MÙA XUÂN, T̀NH YÊU VÀ CHIẾN TRANH - NGÀY XUÂN TÁI NGỘ
|
|
Video NGÀY XUÂN TÁI NGỘ Sáng tác: Thanh Sơn Tŕnh diễn: Hà Phương và Mạnh Quỳnh |
MÙA
XUÂN, T̀NH YÊU VÀ CHIẾN TRANH
Sáng Mùng Một Tết, gia đ́nh bác, các cô chú và
gia đ́nh Măng tôi đồng tụ tại nhà ông bà
Nội. Một truyền thống của đại gia
đ́nh qua bao nhiều năm, kể từ khi tôi
bắt đầu có trí nhớ. Nghe kể lại, ông
Nội dậy sớm nhất
bước ra khỏi nhà, tự đạp đất
nhà ḿnh trước
khi tất cả con cháu đến chúc Tết. Gia đ́nh
nào đến
trước sẽ vào thăm bàn hoa quả bánh
mứt của Bà Nội ở nhà chính, hoặc đứng
ngoài sân chờ đợi, chuyện tṛ rộn ràng
với nhau trong khi những đứa con nít cùng trang
lứa tranh nhau chạy chơi
trong sân vườn
rộng lớn. Khi mọi gia đ́nh có mặt đầy
đủ, tất cả đồng kéo qua tập trung
truớc căn nhà riêng của ông Nội, nằm chéo góc
bên cạnh nhà lớn. Khi ông bà Nội
đồng an vị vào 2 chiếc ghế dựa lớn
để ngay ở cửa chính
được mở rộng, mặt mày rạng
rở trong áo gấm đỏ, lể Mừng Tuổi
bắt đầu bằng tràng pháo nổ tưng
bừng từ dây pháo dài treo trên cây. Riêng tôi bắt
đầu ngất ngây với tiếng pháo nổ chát
tai, xác pháo đỏ văng tung toé và mùi thuốc súng.
Trong không khí trang nghiêm của ngày đầu xuân, Bác
của tôi bao giờ cũng là
người đầu tiên mở đầu cho
buổi lể, khúm núm đứng
trước ông bà Nội nói to những lời chúc
mừng, trước
khi cả 2 vợ chồng cùng quỳ trên chiếu vái
lạy thân sinh. Tôi vẫn c̣n nhớ rỏ Bác tôi kêu
ông bà Nội bằng Thầy Mạ. Sau Bác là đến
phiên các chú các cô, bao gồm luôn cả rể và dâu,
trong đó có Măng tôi, cùng tiến đến quỳ
lạy Thầy Mạ. Bấy giờ, ông Nội mới
từ tốn ban lời mừng Tân Xuân cho từng
người con, cũng theo thứ tự, từ
con trai trưởng cho đến cô út. Sau thế hệ
con đến thế hệ cháu với mỗi gia đ́nh
theo thứ tự lần
lượt
bước vào chiếu hoa. Thông
thường
người con lớn nhất hiện diện
tại chổ đứng giới thiệu tên từng
đứa em trong gia đ́nh ḿnh với ông bà Nội
trước khi tất cả đều quỳ
lạy mừng tuổi ông bà. Ông Nội
thường hay hỏi từng đứa cháu
về chuyện học hành, gia cảnh nếu đă
lập gia đ́nh,
trước khi nói lời chúc đầu năm. Có
những năm, tất cả các cháu
được cho đứng sát với nhau và
đồng quỳ lạy chúc mừng ông bà Nội
một lần, sau khi một cháu lớn nhât đại
diện mở đâu lời Mừng Tết ông bà
Nội.. Kế tthế
hệ cháu đến thế hệ chắc, cùng quỳ
lạy chung một lúc trong khi chắc lớn tuổi
nhất trong đám nói lời cầu chúc ông bà Cố,
với sự nhắc lời, trợ giúp của bậc
cha mẹ bên ngoài. Trong những cái Tết
trước khi ông Nội tôi mất vào năm
1962, ông bà Nội tôi đă có trên cả chục đứa
chít. Xong lể
mừng tuổi ông bà Nội, các
người con cùng dâu rể
bước đến gần tṛ chuyện thân
mật hơn,
rót trà rượu
đưa
mời Thầy Mạ của ḿnh. Đó là lúc tôi thoáng
thấy các phong b́ đỏ
được đưa
vào tay ông Nội và cả bà Nội. Sau đó, Bà
Nội mới thủng thỉnh mời tất cả
mọi người
vào nhà lớn
thưởng thức các món Tết. Tôi nh́n
thấy đủ loại mứt, từ mứt hột
sen, mứt thơm,
mứt dừa, mứt gừng, mứt măng cầu,
mứt kim quật, mứt khoai, mứt củ sen, đậu
phụng ngào, hột dưa…cho
đến các món mặn như
nem, chả heo, chả ḅ, chả thủ, tré, thịt
quay, gà nấu đậu, vịt nấu măng khô,
cải xanh nấu với gị heo, xôi lập
xưởng & tôm khô, xôi gấc, rồi bánh tét
dưa món,
bánh tét chiên, củ hành dầm
nước mắm, củ kiệu, bánh chưng,
bánh su sê, bánh thuẫn, bánh bột nếp, bánh hột
sen và đậu xanh cái tṛn cái vuông gói trong giấy
kiếng nhiều màu sặc sở…Bao nhiêu món ngon
vật lạ dọn bày trên mấy cái bàn khiến tôi
nh́n vào thấy no mắt, và no luôn cả bụng v́ măi
