Tội
Ác Cộng Sản Việt Nam
LÀM
SAO QUÊN ?
Làm sao quên được Tháng Tư đen Làm sao quên được Tháng Tư đen Làm sao quên được Tháng Tư đen Làm sao quên được Tháng Tư đen Thiên thu c̣n hận Tháng Tư đen Hỡi ai ! con cháu giống Rồng - Tiên
Montréal. tháng
03-2009
|
|
Ông Mikhail Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư đảng
cộng sản Liên Xô phát biểu như lời tâm
sự: “Tôi đă bỏ hơn
nửa cuộc đời đấu tranh cho lư tưởng
cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau
buồn mà nói rằng “cộng sản chỉ
biết tuyên truyền và nói láo”. Đó là
lời tố cáo có thể xem là thành thật của
một đảng viên cao cấp trong đảng
cộng sản Liên Xô mà các nhóm lănh đạo
cộng sản Việt Nam tôn vinh là thành tŕ vững
chắc của chủ nghĩa xă hội toàn thế
giới (cộng sản). C̣n dưới đây là
những con số nói lên một cách tổng quát
về mức độ tàn bạo của các đảng
cộng sản cai trị đồng bào của họ
đă được phơi bày sau khi cộng sản
Nga và khối cộng sản Đông Âu sụp đổ:
(trích bài viết “Con số 100 triệu nạn nhân”
của Lữ Giang ngày 25/6/2007)
Trong quyển “Death by Government” (Chết do chánh
phủ), tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính
trị học đại học Yale, th́ cộng
sản tại các quốc gia
đă giết chết đồng bào của họ, như
sau: (1) Liên Sô 61.911.000 người. (2) Trung Hoa
cộng sản 35.236.000 người. (3) Quân phiệt
Nhật 5.964.000 người. (4) Khmer đỏ 2.035.000
người. (5) Thổ Nhĩ Kỳ 1.883.000 người.
(6) Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người. (7)
Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người. (8) Cộng
sản Nam Tư 1.072.000 người.
Trong quyển “Livre Noir du Communisme” (Sách đen
về chủ nghĩa cộng sản) tác giả Stéphane
Courtoise, Giám Đốc Nghiên Cứu thuộc Trung Tâm
Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học của Pháp,
nhận xét rằng: “Vượt
trên mức độ tội ác cá nhân, các chế
độ cộng sản củng cố quyền hành
bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng
chính sách cai trị. Sau một vài năm
tại các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu
hay vài chục năm ở Liên Sô và Trung Hoa cộng
sản, cường độ của sự khủng
bố có bớt đi , chế độ tự ổn
định bằng cách quản lư sự đàn áp thường
ngày, sự kiểm duyệt mọi trao đổi tin
tức, kiểm soát xuất nhập biên giới,
trục xuất người ly khai. Nhưng kư ức
về khủng bố tiếp tục đặt người
dân trong t́nh trạng sợ hăi, và điều này
rất hiệu nghiệm. Không
một quốc gia cộng sản nào thoát khỏi qui
luật đó, như Trung Hoa, Bắc Hàn, Cuba, Việt
Nam chẳng hạn”. Ngày 12/6/2007, tại Washington DC, Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush, chủ tọa lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial). Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của khoảng 100 triệu nạn nhân cộng sản -có cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng ta- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận cùng gốc rễ, v́ chế độ cộng sản đă lấy đi mạng sống của khoảng 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội. Nhóm chữ nghiêng màu đỏ là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Bush. Công tŕnh Đài Tưởng Niệm bắt đầu với Điều 905 của đạo luật The Public Law 103-199 được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 17/12/1993. V́ Quốc Hội không cấp tiền nên tiến sĩ Lee Edwards vận động từ các quốc gia từng bị cộng sản cai trị chung góp tài chánh, trong đó phần đóng góp của Cộng Đồng Việt Tị Nạn cộng sản tại Hoa Kỳ là 66.000 mỹ kim. Công tŕnh xây dựng khởi công ngày 28/9/2006. 2.
Cộng Sản Việt Nam
Lănh đạo tự tôn
Ông Hồ Chí Minh, Chủ Tịch đảng CSVN
là con người vừa dối trá vừa tự cao hơn
bất cứ ai khác. Bằng chứng là trong quyển
“Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt
Động Của Hồ Chủ Tịch” xuất
bản năm 1947 mà tác giả
Trần Dân Tiên lại chính là Hồ Chí Minh. Trong
đó Trần Dân Tiên tức
Hồ Chí Minh, tự ca tụng ông là cha già dân
tộc và tự tôn vinh ông vĩ đại hơn B́nh
Định Vương Lê Lợi (thế kỷ 15) v́
ông đưa dân tộc vào kỷ nguyên xă hội
chủ nghĩa. Chủ Tịch đảng mà tự tôn
đến mức đó th́ c̣n ǵ liêm sĩ. Khi
con người nhất là con
người lănh đạo không có liêm sĩ th́
tệ hơn người tệ nhất trong 86
triệu dân.
Bức tranh xă hội xă hội chủ nghĩa
Việt Nam từ sau 30/4/1975 đến năm 2000,
được cựu Trung Tướng cộng sản
Trần Độ “vẽ lại” trong tập
nhật kư “Rồng Rắn” ngày 7/12/2000. Trong đó,
ông tự hỏi: “Tại sao chiếm được
miền Nam năm 1975, một nửa đất nước
trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đă
đưa cả nước vào t́nh trạng nghèo
đói ngắc ngoải như vậy?” Rồi ông
mời gọi lănh đạo của ông: “Hăy nh́n
các nước Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Thái
Lan, Mă Lai Á, chỉ cần 20-30 năm mà họ phát
triển và nhân dân của họ có đời
sống khá phong phú. Mấy nước
này không có đảng cộng sản tài t́nh sáng
suốt (như của
Việt Nam), mà họ có
những chính khách với những chính sách kinh tế
xă hội thông minh và hiệu quả. Như vậy,
chủ nghĩa xă hội chưa có chứng thực, và
nó không thể là con đường duy nhất để
phát triển đất nước”.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh
tế hàng đầu của Việt Nam, đă nói
trong phiên họp mật của Bộ Chính Trị
cộng sản Việt Nam ngày 2/11/2004 rằng: “Việt
Nam có tốc độ tăng trưởng tương
đối nhanh, nhưng mức độ tăng trưởng
ấy chỉ là so với chính bản thân Việt Nam,
v́ nh́n ra chung quanh, rất nhiều quốc gia tăng
trưởng nhanh hơn Việt Nam nhiều. Việt
Nam ta không nên lớn giọng dạy bảo thiên
hạ, không nên tự cho ḿnh là đ̣n bẩy của
thế kỷ, cũng không nên tự xưng ḿnh làm
xung kích cho lịch sử, v́ những điều đó
không giúp ǵ cho sự phát triển của đất nước.
Với lại thế giới không có ai công nhận
Việt Nam như vậy cả”. Lănh đạo độc tài
Ông Nguyễn Tấn Dũng thay ông Phan Văn
Khải trong chức vụ Thủ Tướng, có dư
luận trong Cộng Đồng Việt Nam Hải
Ngoại nhất là trong vài tổ chức chính trị,
có vẻ như chờ đợi Nguyễn Tấn Dũng
trở thành một Gorbachev của Việt Nam, trong khi các
tổ chức chính trị trong nước nhất là
Khối 8406 không một đợi chờ nào như
vậy. Hành động ngay khi
nắm quyền, tân Thủ Tướng ra Nghị
Định kiểm soát chặt chẻ hơn nữa các
sinh hoạt truyền thông, internet, kể cả
quyết định tuyệt đối cấm báo chí
tư nhân. Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố
dẹp tham nhũng, nhưng chưa có sự kiện nào
chứng minh bước đầu thực hiện
lời tuyên bố đó. Nếu ông ta thực sự
quyết tâm đánh tham nhũng, ông ta có c ơ
hội bị tham nhũng hạ bệ, thậm chí có
thể bị ám sát là đằng khác, v́ tham nhũng
là mục tiêu của các cấp lănh đạo
cộng sản Việt Nam, trong đó có Nguyễn
Tấn Dũng và gia đ́nh ông.
