sự ưu tiên, v́ tinh
thần Kitô giáo không bao giờ tập chú trước
hết đến chiến thắng của sự
dữ, rồi sau đó mới miễn cưỡng
quay sang chấp nhận sự kiện rằng Thiên
Chúa đóng một vai tṛ trong việc lúc này lúc
khác đem phần thắng về cho sự
thiện.
Trong tư
cách là giám mục của Giáo Hội phổ quát,
các vị lănh đạo của Giáo Hội ở
Đức đă mời gọi các linh mục
của ḿnh phát triển một tầm nh́n toàn
diện thế giới, v́ cơn khủng
hoảng hiện tại (hy vọng đây là
thứ khủng hoảng để lớn lên) có
liên hệ đến sự chuyển biến thâm
sâu của các nền văn hóa, các xă hội, các
khoa học và cả của cái nh́n về vũ
trụ – tức toàn bộ thế giới
thụ tạo. Như vậy, mối quan hệ
giữa Giáo Hội và thế giới không thể
ở trong một t́nh trạng ngưng đọng,
bất biến. Kỷ nguyên Kitô giáo đă trôi
qua một cách dứt khoát rồi.
Các
linh mục đang đứng giữa cơn
khủng hoảng này – cơn khủng hoảng mà
nhiều người mệnh danh là cơn
khủng hoảng của đức tin. Đâu là
ư nghĩa thực sự của việc chờ
đợi trong đức tin? Trong đời
sống và sứ mạng, cách riêng các linh mục
(nghĩa là không loại trừ các tu sĩ nam
nữ và toàn thể dân Thiên Chúa nữa) phải
đương đầu với nhiều h́nh
thức phân cực gây tê liệt trong Giáo Hội.
Ở điểm này, các giám mục Đức,
với sự thành thực và thẳng thắn,
đă đề cập đến những
vấn đề gây ra bởi các giáo huấn chính
thức hiện hành của Rôma về một
số khía cạnh của luân lư tính dục và hôn
nhân: những giáo huấn hoặc bị thản
nhiên phớt lơ hoặc bị tẩy chay cách
minh nhiên bởi số đông các tín hữu. Như
vậy, hai thứ ḷng trung thành đang xung đột
nhau. Một đàng, đa số các linh mục
cảm nghiệm sâu xa về ḷng trung thành đối
với quyền giáo huấn của giáo hoàng; và
đàng khác, họ muốn trung thành với toàn dân
Thiên Chúa. Làm sao chúng ta ḥa giải những đối
nghịch này trong các lương tâm cũng như
trong giảng dạy và thực hành mục vụ?
Ai là những người khổ sở nhất
ở đây nếu không phải là các linh
mục và những người cộng tác trong lănh
vực mục vụ?
Hiện
tượng phân cực này đặc biệt gây
khốn khổ cho các linh mục luống tuổi
– là những người chủ yếu đă
được đào tạo theo tinh thần
tiền Công Đồng. Rất thường,
chiều sâu của cơn khủng hoảng này
thậm chí len tới cấp độ của
một cơn khủng hoảng về căn tính.
Bức
thư của các giám mục Đức đưa
ra những lời đầy thách đố sau
đây, trong ư thức đầy đủ về
vấn đề: “Người mục tử
phải mang lấy gánh nặng trách nhiệm
cuối cùng đối với giáo xứ. Nhưng
ngài rất thường nhận ra rằng giáo dân
giỏi giang hơn ḿnh” (tr. 5). Tiến tŕnh
học biết cộng tác với giáo dân và
với các linh mục trẻ thật sự không
dễ dàng chút nào cho tất cả các phía liên
hệ.
Về
vấn đề độc thân, các giám mục
Đức cũng thẳng thắn không kém: “Phải
chăng lối sống độc thân quan
trọng đến nỗi cho phép việc tŕ hoăn
những ǵ thuộc về chính cốt lơi của
sứ vụ mục vụ, ít nhất như
được quan niệm cho đến nay?” (tr.