ham rượt đuổi nhau bên ngoài. Bao nhiêu hương
vị ngọt ngào, hiếm quư và cổ truyền
của một cái Tết Âm Lịch do chính tay bà
Nội làm cùng các
người con trong gia đ́nh đem đến
từ ngày hôm
trước. Khi lớn hơn
và ở xa hơn,
tôi cũng đă từng đạp xe đạp đem
đồ Tết của nhà ḿnh đến biếu ông
bà Nội. Buổi ăn
chấm dứt, đại gia đ́nh xúm xít lập ṣng
chơi
đổ tam hường,
chơi bài
cartê (5 lá bài), bài x́ lắc, tứ sắc, bài xịp…Tiếng
la hét của
người hên bạc kẻ thua tiền, tiếng
reo ḥ vui cười,
chọc ghẹo ḥa cùng với tiếng xoang xoảng
của những con súc sóc đổ trong tô sứ,
tiếng pháo lẻ nổ đ́ đùng
ngoài sân từ lũ con nít chúng tôi làm không khí Mùng
Một Tết thêm hào hừng. Sau phần chúc Tết ông
bà Nội, các gia đ́nh lần
lượt kéo nhau đến đạp đất
từng nhà một, nhà Bác
trước rồi đến nhà các cô, chú,
lập lại màn chúc Tết nhau, rồi ăn uống,
và ĺ x́ cho con nít. Truyền thống này vẫn tiếp
nối dù sau này chỉ c̣n có bà Nội, vẫn trang
trọng và ấm cúng dù mức độ nhỏ hơn
v́ số con cháu thưa
dần với các anh chị con bác và cô chú v́ sinh
kế, lập gia đ́nh và đi học nơi
xa nên khó về. Đó là
những năm tháng thanh b́nh tại Huế, nơi
tôi được
nuôi dưỡng,
lớn lên và đến
trường,
trước cuộc Cách Mạng tháng 11 năm 1963.
Tiếp theo là những năm của phong trào sinh viên
Phật Giáo tranh đấu bạo động, những
chỉnh lư chính trị ở trung ương,
sự hiện diện của quân đội Mỹ đưa
đến những biến động trong quần chúng
và dấu hiệu leo thang dần của chiến
cuộc, nhất là vào năm cuối của tôi ở
Trung Học và năm đầu tiên ở Đại
Học. Tuy nhiên, do ở thành thị, đa số
học sinh sinh viên như
chúng tôi vẫn thờ ơ
hưởng thụ, vẫn ngây thơ
với sách vở, chưa
hề có khái niệm chính chắn về cuộc
chiến dù có theo dỏi tin tức chiến sự, dù
nh́n thấy lính tráng xe tăng máy bay, hay có bà con ḿnh
ở trong quân đội hoặc thỉnh thoảng
nghe tin người quen nầy tử trận,
người bà con kia bị thương…
Chúng tôi vẫn nghĩ cuộc chiến xa lạ này không
phải của ḿnh và đang xẩy ra ở miền quê
hay núi rừng xa xôi, hay tại những địa danh
hẻo lánh. Cho đến Tết Mậu Thân, 1968. Đúng vậy.
Có ai ngờ quân CS đă mưu
mô xé lệnh hưu
chiến, đem chiến tranh đến tận các thành
phố trong những ngày thiêng liêng đất
nước trongTết năm 1968. Biết bao nhiêu
người đă sống lo âu sợ hải khi nh́n
thấy chiến tranh với bom đạn và chết chóc
đến ngay tận làng xóm ḿnh, ngay tận nơi
nhà ḿnh? Đă nh́n thấy cảnh đổ nát kinh hoàng
của thành phố, đă bị kẹt giữa hai
lằn đạn? Đă chứng kiến sự dă man tàn
ác của phe gọi là giải phóng? Có bao nhiêu
người là chứng nhân cho sự thảm sát
Tết Mậu Thân tại Huế
khi người thân trong gia đ́nh,
người quen trong khu phố bị giết
chết, bị bịt mắt đem đi thủ tiêu,
bị tra khảo, đập vào đầu
trước khi bị xô xuống khe suối hay
bị cột chùm chôn sống với 2 tay bó chặt đàng
sau lưng
bằng giây điện thoại? Ở đâu ra
những hố chôn tập thể tại
trường Gia Hội, G̣ Cát, Băi Dâu, Tây Lộc,
Phú Thứ, Đá Mài…? Và biết bao ngàn
người đă ai oán khóc trong căm hờn và
đă chít khăn tang? Biến cố
Tết Mậu Thân 1968 xẩy ra khi tôi đang học
giữa năm Thứ Nhất
Trường Y Khoa Huế.
Vào đêm 30, gia đ́nh 3 người
Măng tôi, chị
tôi và tôi đang ở trong căn pḥng lớn trên
lần 3 của
trường Đồng Khánh, có cửa sổ
lớn phía sau nh́n về Lao Thừa Phủ ở sau
lưng Toà Hành Chánh Tỉnh.
Đêm ấy, chúng tôi thức khuya chuẩn bị
các món Tết cho ngày Mùng Một. Vào giao thừa,
tiếng nổ xa xa của pháo Tết
nghe hơi khác thường và càng lúc càng dồn
dập chen với những tiếng nổ lớn hơn.
