LỄ HỘI: TẾT VIỆT NAM - LIÊN KHÚC MÙA XUÂN

 

 

Video: EM ƠI MÙA XUÂN ĐẾN RỒI ĐÓ sáng tác: Trần Chung

MỪNG NẮNG XUÂN VỀ sáng tác: Huỳnh Anh

Tŕnh diễn: Trung Hậu, Hạnh Nguyên, Tuyết Nga, Quốc Đại và Đông Quân

 

LỄ HỘI: TẾT VIỆT NAM

1.-Tết Nguyên Đán - Tết Cả (Mồng 1 Tháng Giêng) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Tết c̣n là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lư (ăn quả nhờ kẻ trồng cây) và t́nh nghĩa xóm làng.

*-Tết Nguyên Đán có từ bao giờ ?

   Theo Nguyễn Đ́nh Khang, nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương.

    - Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng màu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức Tháng Giêng, nhằm Tháng Dần.

   - Nhà Thương, thích màu trắng, lấy Tháng Sửu (con trâu), Tháng Chạp làm tháng đầu năm.
  
- Qua nhà Chu (1050 - 256 trước Công Nguyên), ưa sắc đỏ, chọn Tháng Tư (chuột), Tháng Mười Một làm tháng Tết.

   Các Vua Chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tư th́ có Trời, giờ Sửu th́ có Đất, giờ Dần sinh Loài Người mà đặt ra ngày Tết khác nhau.

   - Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: Tháng Dần (là Tháng Giêng)
  
- Măi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công Nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua Tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười.

   Cho đến khi nhà Hán trị v́, Hán Vũ Đế (140 trước Công Nguyên) lại đặt ngày Tết vào Tháng Dần (tức Tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không c̣n nhà vua nào thay đổi về Tháng Tết nữa.

   Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng Ngày Tạo Thiên Lập Địa có thêm giống Gà, Ngày Thứ Hai có thêm Chó, Ngày Thứ Ba sinh ra Lợn, Ngày Thứ Tư sinh Dê, Ngày Thứ Năm sinh Trâu, Ngày Thứ Sáu sinh Ngựa, Ngày Thứ Bảy sinh Loài Người và Ngày Thứ Tám mới sinh ra Ngũ Cốc. V́ thế, ngày Tết thường được kể từ ngày Mồng Một cho đến hết ngày Mồng Bảy.

   Dân tộc Việt Nam có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ Lễ Tiết. Có Tiết Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Thu. Dựa theo tài liệu sưu tầm trên Internet và của Trang Mạng Hà Phương Hoài, chúng tôi lần lượt giới thiệu tóm lược những Lễ Tết trong năm.

2.-Tết Khai Hạ (Mồng 7 Tháng Giêng)

   Người giàu khai hạ, tớ khai bị

   Hết rượu cho nên mới ngủ kh́

   Tết Khai Hạ có nghĩa là Tết mở đầu một ngày vui để chào đón một Mùa Xuân mới. Theo cách tính toán của người xưa th́ tháng đầu năm: ngày Mồng Một ứng vào Gà, Mồng Hai úng vào Chó, Mồng Ba là Lợn, Mồng Bốn là Dê, Mồng Năm là Trâu, Mồng Sáu là Ngựa, Mồng Bảy là Loài Người, Mồng Tám là Lúa - Ngũ Cốc.

   Trong tám ngày đầu năm, hễ ngày nào khô ráo, sáng sủa th́ giống nào thuộc về ngày ấy, có năm được tốt. Cho nên, đến ngày Mồng Bảy thấy trời nắng ráo th́ người ta tin rằng cả năm Con Người được mạnh khoẻ, gặp nhiều may mắn tốt lành. Mồng Bảy hạ Cây Nêu để bế mạc Tết Nguyên Đán th́ người ta mở ngày Tết Khai Hạ để hy vọng và cầu mong Một Năm Mới tốt lành, vui vẻ, khoẻ mạnh, hạnh phúc.

3.-Tết Rằm Tháng Giêng (Tết Thượng Nguyên - 15 Tháng Giêng)

   "Lễ vật quanh năm không bằng ngày Rằm Tháng Giêng". Đó là ngày trăng tṛn đầu tiên của Năm Mới, là Tết Rằm Tháng Giêng hay Tết Thượng Nguyên. Tết này phần lớn tổ chức tại Chùa v́ ngày Rằm Tháng Giêng c̣n là ngày vía Phật tổ Adiđà. Thiện nam, tín nữ đi lễ rất đông.