Ngày 5/9/2006, CSVN tuyên bố hủy bỏ Nghị
Định 31 về quản chế hành chánh (bắt
giam tùy tiện) làm cho nhiều người trong
Cộng Đồng tị nạn tại hải
ngoại lẫn đồng bào trong nước tưởng
như họ có bước tiến về dân chủ
pháp trị, nhưng theo luật sư Lê Thị Công Nhân,
hành động đó chẳng qua
CSVN đem chôn một cái xác (NĐ 31) đă chết
từ lâu. V́ ngày 1/10/2002 CSVN đă ban hành Pháp
Lệnh “xử lư vi phạm hành chánh” chặt
chẽ hơn Nghị Định 31 mà họ hủy
bỏ. Trên nguyên tắc, Pháp Lệnh chỉ dưới
Hiến Pháp và Luật, tức cao hơn Nghị Định,
mà trong Pháp Lệnh này có đầy đủ
những qui định trong NĐ 31. Chưa hết,
tiếp theo Pháp Lệnh năm 2002 xử lư vi phạm
hành chánh là Nghị Định 38/CP ngày 18/3/2005 về
cấm tập họp đông người, và Nghị
Định 56/CP ngày 6/6/2006 về kiểm soát văn hóa
& thông tin, vừa chặt chẻ vừa tinh vi trong
chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng toàn
dân toàn đảng của họ (trích bài
viết của luật sư Lê Thị Công Nhân ngày
11/11/2006 tại Hà Nội). Nguyễn Tấn Dũng
vẫn là một đảng viên cộng sản
cực đoan ở vị trí lănh đạo độc
tài toàn trị.
Ngày 27/8/2007 tại Tổng Cục Chính Trị
CSVN Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước
CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng: “...
Tôi khằng định trước sau như một là
chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xă hội, chúng
ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai
nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều
4 Hiến Pháp th́ không có chuyện đó. Bỏ cái
đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố
tự sát, cho nên phải củng cố công tác tư
tưởng, củng cố vai tṛ của đảng”.
(trích bản tổng hợp 220 sự kiện về nhân
quyền và chính trị tại Việt Nam năm 2007).
Độc tài chuyên chính như vậy mà gọi là
cấp tiến sao? Và chỉ riêng lời phát biểu
ngắn ngủi trên đây của ông Triết, tôi
nhận ra 4 điều: (1) NMT thừa nhận
chế độ độc tài CSVN không được
người dân ủng hộ, nên phải ra lệnh
củng cố quyền lực của đảng để
tiếp tục đàn áp dân trong khi vẫn khẳng
định điều gọi là tiến lên chủ
nghĩa xă hội. (2) Bỏ điều 4 trong
Hiến Pháp là chế độ độc tài tan ră
đến mức đảng viên trong Bộ Chính
Trị phải tự sát, v́ nếu không th́ NMT và các
đảng viên lănh đạo khác không thể yên thân
bởi khối dân oan hằng triệu hằng
triệu người mà chế độ độc tài
đă đẩy họ vào thảm cảnh đó. (3)
Bộ Chính Trị CSVN sợ mất quyền lực
quyền lợi chớ không hề nói đến trách
nhiệm của cấp lănh đạo. (4) NMT hoàn
toàn là một đảng viên cộng sản cực
đoan ở vị trí lănh đạo độc tài
toàn trị. Lănh đạo gian manh dối trá
Tổng Bí Thư đảng CSVN Nông Đức
Mạnh dối trá. Năm 2007, theo Công Đoàn Lao Động
quốc doanh có đến 541 cuộc đ́nh công
với sự tham dự của khoảng 350.000 công nhân
mà hầu hết không có giấy phép của nhà nước
nên bị xếp vào loại “đ́nh công bất
hợp pháp”. Nhưng ngày 21/1/2008, Tổng Bí Thư
đảng cộng sản Nông Đức
Mạnh tuyên bố tại Quốc Hội của
họ rằng: “Từ khi đảng ra đời
đến nay, đảng luôn luôn là đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động, và của dân tộc, là đội
tiên phong của giai cấp công nhân …” Đến
ngày 30/1/2008, Thủ Tướng cộng sản
Nguyễn Tấn Dũng kư Nghị Định số
11 và 12, cấm đ́nh công bất hợp pháp, đồng
thời giao ṭa án xét xử buộc công nhân phải
bồi thường thiệt hại cho chủ trong các
cuộc đ́nh công đó. Nói đảng cộng
sản là đại biểu trung thành của giai
cấp công nhân, nhưng làm th́ đàn áp công nhân
để bảo vệ chủ nhân. Đến ngày
16 & 17/6/2008, hội nghị “Đoàn Chủ
Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt
Nam” họp tại Hà Nội, ông Mai Đức Chính,
Phó Chủ Tịch tổ chức này cho biết từ
đầu năm 2008 đến nay (gần 6 tháng)
đă có 330 cuộc đ́nh công và tất cả các
cuộc đ́nh công này đều phạm pháp. Chủ
Tịch nước Nguyễn
Minh Triết dối trá. Sau
chuyến sang Hoa Kỳ từ 18 đến 23 tháng
6/2007, báo Nhân Dân Điện Tử CSVN ngày 4/7/2007
giới thiệu một đoạn về lời ông
Triết trả lời phỏng vấn khi phóng viên
đài CNN Hoa Kỳ hỏi về vụ bắt Linh
Mục Nguyễn Văn Lư đưa ra ṭa án phạt tù:
“Ông ta (tức LM Lư) vi
phạm pháp luật Việt Nam. Đây hoàn toàn là
vấn đề pháp luật, không phải là vấn
đề tôn giáo. Việc xét xử ông ta được
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và ṭa thánh
Vatican cũng đồng t́nh với chúng tôi”.
Thế nhưng ngày 7/7/2007, Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam công khai lên tiếng phản bác
lời của Nguyễn Minh Triết hoàn toàn không
hề có sự thật đó, và Nguyễn Minh
Triết không hề lên tiếng khi phát biểu
của ông ta bị phản bác. Khi
“không có sự thật” có nghĩa là dối trá.
Chủ Tịch nước mà dối trá trắng
trợn như vậy th́ c̣n ǵ để phê phán mà
chỉ triệt tiêu thôi.
Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng mưu
mẹo dối trá. Sau khi thế giới đánh giá
cộng sản Việt Nam (CSVN) tổ chức đại
hội APEC thành công, được gia nhập WTO,
nhất là được Hoa Kỳ b́nh thường hóa
quan hệ thương măi cùng lúc rút tên cộng
sản Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, Nguyễn
Tấn Dũng thẳng tay đàn áp các nhân vật
đấu tranh ôn ḥa cho nền dân chủ thật
sự trên toàn cơi Việt Nam. Điển h́nh là linh
mục Nguyễn Văn Lư, luật sư Nguyễn Văn
Đài, luật sư Lê Thị Công Nhận, Lê Trí
Tuệ, Nguyễn Phong, ..v..v… Với tṛ đê
tiện của lănh đạo CSVN, ngày 16/3/2007, gọi
kỹ sư Đỗ Nam Hải đến trụ
sở Công An Quận Phú Nhuận làm việc gần như
trọn ngày. Tại đây, có mặt các sĩ quan
từ Bộ Công An Hà Nội vào từ Sở Công An
đến, gia tăng áp lực. Vẫn không thành công,
họ đă áp tải cha, chị, và con gái của anh
Hải đến trụ sở, dùng t́nh cảm gia
đ́nh tạo áp lực buộc kỹ sư Hải
phải kư giấy ngưng hoạt động
chống đối đảng với nhà nước
cộng sản. Kỹ sư Phương
Nam Đỗ Nam Hải đă nói với họ:
“Các anh hèn lắm”.