Vài giờ sau, tôi nghe tiếng
chân người chạy th́nh thịch trên thang
gổ bên ngoài pḥng, rồi hàng loạt tiếng súng
nổ chan chát, cùng với tiếng súng bắn trả
từ Lao Thừa Phủ
trúng vào tường và cửa sổ căn pḥng
chúng tôi khiến tiếng dội nghe ghê rợn và mănh
gổ văng tung tóe. Chúng tôi nằm
yên trên sàn nhà, dưới bộ ván dày, tránh gây
tiếng động, đọc kinh cầu nguyện. Qua
ngày hôm sau, khi tiếng súng lắng dịu, tôi rón rén ḅ
đến cửa sổ
phía trước, nh́n xuống
sân trường Đồng Khánh. Cả trăm lính
VC, với nón cối và quân phục màu xanh lục,
đang đóng quân, đào hầm, đặt súng
lớn trên bải cỏ,
hay dưới các gốc
cây phượng. Biết không thể làm ǵ hơn,
gia đ́nh tôi đành
mở cửa đi xuống lầu, mang theo chút áo
quần và thức ăn Tết
như bánh tét, và đến tạm trú trong pḥng
học cùng với những gia đ́nh quen thuộc
khác trong trường
và sau đó những gia đ́nh dân từ Bến
Ngự hoặc Ga chạy đến. Tôi nhận
thấy đơn
vị CS đóng ngay đây có lẻ chính quy, với
đa số lính nói giọng Quảng B́nh. Nhiều toán
lính đi đi về về, cáng theo hàng loạt đồng
đội tử thương
và bị thương.
Có lẽ trường
ĐK nằm giữa mặt trận, nên tiếng súng
nhỏ lớn nghe liên tục, khi từ
hướng bờ sông Hương,
khi từ hướng
đường Lê Lợi của Ṭa Hành Chánh
Tỉnh. Các khẩu súng pḥng không
thường xuyên bắn nổ rền trời
nhắm vào những chiếc trực thăng bay trên cao.
Mức độ trận chiến có vẻ dữ
dội trong suốt gần cả
mười ngày. Cho đến sau một đêm
bổng dưng
hoàn toàn yên tỉnh, sáng hôm sau khuôn viên
trường ĐK hoàn hoàn vắng lặng, không
một h́nh bóng của
người lính CS, họ đă rút đi lặng
lẻ trong đêm.
Đến trưa
toán lính TQLC Mỹ tiến dần về phía chúng tôi,
giải tỏa hoàn toàn
trường ĐK và
hướng dẫn tất cả mọi
người di tản về
hướng an toàn. Liền sau đó,
nhóm chúng tôi gồm chừng bốn năm chục
người im lặng dắt
nhau bước đi thật vội trên
đường Lê Lợi
hướng về
trường Kiểu Mẫu,
dưới bầu trời xám xịt có mưa
phùn. Cũng
con đường hàng ngày tôi
thường qua lại bao nhiêu lần nay trông
thật điêu tàn và xa lạ, im lặng một cách rùng
rợn và phản phất mùi tử khí. Bên kia sông Hương
và cột cờ, khung cảnh vẫn mờ dại trong
mây mù. Chiến tranh đang thực sự ở
trước mắt và xung quanh tôi, với hiện
trường y như
trong cảnh phim. Lá cây và cành cây gảy tràn ngập
lối đi. Đây đó những cột đèn
và thân cây nằm nghiêng ngữa, như
muốn che đậy những xác chết, quân có dân có,
ta có địch có. Có những xác nằm ngay trên
mặt
đường, bên lề
đường. Có những xác nằm sấp hay
cong queo trong các hầm cá nhân
dưới các gốc cây, nhất là ở gần
phía bờ sông. Rải rác đây đó là xác xe Jeep, xe
cứu thương
dân sự và các xe honda, lổ chổ vết đạn
với xác người
bên cạnh. Nhiều biệt thư
to lớn trên
con đường bị đổ nát, hư
hại nặng. Khi đến gần khu Morin, tôi lặng
người nh́n thấy cầu
Trường Tiên bị gảy một nhịp.
|
Và
tôi thấy chiếc cầu găy nhịp Trong
tiếng bom khói lửa chiến trường Ḍng sông yêu ḍng sông máu đỏ Áo em màu trắng áo tang thương (1) |
Sau vài ngày
tạm trú ở
trường Kiểu Mẫu, khi biết tin gia đ́nh
người tôi yêu đang lánh nạn tại Ḍng
Chúa Cứu Thế, tôi tức tốc t́m đến thăm
dù đường
đi c̣n vắng hoe, nguy hiểm với dấu tích tàn
phá và chết chóc hai bên
đường…chỉ để kịp nh́n
gặp nàng vài ba phút, thăm hỏi đôi ba câu
trước khi nàng vội vă quay vào với gia
đ́nh. H́nh ảnh xanh gầy của nàng với đầu
tóc ngắn thân thuộc trong một buổi sáng đầy
gió lạnh và mây xám trên trời măi măi ám ảnh tôi
từ dạo đó. Nàng là một cô
bé nhỏ nhắn mặc áo đầm vàng đi
dạo cùng Mẹ và các em trong công viên
trước
trường Đồng Khánh tôi đă t́nh cờ
nh́n thấy trong một chiều óng ánh đầy
nắng vàng vào cuối hè 1967. Vài ngày sau tại nhà tôi,
tim tôi đập lổi nhịp đầy thích thú khi
gặp chính cô bé đó đem bánh của Mẹ làm
đến biếu “Bà Vú”, tiếng nàng gọi Măng
tôi, v́ Măng tôi là Vú Đở Đầu cho Mẹ nàng
khi Ba Mẹ nàng làm đám
cưới. Đây cũng là nhân vật trong
bức ảnh gia đ́nh, một món quà tặng của
Mẹ nàng cho Măng tôi từ bao năm
trước,
được treo trên
tường, gần bàn học của tôi. Mỗi
khi nh́n đến, tôi
thường liên
tưởng rằng có ngày tôi sẽ có
được nàng, như
một ám ảnh, một
ước mơ
thầm kín. Một nguyện cầu vu vơ.