4.-Tết Hàn Thực (Mồng 3 Tháng Ba)

   Hàn thực có nghĩa là đồ ăn nguội. Gốc Tết này vốn ở Trung Quốc thời Xuân - Thu xưa. Tích chuyện kể: Vua Văn Công nhà Tấn khi gặp cảnh long đong hoạn nạn được người hiền sĩ Giới Từ Thôi hết ḷng phù hộ. Khi vua Văn Công đói quá, Giới cắt thịt đùi ḿnh nấu cháo dâng vua ăn. Trải qua 19 năm trời nay trú Tề, mai náu Sở, một ngày Văn Công lại về làm vua nước Tấn. Mọi người có công giúp vua đều được ban thưởng nhưng rủi thay vua lại quên mất Giới Từ Thôi đang cùng mẹ ở ẩn trong núi Điền Sơn. Khi vua Tấn nhớ ra, cho người vào t́m, mời măi Giới Từ Thôi không chịu rời núi. Vua bèn cho đốt rừng, hy vọng Giới Từ Thôi sẽ ra, nhưng Giới Từ Thôi đă cùng mẹ già chịu chết cháy trong đó. Vua vô cùng thương xót Giới Từ Thôi, cho lập đền thờ trên núi. Và cứ mỗi năm vào ngày Mồng Ba Tháng Ba, ngày giỗ Giới Từ Thôi, cả nước lại tổ chức cúng ông. Hôm đó, kiêng đốt lửa, ăn th́ dùng đồ nguội đă nấu sẵn từ hôm trước.

   Từ thời Thăng Long Đại Việt, nhân dân ta đă ăn Tết này. Người ta làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, cúng gia tiên là chính, chứ ít ai biết đến ông Giới Từ Thôi.

5.-Tiết Thanh Minh (Mồng 9 Tháng Ba)

     Thanh minh trong tiết Tháng Ba

     Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Nguyễn Du

   Thanh Minh có nghĩa trời độ ấy mát mẻ quang đăng. Ta cũng nhân dịp ấy mà đi thăm mộ những người trong ḍng họ đă mất. Tết Thanh Minh là lễ tảo mộ. Đi thăm mộ thấy cỏ rậm th́ phát quang đất khuyết th́ bồi đắp, rồi về nhà thắp hương cúng gia tiên.

6.-Tết Đoan Ngọ (Mồng 5 Tháng Năm)

   C̣n gọi là Tết Đoan Dương cho nên mới có câu thơ:

     Chưa ăn bánh tết Đoan Dương

     Áo bông chẳng dám khinh thường cởi ra.

   Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được coi trọng, xếp vào hàng thứ hai sau Tết Nguyên Đán. V́ vậy các cụ thường nói "Mồng 5 Ngày Tết". Học tṛ tết thầy, c̣n rể tết bố mẹ vợ… quanh năm cũng chỉ tập trung vào hai Lễ Tết đó.

7.-Tết Trung Nguyên (Rằm Tháng Bảy - 15 Tháng Bảy)

     Tiết tháng bảy ma dầm sùi sụt

     Toát hơi mây lạnh buốt xương khô.

Nguyễn Du

   Tết Rằm Tháng Bảy có tên khác là Tết Trung Nguyên, người xưa gọi là ngày "xá tội vong nhân". Do đó vào ngày này, tại các Chùa thường làm chay chân tế và cầu kinh Vu Lan. C̣n ở nhà th́ bày cỗ cúng gia tiên, đốt vàng mă và các đồ dùng bằng vàng mă để người ở Âm Phủ dùng.

8.-Tết Trung Thu (Rằm Tháng Tám - 15 Tháng Tám)

   Tết của trẻ con nhưng người lớn cũng gặp nhau để trà, tửu, ngâm thơ, ngắm trăng gọi là "thưởng nguyệt". Cỗ Thưởng Nguyệt (trông trăng) có chiếc bánh nướng h́nh trăng tṛn, bưởi, hồng và nhiều thứ hoa quả khác. Đáng chú ư là các đồ chơi của các em như tiến sĩ giấy, voi, đèn kéo quân, ngựa hồng, các loại mặt nạ, đèn ông sao, và tối đến trước khi phá cỗ là tṛ chơi múa rồng, múa sư tử, xem đèn kéo quân.

9.-Tết Trùng Cửu (Mồng 9 Tháng Chín)

   Tết này có nguồn gốc ở Trung Quốc, ra đời vào thời kỳ thịnh hành của Đạo Lăo. Chuyện xưa kể rằng: Có người tên là Hoàn Cảnh muốn học được phép tiên. Học măi đến ngày cuối cùng th́ thầy bảo hăy may mỗi người một cái túi, hái hoa cúc bỏ vào rồi lên núi ẩn náu. Quả nhiên ngày hôm ấy, Mồng Chín Tháng Chín mưa to, ngập hết cả mặt đất. người chết đuối rất nhiều, c̣n gia đ́nh Hoàn Cảnh th́ vẹn nguyên. Thời kỳ Lư - Trần, nho sĩ Việt Nam theo tích đó cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương. Bây giờ ít có nơi tổ chức tết trùng cửu.