Tác giả Lê Thiên trong bài “Nhận Diện
Bản Chất Dối Trá Của CSVN”. Luật sư
Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức
từ Pháp về Hà Nội “phục vụ quê hương”
có tên Việt nam Dân Chủ Cộng Ḥa dưới
chế độ cộng sản mà Hồ Chí Minh là người
lănh đạo. Năm 1956, tức sau mấy năm làm
việc cho cộng sản, ông bị nhà nước
cộng sản đày đọa chỉ v́ ông dám lên
tiếng góp ư những sai sót trong cấu trúc xă
hội xă hội chủ nghĩa. Vào cuối đời,
trong quyển “Kẻ Bị Khai Trừ”, luật sư
Tường nói lên ẩn ức của ông rằng: “Cộng sản sống bằng sự dối trá,
giả h́nh, nhưng cái sai lầm là nó đặt
sự tàn bạo của nó trên những vẻ bề
ngoài hư ảo mà nó giải thích theo ư của nó
để tiêu diệt những kẻ mà nó gọi là
kẻ thù”.... “Thế
giới Việt Nam cũng như cả thế giới
cộng sản là cái thế giới đóng cửa, và
bên trong cái thế giới đó, người ta
tự cho phép bách hại con người không thể tưởng
tượng được v́ nó vô cùng dă man điên
rồ và bỉ ổi. Trong cái hỏa ngục đó,
thường xuyên diễn ra những tội ác chỉ
có trong thời kỳ thế mạt, không c̣n nhân
phẩm nhân tính”.
Trong quyển “Đồng bằng Gai Góc”, tác
giả Xuân Vũ, một cựu cán bộ thời kháng
chiến, xác định: “Đảng
cộng sản sinh ra để làm hai việc: Nói láo
và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ chúng làm
là làm bậy”.... “Bàn tay ác hại của đảng
cộng sản mó tới đâu th́ máu đổ
tới đó. Tổng Thống Việt Nam
Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu, có thể sai
nhiều điều nhưng chắc chắn ông luôn luôn
đúng khi ông nói với người dân rằng: Đừng
nghe những ǵ cộng sản nói, mà hăy nh́n kỹ
những ǵ cộng sản làm”.
Trong bài “Sức Nén Của Ngôn Từ”,
tiến sĩ cộng sản Hà Sĩ Phu viết: “Những
danh từ như cách mạng, như dân chủ, ..v..v..
thật tối thiêng liêng. Nếu lănh đạo không
v́ Nhân Dân, không v́ Tổ Quốc, mà để cho
chủ nghĩa cá nhân ỷ thế ỷ quyền
hại dân hại nước, th́ miệng người
đời ngọng ǵ mà không kèm chữ “đểu”
theo sau chức vụ hay tên của những người
lănh đạo đó. Hằng mấy chục năm
trời dưới chế độ độc tài, người
dân mới nén được chữ đểu vào
những chức vụ lănh đạo, như:
lănh đạo đảng đểu, lănh đạo
nhà nước đểu, lănh đạo quốc
hội đểu, lănh đạo công an đểu, ..v..v..
, để chỉ những người tự xưng
làm cách mạng mà hành động toàn là phản cách
mạng”. Đến đây ông Hà Sĩ Phu
nhớ đến câu đối mà ông cho là cô đọng
nhất và khó đối nhất, nhưng diễn
đạt chính xác nhất. Ông Phan Hiền, đăng
trên báo quân đội nhân dân cộng sản, như
thế này: ”Sai đâu sửa
đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu
sai đấy”.
Trong nhật kư “Rồng rắn” của cố
Trung Tướng cộng sản Trần Độ, có
đoạn: Lănh đạo CSVN Việt Nam kiên tŕ
chế độ “đảng duy nhất lănh đạo”,
lại nhấn mạnh đến nguyên tắc
“tập trung dân chủ”, rồi buộc mọi người
phải tuyệt đối phục tùng. Từ đó
sản sinh ra bộ máy văn hóa thông
tin với 6-700 tờ báo và hằng trăm đài phát
thanh phát h́nh, một hệ thống trường
học để nhồi nhét chính trị vào đầu
học sinh sinh viên, hằng ngàn báo cáo viên với
những con người “lưỡi gỗ” chuyên dùng
dối trá lừa bịp để mê hoặc nhân dân.
Bộ máy này được trang bị mọi thứ
cần thiết và có đủ quyền lực để
tạo nên một xă hội mà mọi người
sống với nhau toàn gian dối. Đảng
đă và đang thực hiện đường
lối độc đảng và độc tài của
một chế độ phản dân chủ, nhưng lănh
đạo cùng bộ máy thông tin hùng hậu lại luôn
luôn nói đến dân chủ, nói đến quyền
làm chủ của nhân dân. Đó là lừa bịp, là
dối trá. Điều 4 của Hiến Pháp bắt nhân
dân phải chấp nhận sự lănh đạo duy
nhất của đảng, trong khi Hiến Pháp có
những điều khoản nói về quyền dân
chủ của dân, nhưng 3 điều dân chủ căn
bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử,
và tự do lập hội, th́ bị chôn vùi bởi
những đạo luật rất ư là phản
động với những thủ đoạn bỉ
ổi!
Trong một đoạn khác: “Cho đến nay
đă gần 30 năm (năm 2000) rồi mà ngày đêm
vẫn phất cờ đánh trống, ngày đêm ḥ
hét biểu dương, và cũng ngày đêm vơ
vẽ các thành tựu nhân dân ta làm ra, rồi dồn
vào cái túi sáng suốt, cái túi tài t́nh của đảng
cộng sản. Lúc nào cũng bắt nhân dân tung hô,
chào mừng, ca ngợi. Chào đón mùa Xuân cũng
phải chào mừng đảng. Kỷ niệm nông dân
phụ nữ thanh niên, cũng biểu dương
đảng, và tung hô đảng là nguyên nhân của
thắng lợi. Lễ hội tưởng nhớ
tổ tiên cũng phải biểu dương đảng,
chào mừng đảng. Đám cưới đám ma cũng
phải tưởng nhớ và chào mừng đảng.
Có câu ca dao tuyệt vời đủ nói lên chân lư
của thời đại: “Mất
mùa th́ tại thiên tai, được mùa là bởi
thiên tài đảng ta! Mỗi người cộng
sản có lương tâm phải biết xấu
hổ về cái chân lư đó”.
Cựu Đại Tá cộng sản Phạm
Quế Dương, cựu Tổng Biên tập tạp
chí Nghiên Cứu Lịch Sử Quân Độ Nhân Dân,
đă nói: “Cộng sản
vừa bất tài vừa bất lực, vừa
bất lương”.
Ngày 20/5/2006, ông Trần Quốc Thuận, Phó
chủ nhiệm văn pḥng Quốc Hội CSVN, trả
lời phỏng vấn của báo Thanh Niên rằng: “Cơ
chế hiện nay tạo kẽ hở cho tham nhũng vơ
vét tiền của của nhà nước. Không tham nhũng
mới là điều lạ. Nhưng cái mà chúng ta mất
lớn nhất lại không phải là tiền dù
số tiền bị mất lên đến hằng
chục hằng trăm tỷ, mà cái
lớn nhất bị mất là đạo đức.
Chúng ta sống trong một xă hội mà chúng ta
phải nói dối với nhau để sống. Nói
dối hằng ngày trở thành thói quen, rồi thói
quen đó lặp lại nhiều lần thành đạo
đức, mà cái đạo đức đó rất
mất đạo đức. Đó
là một nguy cơ nhưng tôi thấy chẳng
mấy người quan tâm mà chỉ chăm chú vào
tham nhũng. Thời gian
cuối đời (năm 2006) của Đại Tá nhà
văn cộng sản Nguyễn Khải, một
thời là Đại Biểu Quốc Hội, Phó
Tổng Thư Kư Hội Nhà Văn CSVN, qua bài viết
“Đi T́m Cái Tôi Đă Mất”, ông dám bộc
lộ cái nh́n chân thật của ḿnh về bản thân
của ông và về chế độ cộng sản mà
trước đó ông đă tham gia đấu tranh giai
cấp một cách cuồng nhiệt. Theo ông Khải,
ngôn từ là mặt yếu nhất trong các lănh
vực thượng tầng cấu trúc tại các nước
xă hội chủ nghĩa, v́ lănh
đạo các nước đó dùng ngôn từ để
che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc
giao tiếp để che đậy, tức là nói
vậy nhưng không phải vậy.
Nó là cái vơ cứng để bảo vệ hiệu
quả những bất trắc mà lănh đạo các
cấp trong bộ máy quyền lực thường
sử dụng. Người cộng sản nói dối
lem lém, nói dối ĺ lợm, nói dối không hề
biết xấu hổ, cũng không hề run sợ, v́
họ biết rằng người dân không bao giờ
dám hỏi lại bởi đó là tối kỵ.