Dù bấy giờ nàng chỉ là một cô bé tuổi 13,
đang học lớp Đệ Ngũ
trường ĐK. Do sự quen
biết giữa 2 gia đ́nh, thỉnh thoảng tôi đến
thăm nàng tại nhà, làm quen với gia đ́nh và chơi
đùa
với các em nàng, ngoài sân
trước, trong pḥng khách, hay
dưới nhà bếp. Nhờ đó tôi có dịp
nh́n thấy nết đoan trang và sự chu đáo
của nàng khi phụ giúp Mẹ săn sóc các em. Có
một lần, ngồi dựa lưng
trên thành cửa sổ nhỏ pḥng nàng, tôi hát bài Mưa
Hồng v́ tôi thích câu “cuộc đời đó có
bao lâu mà hững hờ”, do xúc động giọng
của tôi xuống thấp không hát tiếp
được, nàng im lặng không dám
cười, nhưng
tôi can đảm xin hát lại lần thứ hai. Khi một
phần nhỏ của Hữu Ngạn Huế vừa
được giải tỏa, và Bệnh Viện
Huế vẫn c̣n bỏ trống, cùng với vài đàn
anh trong YKhoa, chúng tôi t́nh nguyện phụ giúp ngày đêm
một BS. giải phẩu
người Mỹ từ Đà
Nẳng
được trực thăng chở thẳng
đến Bệnh Viện. Đó là thời gian tôi
đă nh́n thấy, tiếp thu học hỏi nhiều
nhất khi trực tiếp làm việc
dưới sự điều động của YS.
Thiếu Tá Thomas Herod cùng với các đàn
anh. Từ cách nhận bệnh nhân cả quân sự
lẫn dân sự với các vết thương
chiến tranh, săn sóc họ, chuyền
nước biển
trước khi khiêng họ vào pḥng mổ, đưa
lên bàn mổ rồi khiêng về
giường bệnh sau mỗi ca giải phẩu
hoàn tất, giúp rửa sạch các vết thương
trước khi băng bó, theo dỏi t́nh trạng
hậu giải phẩu, lau chùi pḥng mổ, lau chùi và
hấp dọn các dụng cụ giải phẩu,
phụ đưa
dụng cụ trong pḥng mổ … Toán
7-8 người chúng tôi ngủ ngay sát bên pḥng
giải phẩu, kể luôn cả một chị y tá
chuyên đánh thuốc mê, tự nguyện làm tất
cả những công việc cần thiết, từ y công
cho đến y tá, cùng chia nhau tâm trạng vui buồn
theo diễn tiến tốt hay xấu của các bệnh
nhân và chia nhau phần lương
khô C Ration. Bẳng đi cũng
vài ba tuần hăng say phụ giúp trong bệnh viện,
tôi không đến nhà cô bé dù ḷng luôn
hướng về nàng. Măi cho đến khi t́nh h́nh
an ninh Huế tốt dần, bấy giờ tôi mới
đến thăm nàng
được vài lần, kể vội cho nàng
nghe một vài câu chuyện trong pḥng mổ, những
điều tôi học hỏi
được hay môt vài cảnh khổ của
người dân bị thương
tật. Bao giờ nàng cũng chỉ im lặng ngồi
nghe, hiếm khi có thêm ư kiến trong câu chuyện. Vào
cuối mùa Xuân 68, đến ngày kề cận phải
rời Huế vào Saigon học tiếp nữa năm c̣n
lại, tôi lấy hết can đảm viết cho nàng
một lá thư
không viết nháp, không soạn thảo, không nắn nót,
không trau chuốc, nghĩ sao viết vậy. Đó là lá
thư t́nh
đầu đời và duy nhất của tôi. Ngang tàng,
mang tính cách hài
hước nhưng
rất chân thật, không có giọng ch́u lụy, van xin
t́nh cảm. Dĩ nhiên thư
tôi không
được hồi âm. Trong suốt mùa
hè năm 1968, sau khi từ Saigon trở về Huế
để tham dự chương
tŕnh Huấn Luyện Quân Sự Học
Đường, tôi tiếp tục đến thăm
và đưa
những đoản văn cho nàng, không phải thư
t́nh, mà những bài viết của tôi bày tỏ quan
điểm yêu thương
đất nước,
mang tính chất hào hùng của người
trai, hoặc những bản dịch ra tiếng Việt
từ những bài hay trong cuốn Les Grand Coeurs mà
hầu như
tôi nằm ḷng khi học trung học chương
tŕnh Pháp. Tuy về sau tôi biết có bản dịch
tiếng Việt là Những Tâm Hồn
Cao Thượng, tôi vẫn không nghĩ ḿnh đă
phí công khi những bản dịch thuật của ḿnh
gián tiếp chứng minh tính cương
trực và long chân thành của tôi. Nhưng
ở nàng vẫn là một im lặng…đáng sợ! Sau hè 1968, tôi lại rời Huế vào Saigon học tiếp năm thứ Hai YK. Vài ngày trước Tết năm 1969, từ Saigon về Huế thăm nhà, Măng tôi cho biết gia đ́nh nàng sẽ rời Huế trong vài ngày sau Tết v́ Ba nàng nhận nhiệm sở mới ở Nha Trang. Tôi suy nghĩ và quyết định không đến thăm, nói lời tạm biệt với nàng, dù ngậm ngùi cảm giác cuộc t́nh đang xa dần. Tôi quyết định chờ đợi, cho ḿnh chính chắn hơn. Cho một thời cơ thuận tiện tốt đẹp. Hay để cho nàng lớn thêm hơn vài tuổi!?