10.-Tết Trùng Thập (Mồng 10 Tháng Mười)

   Tết này các ông thày thuốc thường làm rất lớn. Theo sách cổ Dược Lễ th́ vào Mồng Mười Tháng Mười, các thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời (Xuân, Hạ, Thu, Đông) và dùng thật tốt. Ở nông thôn gọi là Tết Cơm Mới, có bánh dày, chè khoai, gà luộc dùng cúng gia tiên mừng được Mùa Lúa.

11.-Tết Ông Táo (23 Tháng 12 - Chạp)

   Tương truyền là ngày Ông Táo (Táo Quân, Vua Bếp) lên chầu trời để tâu việc làm ăn cả xứ của mỗi gia đ́nh với Ngọc Hoàng. Chuyện kể rằng: Xưa có hai vợ chồng v́ nghèo quá phải bỏ nhau. Sau người vợ lấy được chồng giàu, một hôm đang đốt hàng mă th́ thấy một kẻ đến ăn xin. Người vợ nhận ra người ăn xin ấy chính là chồng cũ của ḿnh, thương cảm bèn đem cho rất nhiều gạo thóc, tiền bạc. Người chồng mới nghi ngờ vợ, vợ ức quá đâm đầu vào bếp chết. Thương vợ cũ người ăn xin cũng đâm đầu vào lửa chết theo. Ân hận và đau khổ, người chồng mới cũng nhảy vào bếp lửa đó chết. Thượng Đế nghe chuyện thương cảm ba con người có nghĩa kia, bèn phong họ làm Vua Bếp.

   Ca dao có câu:

     Thế gian một vợ một chồng

     Chẳng như Vua Bếp hai ông một bà.

   Theo tích ấy, vào ngày 23 Tháng Chạp, người ta mua hai mũ đàn ông một mũ đàn bà bằng hàng mă cùng một con cá chép để Vua Bếp lên chầu trời. Cá chép thường là cá tươi, rất to, khi cúng, cúng cả con. Và bây giờ mỗi khi vẽ Ông Táo, người ta thường vẽ ông đội mũ cỡi cá bay trong mây, nhưng rất tiếc lại không có… quần.

   Bởi vậy mới có bài thơ vui:

     Hăm ba Ông Táo dạo chơi xuân,

     Đội mũ mang hia chẳng mặc quần.

     Thượng đế hỏi rằng sao chướng vậy ?

     Tâu rằng: Hạ giới nó duy tân. 

   Ông Táo hay Thần Bếp là người mục kích sự làm ăn của mọi nhà. Theo tập tục hàng năm Ông Táo phải thu xếp lên trời vào ngày 23 Tháng Chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế cho nên, trong ngày này, mọi gia đ́nh người Việt Nam đều làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa Ông Táo. Ngày Ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên Đán. Sau khi tiễn đưa Ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón Giao Thừa - Tết.  

Hoa Đào                         -                    Hoa Mai

   Cùng với tranh, hoa quả là yếu tố tinh thần cao quư thanh khiết của người Việt Nam trong những ngày đầu Xuân. Miền Bắc có Hoa Đào, Miền Nam có Hoa Mai. Hoa Đào, Hoa Mai tượng trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đ́nh người Việt Nam. Ngoài cành Đào, cành Mai, mấy ngày Tết người ta c̣n trưng bày thêm Cây Quất – Tắc chi chít trái vàng mọng, đặt ở pḥng khách như biểu tượng cho sự sung măn, may mắn, hạnh phúc.  

Mâm Ngũ Quả ở Miền Bắc

Mâm Ngũ Quả ở Miền Nam

   Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đ́nh, ngoài các thứ bánh trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả ở Miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất. C̣n ở Miền Nam, mâm ngũ quả là dừa xiêm, măng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho ư niệm khát khao của con người v́ sự đầy đủ, sung túc.

12.-Tết Nguyên Đán và những nét đặc thù của Ngày Tết

   Ngày Tết ở đây tức là nói tắt Lễ Tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm), c̣n gọi là Tết Cả v́ thế to nhất. Các Lễ Tết trên có nơi tổ chức có nơi không, với nhiều h́nh thức nội dung khác nhau. C̣n Lễ Tết Nguyên Đán th́ khắp nơi trong cả nước, từ đầu núi đến cuối sông, từ thành thị đến nông thôn, từ biên cương đến hải đảo đều tổ chức gần giống nhau. Chỉ khác nhau ở mức sang nghèo của từng gia đ́nh hay các loại hoa quả, bánh trái, cơm nước của từng Vùng, từng Miền.

*-Tết Nguyên Đán trước hết là Tết của gia đ́nh. Theo tập quán, dầu ai bất cứ ở đâu, làm bất cứ nghề ǵ, hàng năm mỗi khi Tết đến cũng mong muốn tha thiết được trở về nhà sum họp gia đ́nh trong Ba Ngày Tết. Tết Việt Nam là ngày nhớ nhau, ngày hội đoàn tụ, đoàn viên ấm cúng.