Về phía người dân, cũng thừa biết
lời lẽ lănh đạo của họ là dối
trá nên chẳng cần phải hỏi mà hăy làm theo ư
ḿnh là ḿnh cũng sẽ dối trá để che đậy
nếu như nhà cầm quyền hỏi. Nhưng tại sao người dân phải dối
trá? Tại v́ các cấp lănh đạo dạy dỗ
người dân dối trá và ép người dân
phải dối trá như họ. Vậy là lănh đạo
lẫn người dân đều dối trá để
che đậy, và che đậy cái ǵ đó tất nhiên
là xấu xa hèn hạ.
Theo bảng xếp hạng về “tự do báo
chí” của Worldwide Press Freedom Index 2008 th́ các quốc
gia cộng sản cùng trong nhóm cuối bảng
tổng xếp hạng: Trung Hoa 167/173, Việt
Nam 168/173, Cuba 168/173, và Bắc Hàn 172/173. Lănh đạo vi phạm nhân quyền
Ngày 1/12/2005, tại trụ sở Quốc Hội
Âu Châu ở Brussels, 730 Dân Biểu của 25 quốc
gia khu vực Đông Âu, Tây Âu, và Bắc Âu, bao
gồm nhiều đảng phái chính trị với
những khuynh hướng khác nhau, đă đồng
thuận khi biểu quyết một Quyết Nghị, đ̣i
lănh đạo CSVN phải thực hiện không
chậm trễ, việc trả tự do cho các nhân
vật bất đồng chính kiến, đặc
biệt là đ̣i Việt Nam phải tổ chức
bầu cử tự do trên căn bản đa đảng.
Đồng thời, thực hiện quyền tự do
báo chí. Ông Ian Pearson, Bộ Trưởng Thương
Mại & Đặc Trách Nhân Quyền Bộ
Ngoại Giao Anh quốc, đang là Chủ Tịch luân
phiên của Liên Hiệp Âu Châu, phát biểu sau khi
Nghị Quyết được thông qua: “Tôi chào
mừng sự quan tâm của Quốc Hội Âu Châu trên
vấn đề hôm nay. Đặc biệt là cuộc
điều trần quan trọng ngày 12 tháng 9 năm
2005 dẫn đến Nghị Quyết này. Tôi biết
rất rơ về t́nh trạng vi phạm nhân quyền
trầm trọng tại ba nước Việt Nam, Cam
Bốt, và Lào. Ví dụ như tại Bộ Ngoại
Giao, trong năm nay đă nhận được 100 thư
khiếu nại của các Dân Biểu Anh quốc
về những vụ vi phạm nhân quyền tại
Việt Nam. Tôi mừng rằng, sau cuộc điều
trần nói trên, nhà cầm quyền Việt Nam đă
để cho Liên Âu gặp thăm Ḥa Thượng Thích
Quảng Độ. Tôi sẽ nêu vấn đề này
và đưa ra một danh sách tù nhân phải
được trả tự do, trong cuộc gặp
gỡ và đối thoại về nhân quyền
với phái đoàn nhà cầm quyền Việt Nam vào
ngày 12 tháng 12 sắp tới (2005)”
Ngày 25/1/2006, Nghị Viện Châu Âu tại
Strasbourg đă đưa ra Nghị Quyết 1481, lên án
“chủ nghĩa cộng sản là
tội ác chống nhân loại và các chế độ
toàn trị cộng sản đă vi phạm nhân
quyền tập thể”. Trong điều 2 ghi
rằng: “Những vi phạm khác nhau tùy theo nền văn
hoá và những giai đoạn lịch sử: (1)
Những hành vi từ ám sát, hành quyết, bỏ đói,
đày ải, đến khủng bố, tra tấn cá
nhân lẫn tập thể trong các trại tập trung.
(2) Những hành vi ngược đăi v́ chủng
tộc hay tôn giáo, từ tự do tư tưởng,
tự do phát biểu, tự do báo chí, đến
tự do lương tâm, và độc đảng chính
trị”. Trong điều 5 ghi rằng: “Cần
thiết phải điều tra và truy tố những
tội phạm ra ṭa án xét xử”.
Ngày 15/3/2007, phái đoàn Nhân Quyền Na Uy có tên
là “Rafto Foundation for Human Rights” do Cô Therese Jebsen hướng
dẫn sang Việt Nam, với mục đích thăm Ḥa
Thượng Thích Quảng Độ và trao giải thưởng
Nhân Quyền mà Ngài được tổ chức
này quyết định trao tặng hồi tháng 11/2006.
Cùng đi, c̣n có ông Tom Rune Orset, thông tín viên đài
truyền h́nh TV2 của Na Uy, và cô Kiều Trần
với trách nhiệm thông dịch. Công An đă ngăn
chận, chẳng những không cho phái đoàn vào Thanh
Minh Thiền Viện, mà c̣n đưa phái đoàn
về trụ sở Công An “làm việc” mấy
tiếng đồng hồ. Sau đó,
Công An gọi cô Kiều Trần đến trụ
sở làm việc, nhưng Cô Trưởng phái đoàn
không đồng ư v́ Cô nghi ngờ họ hành động
gian trá đối với cô Kiều Trần.
Ngày 12/7/2007, Quốc Hội Châu Âu trụ sở
tại Strasbourg đă thông qua “Quyết Nghị
về vấn đề Việt Nam” sau khi nghe một
số Dân Biểu Tây Âu & Đông Âu tŕnh bày
về đàn áp nhân quyền và tôn giáo tại
Việt Nam, đặc biệt là đàn áp 20 Ban Đại
Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất, điều luật an ninh quốc gia trong
Bộ Luật H́nh Sự trái với
Công Ước quốc tế, Pháp Lệnh 44 xử lư
hành chánh ban hành năm 2002 cho phép đưa các nhân
vật bất đồng chính kiến vào bệnh
viện tâm thần như kiểu Xô Viết ngày trước.
Trong quyển “Death by Government” giáo sư R.J.
Rummel viết như sau: “Dưới
lớp vơ Việt Minh chống Pháp, cùng lúc họ
thực hiện cuộc chiến tranh tàn sát những
người quốc gia không cùng đường
lối với họ. Chưa hết, họ cũng tiêu
diệt những người cùng trong hàng ngũ khi
họ xem những người cộng sản đó
chệch hướng”.
Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách
ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân”
của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách
ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo
bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000”
do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại
Hà Nội năm 2004, số người
bị đấu tố lên đến 172.008 người,
và sau giai đoạn sửa sai xác định trong
tổng số đó có đến 132.266 người
bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu
Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007)
Ngày 23/1/2008, tại Strasbourg, Quốc Hội Châu
Âu đă thông qua Quyết Nghị về Việt Nam.
Quyết Nghị tố cáo CSVN vi phạm nghiêm
trọng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự
do hội họp, đàn áp bắt giam những người
lên tiếng về tự do tôn giáo, về chống hành
vi lấn chiếm lănh thổ, và bắt giam các nhà báo.
Quyết Nghị kêu gọi Liên
Hiệp Châu Âu “đề xuất với CSVN chấm
dứt t́nh trạng vi phạm qui mô về nhân
quyền trước khi kư kết các Hiệp ước
mới”.
Ngày 2/3/2009, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công
bố t́nh h́nh nhân quyền thế giới, trong đó
có phần nói về nhân quyền tại Việt Nam
trong năm 2008: “Nước
Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
với dân số khoảng 86 triệu người, là
một quốc gia độc đoán do đảng
cộng sản Việt Nam cai trị.
Cuộc bầu cử tháng 5/2007 đă diễn ra trong
không khí thiếu tự do, không công bằng, v́
tất cả ứng viên bị xem xét nghiêm ngặt
bởi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam,
tổ chức ngoại vi của đảng CSVN có
nhiệm vụ theo dơi các tổ chức quần chúng.