6)
Các giám
mục Đức đề cập rất
nhiều vấn đề liên quan đến câu
hỏi cơn khủng hoảng hiện nay của
chức linh mục “có quan hệ như thế
nào với khuôn mặt tương lai của Giáo
Hội” (tr. 9). Khi suy tư về các động
lực của giai đoạn lịch sử mà chúng
ta vừa trải qua, các giám mục này kết
luận rằng hiện nay và trong tương lai,
hơn cả trong quá khứ, các ơn gọi linh
mục cần phải được nhận
hiểu và được thúc đẩy một cách
năng động: “Với thời gian,
chúng ta phải thực sự trở thành
những con người đúng như bản
chất của ḿnh” (tr.10). Bao hàm trong câu nói
trên là một chân lư đầy thách đố.
Nh́n ơn gọi linh mục như một cái ǵ tĩnh
tại, đó thật là một nhăn quan chết
chóc. Bức thư nói thêm: “Ở đây, cũng
như trong nhiều phương diện khác, chúng
ta phải học biết đón nhận và phát
triển một sự trưởng thành ngày càng
hơn” (tr.10). Các nguyên động lực
của sự lớn lên phải ngày càng trở
thành đặc trưng và bộc lộ rơ trong
đời sống linh mục, cùng với ḷng can
đảm sống một cuộc sống hoàn toàn
trong suốt trước mặt cộng đoàn
– cho dù nơi ḿnh vẫn c̣n những khuyết
điểm riêng (tr. 13).
Khiêm
tốn chấp nhận những khuyết điểm
và những giới hạn nơi con người ḿnh,
đó có thể là một hành vi ca ngợi ḷng
từ bi và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Đồng
thời, sự chấp nhận này có thể là
một phương thế chống lại cơn
cám dỗ quá dằn vặt đay nghiến chính
ḿnh.
Trong cái
nh́n của các giám mục Đức, t́nh
trạng hiện nay vừa là một lời
mời gọi vừa là một cơ hội đúng
lúc cho các linh mục, trong liên đới với
nhau, bước lên đường và đặt
ḿnh vào giữa những nhu cầu và những
thảm cảnh của nhân loại (tr. 34). Tôi cho
rằng tinh thần mới mẻ này được
diễn tả một cách tha thiết trong lời
tuyên bố đầy cảm kích sau đây: “Chúng
tôi không quên liên đới với những
bạn đồng sự của chúng tôi – là
những người thường xuyên bị vây
bọc bởi các thảm cảnh, đă từ
bỏ sứ vụ. Không bao giờ chúng tôi
bỏ rơi họ” (tr. 30). Quả thật, toàn
bộ bức thư rực cháy tinh thần Tin
Mừng và khích lệ niềm hy vọng của chúng
ta vào tương lai của Giáo Hội và tương
lai của chức linh mục.
Người
ta cũng ghi nhận thấy cùng một âm hưởng
mục vụ thẳng thắn và cởi mở
ấy trong lá thư mục vụ của các Giám
Mục Lehman (Mainz), Saier (Freiburg), và Casper (Rottenburg-Stuttgart)
liên quan đến vấn đề săn sóc
mục vụ cho những người Công Giáo li
dị và tái hôn – gồm cả việc chấp
nhận cho những người Công Giáo ấy
tham dự Thánh Thể dựa theo những nguyên
tắc biện phân khôn ngoan. Cả sau khi bị Thánh
Bộ Giáo Lư Đức Tin của Vatican chỉ trích,
ba vị giám mục này vẫn duy tŕ tinh thần
của ḿnh – một cách trung trực và phi
bạo lực.
Chỉ
trong mối liên đới và trong niềm tín
nhiệm lẫn nhau giữa các giám mục và các
linh mục th́ cơn khủng hoảng hiện nay
mới có thể được vượt qua, v́
yếu tố hiệp nhất họ chính là t́nh yêu
và mối quan tâm mục vụ mà họ cùng chia
sẻ. <OJ>
|