*-Ngày Tết có những phong tục ǵ ?  Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ… Từ trẻ tới già ai ai cũng biết, sau đây là một vài phong tục đáng được duy tŕ phát triển:

*-Tống Cựu Nghênh Tân: Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngơ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, lau giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.

   Con cháu trong nhà từ phút giao thừa trở đi được nhắc nhở là không được nghịch nghợm, căi cọ nhau, không nói tục chửi bậy… anh chị, cha mẹ cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều tốt lành.

   Đối với bà con lối xóm dù trong năm cũ có điều ǵ không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích ǵ đều xúy xoá hết. Dầu có thực ḷng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ư ǵ trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau Phút Giao Thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành.

*-Hái Lộc, Xông Nhà, Chúc Tết, Mừng Tuổi: Ai cũng hy vọng Một Năm Mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm cũ. Nhiều nhà tự đi hái lộc ở Đ́nh, Chùa, Nhà Thờ, nơi tôn nghiêm về nhà, tự xông nhà hay dặn trước người nhẹ vía mà ḿnh thích đến xông nhà. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đ́nh người ta xảy ra chuyện ǵ không hay lại đổ tại ḿnh nặng vía. Chính v́ vậy, sáng Mồng Một ít khách đến nhà.

   Sau Giao Thừa có tục Mừng Tuổi Chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ cũng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời Chúc Tết thường là sức khoẻ, phát tài, phát lộc. Nh́n chung trong những ngày đầu năm, người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa.

   Phong tục Việt Nam Ngày Tết biếu quà, tỏ ân nghĩa t́nh cảm, học tṛ tết thầy giáo, cô giáo; bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ… quà biếu v.v…

*-Lễ Mừng Thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm Ngày Sinh, ở Việt Nam ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ, nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức Mừng Thọ Lục Tuần, Thất Tuần, Cửu Tuần… Ngày Tết cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.

   Cũng vào dịp đầu Xuân, người có chức tước khai ấn, học tṛ, sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, người buôn bán mở cửa hàng lấy ngày. Sĩ, Nông, Công, Thương - Tứ dân bách nghệ của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hanh thông, làm ăn suôn sẻ. Sau ngày Mồng Một, dù có mải vui Tết cũng chọn ngày Khai nghề, Làm lấy ngày. Nếu như Mồng Một tốt th́ chiều Mồng Một bắt đầu. Riêng Khai Bút th́ giao thừa xong, chọn giờ Hoàng Đạo không kể Mồng Một là ngày tốt hay xấu.

*-Cờ bạc:  Ngày xưa các gia đ́nh có nề nếp quanh năm cấm con cháu không được cờ bạc, rượu chè nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 29, 30; gia đ́nh quây quần bên nồi bánh chưng th́ người gia trưởng cho phép vui chơi. Tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm… ai thích tṛ nào chơi tṛ ấy. Đến Lễ Khai Hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết th́ xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm…

*-V́ sao có tục kiêng hốt rác đổ đi trong Ba Ngày Tết: Trong Sưu Thần Kư có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thuỷ thần cho một con hầu tên là Như Nguyên, đem về nhà được vài năm th́ giàu to. Một hôm, nhân ngày Mồng Một Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không hốt rác ngày Tết cũng v́ sự tích này. Trên đây là điểm qua Mười Một Lễ Tết trong năm.

   Cũng có rất nhiều vần thơ trào phúng liên quan đến Tết Nguyên Đán. Mỗi người Việt là một thi sĩ: Người Việt Nam chúng ta hầu như ai cũng có tâm hồn thi sĩ, không nhiều th́ ít và chuyện ǵ cũng làm thơ được, đặc biệt cho ngày Tết th́ vô số… kể! nhưng xin kể (giới thiệu) Bài thơ sau đây phản ảnh rơ nét những chuyện xảy ra trong năm.

Một năm chia mười hai kỳ.

Thiếp ngồi thiếp tính làm ǵ chẳng ra:

Tháng Giêng ăn Tết ở nhà.

Tháng Hai rỗi răi quay ra nuôi tằm.

Tháng Ba đi bán vải thâm.

Tháng Tư đi gặt, Tháng Năm trở về.

Tháng Sáu em đi buôn chè.

Tháng Bảy Tháng Tám trở về đong ngô.

Chín Mười cắt rạ đồng mùa.

Một Chạp vớ được anh đồ dài lưng.

Anh ăn, rồi anh lại nằm.

         Nguyễn Mạnh Thường - sưu tâm (nguồn Internet)

Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân

Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.

Xin Cầu Nguyện cho Quê Hương Việt Nam thoát ách cộng sản vô thần