Trong năm qua (2008), nhà cầm quyền tiếp tục
ngăn chận các quyền tự do căn bản như
tự do báo chí, tự do bày tỏ cảm nghĩ,
tự do hội họp, cùng với hành động
đàn áp những người bất đồng chính
kiến, bắt giữ các nhà dân chủ khiến
nhiều người phải ra đi lánh nạn. Người
dân không thể thay đổi chánh phủ bằng lá
phiếu v́ các hoạt động chính trị bị
ngăn cấm hoàn toàn”. Ngày
09/03/2009, tổ chức Freedom House công bố tại Genève
(Thụy Sĩ) bản phúc tŕnh hằng năm về t́nh
trạng nhân quyền thế thế giới. Bản phúc
tŕnh chia các quốc gia được đánh giá t́nh
trạng nhân quyền trong năm 2008 làm 3 nhóm khác nhau:
Nhóm thứ nhất là các quốc gia hoàn toàn hoặc
gần như hoàn toàn về có tự do nhân quyền
trong suốt một phần tư thế kỷ qua,
trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Anh, Đức, Pháp,
Nhật, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Australia,
Italy, ...... Nhóm thứ hai là các quốc gia có tự do
chừng mực về nhân quyền , là Thái Lan,
Singapore, Phi Luật Tân, Trung Hoa cộng sản, Iraq, ....
Và nhóm thứ ba là các quốc
gia hoàn toàn không có tự do về nhân quyền,
gồm Việt Nam, Cam Bốt, Á Rập Xê Út.
Một
chế độ mà từ Chủ Tịch đảng,
xuống Tổng Bí Thư, đến Chủ Tịch nước,
Thủ Tướng chánh phủ, tự tôn vinh là người
vĩ đại, là đỉnh cao trí tuệ, là tài t́nh
sáng suốt, là tuyệt đối đúng, lại
dối trá kèm theo những mưu mẹo vặt trong toàn
bộ chính sách độc tài cai trị dân từ
thể xác đến tinh thần, quả là dân
tộc Việt Nam vô cùng bất hạnh! Từ
bản chất độc tài gian dối đó, các nhóm
lănh đạo cộng sản Việt Nam đă gây ra
vô vàn tội ác với dân với nước mà 4
tội ác dưới đây là tiêu biểu mạnh
mẽ: a. Tội ác về giáo dục
Trên Vietnam Net ngày 7/6/2008 có bài “Nh́n thẳng vào
khủng hoảng giáo dục Việt Nam” của giáo
sư Hoàng Tụy. Ông nhận định sắt bén:
“Dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo
Dục & Đào Tạo cũng như bất cứ
ai đều không thể làm ngơ trước
nhiều vấn nạn giáo dục đă và đang làm
đau đầu cả xă hội. Chính Thủ Tướng
Phan Văn Khải khi từ nhiệm đă thừa
nhận chánh thức sự không thành công của giáo
dục, đến nay thực trạng nghiêm trọng
của giáo dục Việt Nam vẫn chưa được
đánh giá đúng mức. Nhiều người có trách
nhiệm vẫn tự ru ngủ ḿnh với những thành
tựu thực và ảo của giáo dục. Nếu
Việt Nam cô lập với thế giới th́ không
đến nỗi quá lo lắng, nhưng nếu khách
quan và có trách nhiệm khi đặt giáo dục trong
bối cảnh toàn cầu, th́ không thể nhắm
mắt trước sự tụt hậu ngày càng xa
của giáo dục Việt Nam so với các quốc gia
chung quanh. Thực tế, đất nước
ngàn năm văn hiến này đang trả giá
nặng nề cho sự suy thoái nghiêm trọng của
giáo dục kéo dài suốt 30 năm qua ”.
Trong đoạn khác, ông nhấn mạnh: “Những
sai lầm trong giáo dục do tư duy xơ cứng mà
20 năm qua không hề thay đổi. Nền giáo
dục chân chính của quốc gia nào cũng có
sứ mạng cao cả về giáo dục con người
trong một xă hội lành mạnh với cuộc
sống trung thực và óc sáng tạo để góp
phần phát triển đất nước. Nhưng
tiếc thay, những điều đó đă không
đuợc chú ư trong xây dựng nền giáo dục
Việt Nam. Ngày nay, môi trường quốc tế
đă biến đổi cực kỳ sâu sắc trong
khi Việt Nam vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo
dục tư tưởng chính trị thời đấu
tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa
xă hội. Đó là nguyên nhân sâu xa
dẫn đến sự giả dối lan tràn trong giáo
dục tại Việt Nam”.
Tóm tắt bài viết “Giáo dục Việt Nam dưới
nét nh́n của một người Mỹ” do ông
Nguyễn Gia Thưởng chuyển ngữ, trích trong
trang Web của nhóm Thông Luận ngày 23/8/2008. Nội
dung bài này là đề tài thảo luận khi Thủ
tướng đảng cộng sản Nguyến
Tấn Dũng gặp Tổng Thống Bush tháng 6 năm
2008 tại Washington DC. “Việt Nam
đang đối mặt với cuộc khủng
hoảng toàn diện về giáo dục:
Viên chức không được đào tạo
quản trị. Nhà giáo được đào tạo
rất kém với đồng lương quá thấp.
Cơ hội học đại học rất hạn
hẹp v́ cơ sở không phát triển, số
giảng viên giảng sư không gia tăng, bằng
chứng là năm 2007 các trường đại
học chỉ tuyển 300.000 sinh viên trong tổng
số 1.800.000 thí sinh. Mặt khác, số lượng
sinh viên ghi tên vào ngành giáo dục chỉ 10%, trong khi
Trung Hoa cộng sản 15%, Thái Lan 41%, Đại Hàn 89%
(thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Bằng
tiến sĩ th́ mua, c̣n giáo sư th́ được
đề cử qua thủ tục hành chánh chớ không
do công tŕnh và sự nghiệp sư phạm.
Nạn tham nhũng tràn lan chẵng khác bệnh ung thư
trong ngành giáo dục. Việt Nam thua kém các quốc gia
chung quanh về việc cung ứng hiểu biết và
canh tân giáo dục, khi nh́n vào số lượng
tập san khoa học do các trường đại
học ấn hành. Năm 2006, hai đại học
lớn nhất Việt Nam là đại học
quốc gia và đại học kỹ thuật Hà
Nội ấn hành 34 tập san, trong khi đại
học quốc gia Seoul (Đại Hàn) là 4.556 và đại
học Bắc Kinh gần 3.000 tập san khoa học. Cũng
trong năm 2006, về đơn xin bằng sáng chế
của Việt Nam chỉ nộp có 2 đơn,
trong khi Trung Hoa cộng sản đến 40.000
đơn. Số sinh viên từ các
trường đại học Việt Nam có tŕnh
độ rất kém, bằng chứng là một công
ty kỹ nghệ Hoa Kỳ phỏng vấn 2.000 sinh viên
Việt Nam vừa tốt nghiệp đại học
được xem là giỏi nhất trong tổng
số, kết quả là công ty này chỉ chọn
được 40 thí sinh có tŕnh độ tối
thiểu. T́nh trạng giáo
dục Việt Nam có thể phá hỏng những phát
triển kinh tế trong nước và tiến tŕnh
hội nhập thế giới”.
Sau buổi họp ngày 11/9/2008 tại Hà Nội,
CSVN yêu cầu Hoa Kỳ trợ giúp đào tạo
10.000 tiến sĩ tính đến năm 2020, theo bài
viết của Mặc Lâm phóng viên đài RFA, th́ giáo
sư Nguyễn Đăng Hưng, Giám Đốc Điều
Hành Quỹ Học Bổng đào tạo thạc sĩ
và tiến sĩ của Vương Quốc Bỉ
tại Việt Nam, cho biết: “Với tư cách là
một nhà giáo, với tư cách là một người
có nhiều năm đào tạo các tiến sĩ, con
số đưa ra (10.000 tiến sĩ) lớn lao như
vậy, sẽ có những khó khăn trước
mắt. Theo kinh nghiệm của tôi,
ở Việt Nam rất khó t́m được
những đối tượng đủ khả năng
để theo học bằng tiến sĩ. Bằng
chứng là chúng tôi có một dự án đào tạo
50 tiến sĩ giữa đại học Liège của
Bỉ với đại học Xây Dựng Hà Nội,
nhưng đă 5 năm qua rồi mà chúng tôi chỉ t́m
được chưa tới 10 người th́ làm sao
t́m đâu ra con số 10.000 người trong 12 năm
tới. Bậc tiến sĩ không
phải chỉ có tài chánh là đủ, mà vấn
đề là phải có những học sinh có đủ
tư duy, có đủ tŕnh độ để theo
học, có một đam mê nào đó mới có
thể đạt đến bằng tiến sĩ nghiêm
túc như ở Hoa Kỳ, hay ở các đại
học Châu Âu. Nói chung là t́m đối tượng tại Việt Nam theo
học tiến sĩ là rất rất khó”.