|
|
Mấy
năm sau biến cố Mậu Thân, chiến tranh leo
thang dần. Biết bao đồng môn,
người thân quen nhận giấy tờ tŕnh
diện nhập ngũ. Lớp học vắng dần
những khuôn mặt quen thuộc sau mỗi tựu
trường. Truyền h́nh, tin tức, báo chí
nhắc đến những trận chiến càng ngày càng
khốc liệt, tên của những trận đánh như
Ben Hét, Khe Sanh, Dak Tô, Pleime, Đức Cơ,
Đồng Xoài…dần dần đi vào ḷng dân.
Chị thứ ba của tôi bỏ học dù đang là
sinh viên năm cuối của phân khoa CTKD của ĐH Đà
Lạt, và quyết định lấy chồng là
Tiểu Đoàn
Trưởng TĐ11 BĐQ khi tiểu đoàn đến
giải toả thị xả Đà
Lạt trong vụ CS tấn công vào Tết Mậu Thân.
Lần chị đem
người yêu về tŕnh diện gia đ́nh, tôi
thích anh liền. Không những v́ anh cao ráo và điển
trai mà anh trông rất điềm đạm và thật
hào hùng trong bộ đồ rằn ri. Có lẻ cũng
từ đó tôi có suy nghĩ nếu muốn lấy
cảm t́nh một người
đẹp, chắc tôi phải tạo cho ḿnh một h́nh
ảnh sắc đá oai hùng của một chàng trai
đúng nghĩa của thời chiến. Đúng với
h́nh ảnh “Em là gái trong khung cửa, Anh là mây bốn
phương
trời…” Do sự đổ
nát điêu tàn của thành phố Huế trong Tết
Mậu Thân, Chính Phủ trung ương
thành lập ủy ban trùng tu và tái thiết Huế
để xây dựng lại các cơ
sở bị tàn phá cũng như
để tạo thêm niềm tin cho dân Huế nói riêng
và toàn dân
trong nước nói chung. Linh Mục Cao Văn
Luận, trước
đây là Viện
Trưởng viện ĐH Huế, nhận lănh trách
nhiệm khó khăn đó. Khoảng gần cuối tháng
2 của mùa Xuân 1970, nhà văn Nhă Ca, từ một phái
đoàn đến thăm Huế, ghé đến
trường Đồng Khánh trong một ngày mưa
và lạnh, tặng hai trăm ngàn đồng
cho trường xây dựng lại pḥng thí
nghiệm hóa học và vạn vật bị hư
hại nặng. Hồi đó tôi vẫn ở
trong trường với Măng tôi nên đă
chứng kiến cảnh Chị khoát
tay người em gái là học sinh tại
trường đi
dưới mưa
với bà Hiệu
Trưởng và cô phụ tá giữa rừng
vỗ tay cám ơn
ngập trời của các học sinh toàn
trường. Qua ngày hôm sau, Nhă Ca đến
trường YK Huế của tôi, cũng trao
tặng hai trăm ngàn đồng trong một buổi
lể đơn
sơ nhưng
trang trọng gồm có sự hiện diện của
GS. Khoa Trưởng, ban Giáo Sư,
ông Tỉnh Trưởng
và một số thân hào nhân sĩ cùng đại
diện Sinh Viên YK. Thật là
một cử chỉ cao quư đáng khâm phục,
nhất là sau đó tôi
được biết nhà văn nữ này đă
chia sẻ tiền bán sách “Giải Khăn Sô Cho
Huế” của ḿnh giúp đở xứ mẹ. Nhưng
không phải v́ vậy mà cuốn sách trở thành
nổi tiếng ở Huế và toàn quốc. Mà chính do
nó lột tả
được sự thật của thảm
trạng, tư
thù, ân oán, dă man của những cá nhân vốn nằm
vùng và những cựu sinh viên trốn vào rừng nay
trở về không ngần ngại gieo máu lửa,
giết đồng loại cho dù không cùng một
trận tuyến một cách không gớm tay, bằng
sự thảm sát hàng ngàn
người dân vô tội, kể luôn cả chôn
sống 4 vị GS. YK người
Đức của
trường YK trong sân chùa
Tường Vân. Và cũng từ đó, khi
nhắc đến biến cố Mậu Thân 68 hầu
như ai
cũng biết “Giải Khăn Sô Cho Huế”. Một
đề tựa quá chính xác nhân chứng cho nguyên
một thành phố thân yêu phải chịu tang. Tôi và nàng
vẫn kẻ ở Huế,
người Nha Trang. Không một thư
từ, không một trao đổi tin tức. Tôi vẫn
tiếp tục lên lớp cao dần ở
trường YK và gián tiếp theo dỏi tin
tức nàng đang ở những năm cuối trung
học. Sau gần 3 năm xa cách nàng, tôi tự hỏi
ḿnh nhiều lần đây có phải là t́nh yêu??
Người
ta thường nói cách mặt xa ḷng! Dù là t́nh yêu
một chiều, t́nh tôi không nhận thêm nuôi
dưỡng nào ngoại trừ những nhung
nhớ, những kỷ niệm và những hoài bảo!?
Trong tôi, càng muốn quên th́ lại càng quay quắc
nhớ. Càng muốn chôn vùi kỷ niệm hiếm quư bên
nàng th́ h́nh bóng nàng càng càng khắc ghi sâu đậm.