Trong suốt chiều dài hơn 30 năm kể
từ khi chiếm xong Việt Nam Cộng Ḥa năm 1975
đến nay, nền giáo dục Việt Nam và các
vấn đề liên quan rất tồi tệ, dù
rằng từ năm 2001 đến nay mức phát
triển kinh tế phát triển trên dưới 7%
mỗi năm. Lănh đạo CSVN
chỉ chú trọng làm ra khẩu hiệu chớ không
làm ra chính sách, v́ chính
sách giáo dục từ nửa cuối thế kỷ 20
đến nay là đầu thế kỷ 21 chỉ có
mục đích đào tạo những thế hệ
thần dân để tuân phục họ. Xuyên qua
nhận định của những viên chức hàng lănh
đạo giáo dục Việt Nam, cũng như nét nh́n
từ viên chức giáo dục Hoa Kỳ, sự
thật tồi tệ hiện nay đến mức lănh
đạo CSVN không thể che giấu nỗi nên
phải nh́n nhận sự thật mà bản chất
của đảng cộng sản vốn dĩ là
dối trá che giấu. Đây là
tội ác nặng nhất trong
số những tội ác mà dân gian gọi là
“trời không dung đất không tha”, bởi v́ xă
hội Việt Nam hiện nay là một xă hội băng
hoại đạo đức, đảo lộn luân
thường đạo lư, dẫn đến t́nh
trạng sau khi chế độ cộng sản độc
tài sụp đổ, ít nhất phải hai thế
hệ sau đó mới hy vọng khôi phục lại
được nét tinh hoa văn hoá dân tộc. b. Tội ác về lănh thổ
Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng
CSVN Phạm Văn Đồng kư văn kiện ngày
14/9/1958, công nhận vùng Biển Đông bao gồm
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam trở thành lănh thổ của nước
Trung Hoa. Đây là hành động chư
hầu của nhóm lănh đạo VNCS đối
với THCS chẳng khác thời phong kiến xa xưa
trong lịch sử! Với văn kiện này không
thể do ông Thủ Tướng họ Phạm
quyết định mà phải là lệnh của
Bộ Chính Trị do ông Hồ lănh đạo. Từ
đó khẳng định ông
Phạm kư văn kiện đó là theo lệnh ông
Hồ.
Ngày 30/12/1999, Lê Khả Phiêu,
Tổng Bí Thư đảng CSVN kư Hiệp
Ước dâng 789 cây số vuông dọc biên giới
để trừ nợ mua vũ khí đạn dược
sử dụng trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam
Cộng Ḥa 1955-1975, là hành động
cắt đất bán cho THCS!
Ngày 25/12/200, ông Trần Đức
Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân
kư Hiệp Ước cắt 11.362 cây số vuông trên
vịnh Bắc Việt cho Trung Hoa cộng sản, là hành
động cắt biển bán cho THCS để lấy
2.000.000.000 mỹ kim, mà theo lời ông Lương
để “vuốt ve” sức phản kháng của ông
Vơ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và những người
khác trong Quốc Hội. Phải viện dẫn lư do
thăm viếng, v́ sau khi những tin tức loan
truyền khá rộng răi tại Hà Nội, loan dần
vào miền Nam về Hiệp Ước ngày 31/12/1999 bán
đất cho THCS và đă âm thầm đưa
Hiệp Ước ra Quốc Hội phê chuẩn ngày
9/6/2000. Với hành động không công khai minh
bạch, chứng tỏ lănh đạo VNCS biết
những hành động đó là hành động
tội ác nên phải che giấu người dân dưới
quyền. Biết vậy mà vẫn hành động, chính
xác là lănh đạo VNCS đặt
quyền lợi đảng cộng sản Việt Nam
lên trên quyền lợi tổ quốc quyền lợi
dân tộc, v́ quyền lợi của đảng
đồng nghĩa với quyền lợi riêng tư
của nhóm lănh đạo hơn 100 đảng viên
trong ban chấp hành trung ương của họ.
Vậy là, ngoài nhóm 4 tên lănh đạo với
tội ác nói trên đă bán đất bán biển cho
THCS, thêm nhóm lănh đạo với
tội ác thỏa hiệp cho THCS sáp nhập quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa
tỉnh Hải Nam hồi đầu tháng 12/2007. Rồi
tội thêm tội khi họ sử dụng “hung
thần” Công An ngăn chận thanh niên sinh viên
học sinh biểu t́nh ngày 9 & 16/12/2007 phản đối
THCS chiếm hai quần đảo nói trên của
Việt Nam. Chưa hết, lại tội thêm tội
khi các thành phần phẫn uất hành động
của THCS lẫn phản ứng của VNCS chuẩn
bị mít tinh biểu t́nh trước ṭa đại
sứ THCS vào ngày 14/9/2008, phản đối chúng trưng
dẫn văn kiện của Phạm Văn Đồng
gởi THCS vào ngày này 50 năm trước, lại
bị đám “hung thần” Công An tại Hà Nội
cũng như tại các địa phương, ra
sức ngăn chận bắt giữ thẩm vấn
những ai mà họ nghi sẽ tham gia mít tinh biểu t́nh.
Nhóm lănh đạo tội ác này là
Nguyễn Minh Triết trong chức Chủ Tịch nước
và Nguyễn Tấn Dũng trong chức Thủ Tướng.
Với những hành động gian trá giấu
diếm khi kư ba văn kiện ngày 14/9/1958, ngày
30/12/1999, ngày 25/12/2000, cộng với những hành
động gian trá của Quốc Hội khi phê
chuẩn hai Hiệp Ước nói trên, cộng thêm
sự thỏa hiệp để Trung Hoa cộng
sản thành lập huyện Tam Sa bao gồm Hoàng Sa Trường
Sa của Việt Nam, lại c̣n sử dụng Công An
đàn áp những ai thể hiện ư thức chính
trị ôn ḥa qua hành động mít tinh biểu t́nh
phản đối hành động của THCS lấn
chiếm lănh thổ Việt Nam, đích
danh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê
Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức
Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng,
là những tên bán đất bán biển cho THCS, một
quốc gia với chiến lược trường
kỳ xâm chiếm Việt Nam chúng ta! Chỉ riêng
cái tội kinh hoàng này mà dân gian gọi là “trời
không dung đất không tha”, đă quá đủ
để đưa những tên này ra ṭa án quốc
gia phán xét, và lưu măi trong sử sách truyền măi
trong dân gian cho đến ngàn năm sau như những
tên bán nước từ ngàn năm trước.
Kẻ bán nước không được gọi
bằng ông hay bất cứ cách gọi nào khác dành
cho người tử tế cho dù họ bao nhiêu
tuổi.
Chưa hết, tháng 12 năm 2008, Nguyễn
Tấn Dũng tuyên bố rằng: “Khai thác quặng
Bauxite là chủ trương lớn của đảng”
(mà đảng là nhóm lănh đạo)”. Thỏa
hiệp này cho Trung Hoa cộng sản đưa
hằng ngàn thậm chí là hằng chục ngàn công nhân
và lực lượng quân đội dưới danh
nghĩa bảo vệ an ninh vùng khai thác quặng Bauxite
trên Cao Nguyên miền Trung tạo
môi trường sống vùng này trở nên tồi
tệ. Và tồi tệ hơn hết nếu giả
thuyết sau đây rất có thể trở thành
sự thật là một lực lượng quân đội
THCS sẽ đồn trú dài hạn nơi đây dưới
danh nghĩa nào đó mà lănh đạo VNCS không
thể khước từ do lệ thuộc THCS”.
Nước
Việt Nam ta qua nhiều ngàn năm lịch sử
với biết bao thăng trầm vinh nhục, nhưng
chưa có triều đại nào cũng chưa có nhóm
lănh đạo nào tồi tệ đê hèn như nhóm
lănh đạo Việt Nam cộng sản, đă v́
quyền lợi riêng tư mà dâng nộp cho Trung Hoa
cộng sản 789 cây số vuông (năm 1999) trên dăi
đất biên giới, 11.362 cây số vuông (năm
2000) trong vùng vịnh Bắc Việt, và mặc nhiên
thỏa hiệp cho Trung Hoa cộng sản sáp nhập
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
Sa vào huyện Tam Sa của Trung Hoa cộng sản
(2007), cộng với nhiều ngàn công nhân lẫn
đơn vị quân đội THCS trong khu vực khai
thác quặng mơ Bauxite vùng Dak Nong Cao Nguyên Miền Trung
(năm 2008). Đây là tội ác ngang hàng với tội ác giáo
dục c. Tội ác tàn sát đồng bào
- Theo giáo sư Rummel trong quyển “Death by
Government” th́ cộng sản Việt Nam với tội
ác tàn sát đồng bào. Trong giai đoạn 1945-1957,
đă giết những thành phần mà họ gọi là
các tầng lớp trí thức, tư sản giàu có, khác
khuynh hướng chính trị, và những người
trong hàng ngũ của họ mà họ cho là chệch tư
tưởng cộng sản cũng bị họ
giết. Căn cứ vào tài liệu, số
người bị giết trong giai đoạn này vào
khoảng 50.000 người.
- Trong giai đoạn cải cách ruộng đất
trên đất bắc 1953-1955. Bộ “Lịch Sử
Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế
Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004,
cho biết có 172.008 người bị đấu
tố (được hiểu là bị giết). Sau
khi sửa sai th́ đảng với nhà nước
đưa ra con số 123.266 người bị coi là
oan. Riêng nạn nhân trong chính sách
cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân
Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách
ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam
1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất
bản tại Hà Nội năm 2004, số người
bị đấu tố lên đến 172.008 người,
và sau giai đoạn sửa sai xác định trong
tổng số đó có đến 132.266 người
bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu
Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007).
- Trong Tết Mậu Thân năm 1968, theo tác
giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at
Hue” ấn hành năm 1976, th́ số hài cốt t́m
được do cộng sản Việt Nam đă
bắt giết trong 21 ngày chiếm giữ một
phần thành phố Huế và chôn tập thể trong
các hầm là 2.810 người trong tổng số dân
ghi mất tích hơn 5.000 người! Nhưng theo
sử gia Trần Gia Phụng th́ số
người t́m được trong 22 mồ chôn
tập thể là 2.326 xác trong tổng số dân bị
giết là 5.800 người!
- CSVN bắt đầu cuộc gây chiến xâm lăng
Việt Nam Cộng Ḥa từ năm 1954, và đến
ngày 30 tháng 4 năm 1975 Việt Nam Cộng Ḥa chúng ta
sụp đổ. Theo tài liệu đúc kết từ
Đại Hội 4 của CSVN năm 1976,
ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đă
chết trên chiến trường Việt Nam Cộng Ḥa,
gồm cả số người chết trên đường
xâm nhập từ Bắc vào Nam. Nhưng theo nhà văn
nữ (cựu cộng sản) Dương Thu Hương
th́ số người chết lên
đến 10.000.000 người.
- Cộng sản cai trị toàn cơi Việt Nam dưới
tên nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam với hằng loạt những chính sách
đánh quỵ xă hội mà họ vừa chiếm
được. Theo tài liệu của Việt Quốc
bên Germany, th́ Sở Công An Sài G̣n (mà họ cái tên
Hồ Chí Minh vào đó), đến cuối tháng 7 năm
1975, Công An đă đẩy 154.772 quân nhân viên
chức Việt Nam Cộng Ḥa cũ vào các trại
tập trung. Đến cuối tháng 10 cùng năm
(1975), Công An bắt thêm 68.037 người nữa.
Cộng chung tính đến 30 tháng 10 năm 1975, tổng
số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng
Ḥa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200
trại tập trung trên toàn cơi Việt Nam là 222.809 người.
Đến tháng 4/1992, người cuối cùng mới
ra khỏi trại tập trung. Trong 17
năm đó, ước lượng từ 8.000 đến
10.000 tù chính trị bị chết do chính sách thù
hận thâm độc của nhóm lănh đạo CSVN..
- CSVN áp dụng những chính sách khắc
nghiệt cai trị toàn cơi Việt Nam, là nguyên nhân chính
đẩy hơn 3.000.000 người bằng mọi phương
cách rời khỏi quê hương t́m tự do trên
khắp thế giới! Trong số này có khoảng
150.000 người di tản trước trong và ngay sau
ngày 30/4/1975. Tiếp sau đó, ḍng người
Việt Nam ào ạt trốn chạy khỏi quê hương
tị nạn tại các quốc gia tự do trên
thế giới gồm 839.200 người trong 20 năm
kể từ tháng 6/1975: Giai đoạn 1, tháng
6/1975 - 1979 có 326.000 người tị nạn gồm
14.600 người vượt biên giới trên đất
liền, và 311.400 người vượt biển mà
thế giới gọi là Thuyền Nhân”. Giai đoạn
2, 1980 - 1984, có 253.100 người tị nạn
gồm 11.000 người vượt biên giới và
242.000 người vượt biển. Giai đoạn
3, 1985 - 1989, có 197.000 người tị nạn
gồm 10.500 người vượt biên giới và
186.500 người vượt biển. Và giai đoạn
4, 1990-1995, có 63.100 người tị nạn gồm
6.700 người vượt biên giới và 56.400 người
vượt biển. Các cơ quan quốc tế về
truyền thông lẫn tị nạn dựa vào tin
tức do người tị nạn cung cấp,
phỏng đoán cứ 3 người Việt Nam vượt
biên vượt biển th́ 2 người đến
bến bờ tự do và 1 người chết mất
xác. Theo cách ước tính này, có
từ 400.000 đến 500.000 người chết
mất xác trên đường chạy trốn chế
độ cộng sản độc tài! Đây là
tội ác thứ hai sau hai tội ác ngang nhau là giáo
dục và lănh thổ. d. Tội ác áp bức cướp đoạt tài sản
Sau khi chiếm Việt Nam Cộng Ḥa 30/4/1975,
đẩy hơn 200.000 viên chức cán bộ và quân
nhân vào các trại tập trung, CSVN bắt đầu
cướp đoạt tài sản mọi thành phần
xă hội Việt Nam Cộng Ḥa cũ:
Ngày 20 tháng 8 năm 1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin
cộng sản Việt Nam , ra lệnh mọi người
phải tiêu hủy toàn bộ văn hoá phẩm
thời Việt Nam Cộng Ḥa mà họ gọi là văn
hóa phẩm đồi trụy và phản động.
Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ
những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy
tố ra “ṭa án nhân dân”. Chính sách này giống chính
sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong
kiến, và thời Mao Trạch Đông cộng sản.
Nhà văn nữ cộng sản Dương Thu Hương
viết rằng: “Sau 30/4/1965, tôi vào
miền Nam choáng váng khi nhận thấy hệ
thống thông tin ở đây quá phong phú. Trên các quày
sách với vô số các tác phẩm văn chương,
khoa học, triết học của thế giới kim
cổ Đông Tây. Rất nhiều sách triết
học Mác - Lê, sách văn học Nga và Sô Viết.
Trong khi ở miền bắc mấy chục năm
trời chỉ có một luồng thông tin, làm sao nh́n
hết sự vật để đánh giá!”
Ngày 18 tháng 9 năm 1975, lănh đạo cộng
sản Việt Nam bất th́nh ĺnh thực hiện chính
sách đổi tiền. Họ không giới hạn
số tiền mang đến đổi, nhưng
chỉ được nhận lại tối đa là
200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng
bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1
mới = 500 cũ). Số tiền c̣n lại, mỗi
khi gia đ́nh có nhu cầu phải làm đơn xin và
phải được Phường/Xă chứng
nhận mới được cứu xét. C̣n cứu xét
như thế nào th́ tùy họ khi vui lúc buồn. Tháng
5/1978 đổi tiền lần nữa với trị
giá 1 đồng mới = 10 đồng đang lưu hành.
Như vậy, 1 đồng bạc mới = 5.000 đồng
Việt Nam Cộng Ḥa cũ. Một
chút so sánh: Đến ngày 6/3/2009, 1 mỹ kim = 17.380
đồng VNCS. Nếu đem 1 mỹ kim x 17.380 đồng
VNCS x 5.000 VNCH năm 1975 sẽ là = 86.900.000 đồng.