Càng xa vắng nàng lại càng nhận hiểu trái tim tôi
chỉ biết nhung nhớ một ḿnh nàng. Thế
mới biết “kỷ niệm vẫn c̣n là ḷng
vẫn c̣n yêu”! Thế mới biết “yêu là
mộng mơ-
yêu là sầu nhớ”! Dù không một
tin tức trực tiếp của nàng, tôi vẫn
quyết định đến thăm nàng vào mùa Xuân
1972 khi nàng đang theo học năm thứ Nhất khoa
CTKD ở Đại Học Đà
Lạt.
Này tư tưởng
có linh chăng tá Trở
về đây cho thỏa ḷng chờ Trở
về cảnh cũ lối
xưa Cho cung cầm khỏi ngẩn ngơ tiếng đàn
|
Tôi
đến
Đà Lạt với
tư cách một cộng sự viên của Sinh Viên
Vụ quay phim chụp h́nh cho phái đoàn
SV Viện Đại Học Huế tham dự Đại
Hội Thể Thao Liên Viện
do ĐH Đà Lạt đứng ra tổ chức.
Đến nơi,
tôi trao hết đồ nghề cho một bạn
khác, và trong suốt 3 ngày liên tục của Đại
Hội, tôi không làm ǵ hơn
ngoài việc t́m thăm
nàng, người
tôi yêu và đeo đuổi trong nhiều năm
qua, từ Huế
vào đến Nha Trang
và nay Đà Lạt.
Sáng tôi đón nàng ở Kiêm Ái, chiều đến
tôi trả nàng về lại
cư xá. Nàng và tôi đă đi bộ
qua bao con đường quanh thị xă, cùng
ngồi chuyện tṛ ở sân Cù trong nắng ban mai,
ngắm Hồ
Xuân Hương, dạo phố Ḥa B́nh, đưa
nhau đi ăn sáng, ăn trưa, ăn tối…Với
tôi, đó là 3 ngày hạnh phúc nhất trong quăng
đời, dù ngắn ngủi,
nhưng đă ghi sâu trong tim tôi những kỷ
niệm đậm
đà không hề
phai. Ba ngày le lói bên nàng, để bù lại, thêm
một lần nữa,
trên 3 năm “bonjour tristesse” khi ở
nơi xa, tôi chỉ cầu mong nàng trong những “đêm
mai cô đơn đi về,
xin người hăy nhớ t́nh tôi.” Vào
các mùa Xuân năm 1971,1972, chiến tranh sôi động
với các chiến dịch Toàn Thắng 42 đánh qua
Mỏ Vẹt,
Lưỡi Câu, đến sát hang ổ của
Cục R ở Cao Mên, với cái chết của
Tr. Tướng Đổ Cao Trí, vị
tướng quân mà trên ngôi mộ có mang hàng
chử “sống giữa ba quân, chết giữa ba quân”;
chiến dịch Lam Sơn
719 hành quân vào Hạ Lào, với những tên quen
thuộc như
Đồng Hà, Khe Sanh, xa lạ như
Đường số 9, Bản Đông, Tchepone,
Đồi 31, Đồi 30 với bản nhạc
bất hủ “Anh Không Chết Đâu Anh”; Không Quân
Mỹ xữ dụng
thường xuyên B 52 bên cạnh kế hoạch
từ từ rút quân và Việt Nam hóa chiến tranh.
Giữa mùa Xuân 1972, CS
vượt vĩ tuyến và tấn công vào Đồng
Hà và Quảng Trị và đồng thời mở
rộng chiến tranh ở Bắc Tây Nguyên và Miền
Đông Nam của vùng III bao gồm Lộc Ninh, B́nh Long,
với trận chiến “B́nh Long Anh Dũng, An Lộc
Kiêu Hùng”; trận thư
hùng của BĐQ ở đồi Chu Pao để
lại nhân gian câu thơ
khí khái “Chu Pao ai oán hờn trong gió- một chiếc khăn
tang một tấc
đường”, trận tử chiến Đồi
Charlie của TĐ 11 ND với bản nhạc hào hùng
ghi ơn
“Người ở lại Charlie”, và sau đó Tân
Cảnh, sân
bay Phượng Hoàng, Ben Hét và… Hai
tuần trước
khi Quảng Trị rơi
vào tay giặc thù vào cuối mùa Xuân, 1972, một
số anh em của
trường YK Huế, trong đó có tôi, t́nh
nguyện ra phụ giúp cho BV Quảng Trị trong 10 ngày.
Thêm một lần nữa tôi đă xúc động khi
thấy
được sự tàn khốc của chiến
tranh gây ra bởi quân xâm
lược CS qua những vết thương,
lổ đạn trên cơ
thể của các bệnh nhân. Đó là chưa
kể về sau là những h́nh ảnh và câu chuyện
đau ḷng của hàng ngàn người
vừa dân vừa quân bị phơi
thây v́ pháo và phục kích không thương
tiếc trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” khi
trốn chạy về
hướng Nam. Rồi đến phiên
người dân Huế, trong đó có cả Măng
tôi vừa kịp đến tuổi về hưu,
quá sợ v́ đă chứng kiến việc giết
người, chôn
người không gớm tay của bọn VC trong
Mậu Thân, tức thời bỏ Huế ra đi không
chần chờ. Ngồi trên lầu của Câu Lạc
Bộ Thể Thao, mấy anh em chúng tôi trong nhóm SV YK t́nh
nguyện ở lại phục vụ BV Huế, nh́n
cảnh người
bồng bế chen lấn, xe cộ nối đưôi
nhau đông như
kiến trên cả 2 cầu
Trường Tiền và Hương
Giang trong suốt một ngày trời mà ḷng quặn
đau, xót xa cho dân
nước ḿnh.
Vào khoảng cuối tháng 5, 1972, Quân Đội
VNCH bắt đầu đổ quân về Huế
chuẩn bị cho việc tái chiếm Quảng Trị
với trận chiến rất dữ dội và đẩm
máu kéo dài gần cả 2 tháng với sự tham dự
của nhiều đơn
vị thiện chiến bao gồm toàn bộ 2 Sư
Đoàn ND & TQLC, LĐ 81 Biệt Kích Dù, các liên đoàn
BĐQ, Kỵ Binh Thiết Giáp, Pháo Binh, Không Quân…cho
đến ngày 16 tháng 9, 1972, lá cờ vàng ba sọc
đỏ chính thức phất phới trên nền
trời tự do tại Cổ Thành Quảng Trị trong
tiếng vang dậy của cả
nước qua các bản hùng ca “Cờ Bay, Cờ
Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị” và “Trên Đầu
Súng Ta Đi”. Cũng vào thời điểm, không quân
Mỹ bắt đầu gia tăng đánh phá Miền
Bắc, nhất là vào cuối năm với B 52 trải
thảm bom ngay tại Hà Nội, như
một áp lực lên đàm
phán ḥa b́nh đang diễn ra ở Paris.
Chiến tranh Việt
Nam bước qua một giai đoạn khác sau khi
Hiệp Định
Paris được kư kết vào tháng Giêng 1973,
nối tiếp là những đơn
vị quân đội Mỹ lần
lượt rời VN, và những trao trả tù binh.
Tôi có mặt trong phái đoàn sinh viên tham dự lần
trao trả tù b́nh Việt Nam tại sông Thạch
Hản vào giữa mùa Xuân 1973. Nh́n thấy trên cả
ngàn tù binh Bắc Việt
được nuôi ăn nuôi mặc sạch
sẻ chỉ để đổi lấy có vài trăm
quân nhân của ta xơ
xác, yếu ốm…mới hănh diện nh́n thấy ḷng
nhân đạo và tinh thần đánh giặc cao
thượng của VNCH, ngay cả trong cách cư
xữ với tù nhân chính trị hay tù binh chiến tranh.
Một sự thật măi sau này tôi mới càng thấm
thía khi ở trong trại tù cải tạo CS.
Tưởng như
cuộc chiến sẽ tốt đẹp hơn
sau Hiệp Định Paris. Không ngờ chỉ sau vài tháng
tạm yên tỉnh, CS leo thang dấy lại cuộc binh
đao, quyết tâm dồn mọi sức lực tấn
công Miền Nam trong tư
thế thượng
phong với toàn bộ chủ lực quân vẫn nằm
ém tại Miền Nam, chiếm đất dành dân,
lợi dụng thể chế tự do dân chủ
của Miền nam để xúi dục các thành phần
thứ Ba biểu t́nh, các nhóm dân biểu đối
lập liên tục gây áp lực đă phá chính
quyền, các linh mục “tiến bộ” như
Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương
Bá Cần, Phan Khắc Từ… công khai gián tiếp
nối giáo cho giặc. Chiến cuộc dần xoay
chiều và có vẻ bất lợi cho phía ta. Chính
trong bối cảnh điên đảo này, tôi tốt
nghiệp YK tháng 6, 1973, sau 7 năm miệt mài với sách
vở, luôn mang trong ḷng một bầu nhiệt huyết
với đất
nước, sẳn sàng lên
đường làm nhiệm vụ bất cứ nơi
đâu, bất cứ trong vị trí nào khi đất
nước kêu gọi. Song song với bổn
phận trai thời loạn, tôi vẫn giữ kín trong ḷng
niềm mơ
ước có ngày tôi sẽ trùng phùng với
người tôi vẫn măi yêu thương
và nhung nhớ, dù cho nàng ở xa ngoài tầm với, như
một thôi thúc diệu kỳ và mănh liệt không
dứt trong tâm
tưởng.
Sau 6 tháng làm việc tại
trường YK trong bộ môn giải phẩu, tôi
nhận giấy tờ nhập ngũ vào cuối năm
1973 và tŕnh diện vào đầu năm 1974 tại Trung
Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ ở Saigon, nằm
ngay đường
Tô Hiến Thành, gần Cư
Xá Sĩ Quan Chí Ḥa nơi
Măng tôi dọn đi từ
trường ĐK Huế vào trong thời điểm
của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. V́ lứa chúng tôi
đă có học qua chương
tŕnh Quân Sự Học
Đường trong 2 mùa hè liên tiếp của
1968/69, nên sau khi nhập ngũ, nhận số quân và
trang bị tối thiểu, chúng tôi tự gắn lon Tr.
Úy lên 2 cầu vai và đi thẳng về ghi danh ở Trường
Quân theo học khóa 16 YND Trưng
tập gồm hơn
160 học viên. Sau vài tuần học tại đây, chúng
tôi được
tin Hải Quân VNCH vừa đánh một trận hải
chiến với Trung Quốc tại quần đảo
Hoàng Sa vào ngày 19, tháng Giêng 1974. Tinh thần yêu
nước trong chúng tôi có dịp dâng cao hơn
nữa. Ngày tốt nghiệp khóa 16 Trưng
Tập, v́ có chủ ư
trước, tôi chọn Quân Y Nhảy Dù không
một do dự, liền ngay sau
người bạn thân Bùi Cao Đẳng. Tất
cả chúng tôi gồm
9 người trong đó có 7 BS là Bùi Cao Đẳng,
Lê Quang Tiến, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Thành
Liêm, Nguyễn Đức
Vượng, Nguyễn Tấn Cương
và tôi, NS Tùng và DS Khánh, đồng tŕnh diện TĐQYND
và theo học khóa Dù cùng lúc với nhau.