Con số này nói rât rơ về sự mất giá của
đồng bạc VNCS đến mức nào sau 33 năm
cầm quyền!
Ngày 10 tháng 11 năm 1975, chính sách đánh vào ngành
kinh doanh thương măi, ép mọi chủ nhân mà
họ gọi là “vận động” hiến
tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở
kinh doanh thương măi, kể cả nhà ở,
rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà
họ gọi là “khu kinh tế mới” tự mưu
sinh. Trường hợp không chấp hành sự
vận động của họ th́ bị bắt vào
trại tập trung, c̣n tài sản bị họ
tịch thu. Có nghĩa là, cho dù
bằng cách nào đi nữa th́ tài sản cũng vào
tay nhà nước cộng sản, chỉ khác ở
chổ là những chủ nhân có bị vào trại
tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại
tập trung lớn -tức xă hội- thế thôi.
Đến chính sách cải tạo văn nghệ
sĩ. Tờ L’ humanité của đảng cộng
sản Pháp, số ra ngày 21 tháng 3 năm 1976 tại
Paris, có đăng tải danh sách 321
văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Ḥa,
đă bị nhà cầm quyền cộng sản
Việt Nam bắt vào trại tập trung cải
tạo từ ngày 13 tháng 6 năm 1976.
Tháng 6 năm 1977, lại một chính sách khác
buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ
gọi là “vận động”, đem tập trung vào
Hợp Tác Xă. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản
phẩm do Hợp Tác Xă quản trị, c̣n nông dân tùy
theo lao động của ḿnh bỏ ra mà nhận
lại đồng lương bằng sản phẩm
do Hợp Tác Xă quyết định. Và họ quản
trị lao động công việc đồng áng
chẳng khác những trại lính. Trần Bá Đệ,
một sử gia miền bắc viết rằng: “Trong
khi nông nghệp miền bắc đang trên con
đường hợp tác hóa trên 15 năm đang
ở lối nghẽn chưa t́m ra lối thoát, đảng
lại chủ trương đưa nông nghiệp
miền nam đi tiếp trên con đường đó”.
(trích quyển
“Lịch sử hiện đại Việt Nam
1945-2006” của tiến sĩ sử học Hoàng
Ngọc Thành, xuất bản năm 2008, trang 643)
Cái chính sách toàn bộ đất
đai trên toàn cơi Việt Nam thuộc về nhà nước
mà nhà nước lả đảng cộng sản
mả đảng là một nhóm hơn 10 đảng
viên trong Bộ Chính Trị. Chính từ chính sách
này mà phát sinh vô số người dân phải kêu oan
khiếu nại. Từ năm 2006, sự kiện
từng đoàn dân oan từ chấp nhận mọi khó
khăn trong sinh hoạt hằng ngày và nguy hiểm
đến tính mạng, đă các tỉnh kéo vào thành
phố kinh tế Sài G̣n và thành phố chính trị Hà
Nội ở đó tháng này sang tháng khác, kêu oan
khiếu nại với các cơ quan thẩm quyền,
là bằng chứng mạnh mẽ nhất về
sự áp bức bóc lột người dân về
đất đai, dưới danh nghĩa xây dựng công
ích quốc gia nhưng hầu hết đem bán cho các
cơ quan đầu tư ngoại quốc xây dựng
cơ sở sản xuất cũng như cơ sở
giải trí với giá cao trong khi đền bù cho dân
quá thấp. Nhà nước cộng sản dành cho cái
quyền quản trị đất đai, cho người
dân sử dụng nhưng khi cần là họ lấy
lại đúng nghĩa của “chế
độ (dân) xin và (nhà nước) cho”, nhưng
khi thấy có lợi cho họ là họ lấy lại.
T́nh trạng dân oan khiếu nại kiện thưa
từ đó đến cuối năm 2008 càng thêm
phức tạp, các cấp lănh đạo đều
gian trá dối gạt đồng bào đến
mức người dân oan không c̣n tin lănh đạo
hứa hẹn, cũng không sợ Công An đàn áp. Các
cơ quan truyền thông quốc tế ước lượng
có khoảng từ 30.000 đến
50.000 dân oan tham dự khiếu nại thưa kiện
tại các tỉnh và thành phố mà nhiều nhất
là Sài G̣n và Hà Nội.
Trên tuần báo Saigon Weekly News ngày 31/10/2008 tại
Houston, ông John Hendra, phối trí viên của Liên
Hiệp Quốc tại Việt Nam cảnh báo rằng:
“Dù kinh tế Việt Nam phát triển trong những
năm gần đây nhưng nhiều nhóm dân
vẫn trong t́nh trạng có thể bị thiếu
thực phẩm, nhất là những
nhóm nông dân không có ruộng đất, những nhóm
dân nghèo tại các đô thị, và những nhóm dân
tộc thiểu số. Giữa lúc giá nhiên
liệu và thực phẩm trên thế giới giảm
dần th́ lạm phát tại Việt Nam vẫn c̣n
ở tỷ lệ 26.7% trong năm 2008, khiến ngân sách
gia đ́nh của giới nghèo túng càng thêm kiệt
quệ. Trong hơn 10 năm qua, kinh tế Việt Nam phát
triển trung b́nh 7.5% giúp một số dân thoát
khỏi cảnh nghèo đói, nhưng
t́nh trạng hiện nay làm cho giới dân nghèo trở
thành cơ cực đă tạo nhiều bất ổn
trong xă hội (Có lẽ nói đến t́nh
trạng dân nghèo bị bóc lột phải đi
khiếu nại kêu oan. PBH). Việt Nam cần
phải củng cố các chương tŕnh an sinh xă
hội để giúp dân nghèo nhiều rủi ro
nhất”.
Bản tin ngày 5/2/2009 do Thời Báo Kinh tế
Việt Nam ghi nhận, Thủ Tướng CSVN
Nguyễn Tấn Dũng cho biết t́nh h́nh kinh tế
xă hội năm 2008 rất nhiều biến động
gần như không thể lường trước
được, do đó ông kêu gọi dân chúng
phải đồng thuận để tạo sức
mạnh đưa đất nước vượt
qua những khó khăn hiện nay. Việt
Nam chưa cần phá giá đồng bạc, v́ phá giá
từ 17.000 đồng VN = 1 MK lên 18.000 đồng th́
tổng số nợ ngoại quốc từ 18 tỷ
mỹ kim (hiện nay) sẽ tăng lên rất
nhiều và ảnh hưởng mạnh vào ngân sách.
Ngay trong tháng đầu năm 2009, chỉ số
của các ngành từ sản xuất kinh doanh đến
du lịch, xuất cảng, ... đều giảm sút
mạnh.
3.
Kết luận Cộng
sản độc tài vẫn là cộng sản độc
tài. Họ chỉ phục vụ bản thân họ dưới
tên gọi đảng cộng sản Việt Nam. Từ kinh nghiệm dẫn
đến khẳng định, đă là cộng
sản th́ không có người cộng sản tử
tế v́ những chính sách giáo dục chỉ nhắm
đào tạo những thế hệ thần dân tuân
phục họ, và những chính sách xă hội chỉ
nhắm đè bẹp các quyền tự do của con
người trên căn bản “xin
và cho” trong chính sách cai trị người
dân, cho nên hơn nửa thế kỷ qua Việt Nam không
có những công dân tử tế để xây dựng
một xă hội tử tế trong mục đích
phục vụ người dân. Vậy, ngày
nào chế độ CSVN độc tài tàn bạo c̣n
tồn tại th́ ngày đó người dân vẫn
mất quyền làm người và vẫn bị áp
bức bóc lột từ vật chất đến tinh
thần. Cách duy nhất mà người dân giành
lại quyền làm người của ḿnh là vùng lên
lật đổ và triệt tiêu chế độ này,
v́ lá phiếu không thể chuyển hóa được
những kẻ lănh đạo tàn bạo phi nhân
của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng./.
(Trích phụ
bản A trong bài đang viết “Quan Niệm Sách Lược
Đấu Tranh Lật Đổ CSVN”)
(Houston,
12 tháng 3 năm 2009) |
Diễn Đàn Giáo Dân xin quí vị thêm lời cầu nguyện cho Việt Nam:
có công lư và hoà b́nh, có dân chủ và tự do,
không c̣n bất công và gian dối.