Gần 2 tháng tập luyện, rèn dũa thể xác,
thách thức sức chịu đựng và vượt
qua sự sợ hải tại Trung Tâm Huấn Luyện
Nhảy Dù với 7 sauts, kể cả 1 saut nhảy đêm
và 1 saut nhảy trận với đầy đủ quân
trang súng ống đạn
dược, cuối cùng tôi
được trao nhận Bằng Dù. Cầm
Bằng Dù trong tay, tôi thật sự xúc động và
hănh diện, biết ḿnh đă
qua được một giai đoạn quan
trọng của đời
người lính chiến trong rèn luyện thể xác
vững mạnh, trong chuẩn bị và xây dựng
bước đầu của tinh thần Nhảy Dù
Cố Gắng trước
mọi hoàn cảnh thách đố cũng như
tạo cho ḿnh niềm tự tin, sự tự hào
bắt buộc có của một Thiên Thần Mũ
Đỏ. Chưa
kịp ăn mừng với nhau về bằng Dù
gắn trên ngực ngày hôm
trước th́ ngay ngày hôm sau, nhóm chúng tôi
được điều động ra Đà
Nẳng tŕnh diện
Tướng Lê
Quang Lưỡng, Tư
Lệnh SĐ Dù và Th.Tá Trần Đức
Tường, TĐT/ TĐQY ND tại Bộ Chỉ
Huy Tiền Phương
ở căn cứ
Non Nước. Vào đầu tháng 7, 1974, tôi chính
thức trở thành một y sĩ tiền tuyến khi
nhận lănh trách nhiệm làm Y Sĩ
Trưởng cho TĐ1ND. Như
con chim nhỏ
được mẹ dắt d́u tập những
đập cánh đầu tiên, tôi
được TĐ1ND thân mến ôm choàng, che
chở và giúp tôi mở rộng đôi cánh Thiên
Thần bay vút vào bầu trời đầy lửa
đạn, để từ đó dấn thân vào nơi
chinh chiến cùng với đơn
vị lừng danh hàng đầu này trong suốt
trận đánh
Thường Đức & Đại Lộc và
Đồi 1062. Trên
bước
đường chinh chiến với TĐ1ND, tôi
quen dần với những di hành trong im lặng
tuyệt đối quanh co trên các
sườn đồi hay trong rừng rậm, quen
dần với những dừng quân ngắn, những
đóng quân nhanh gọn qua đêm,
những vui đùa
với binh sĩ. Tôi cũng quen dần với mức
độ trận chiến càng lúc càng dữ dội,
với những trận pháo 3 cữ mỗi ngày, với
những cơn
mưa
rừng suốt tuần, những ly cà phê pha với
đế, những điếu thuốc chia nhau hút chung
và đi ngủ với giày saut
dưới chân và áo quần trận ướt
trong tư
thế sẳn sàn tác chiến bất cứ lúc nào. Và
quen dần với những tiếng rè rè suốt đêm
của máy vô tuyến, những tiếng lóng truyền
tin. Rồi phân biệt
được
hướng của pháo ta hay địch qua
tiếng nổ long trời của 130 ly hay tiếng rít
của hỏa tiển 122 ly… Đă
bao lần tôi đau đớn bó
tay trước những vết thương
quá nặng của thương
binh, hay âm thầm nhỏ lệ
trước những xác chết của cả quan
lẫn quân gói chặt trong poncho nằm hai hàng bên
bải đáp chờ
được bốc đi. Phải có một cái
ǵ linh thiêng, một niềm tin bất khuất, một
t́nh đồng đội cùng sống cùng chết
với nhau, một tinh thần dũng cảm của
Nhảy Dù Cố Gắng, mới khiến các chiến sĩ
ND coi nhẹ thân ḿnh, đội pháo trên đầu liên
tục xung phong hay tạm lùi
trước áp lực địch để sau
đó phản công mănh liệt đánh chiếm các công
sự địch ẩn núp trên các ngọn đồi,
lúc đầu thấp rồi cao dần. Những
ngọn đồi không tên. Những ngọn đồi
với con số cao độ vô cảm. Đơn
giản thế đó nhưng
là nơi
bao người
nằm xuống. Tôi
rời TĐ1ND vào Saigon
trước Tết 1975, lănh nhiệm vụ mới
làm Y Sĩ Trưởng
TĐ15ND Tân Lập. Như
định mệnh
được an bài, tôi vui mừng biết gia
đ́nh nàng nay cũng ở Saigon. Đúng vào chiều Mùng
Một Tết, hiên ngang trong bộ hoa dù mũ đỏ,
và chững chạc trong phong cách, hạnh phúc dồn
dập đến với tôi khi tôi t́m đến thăm
nàng tại nhà, sau trên 3 năm xa cách. Mối t́nh tôi
từ từ chuyễn
hướng thuận lợi theo thời gian. Dưới
mắt nàng, tôi không c̣n là một bạch diện thư
sinh mà một
con người dày dạn phong sương,
tự tin và lạc quan. Trong suốt cả tháng 2,
hầu như
chiều nào tôi cũng nhảy lên xe ôm đến
thẳng nhà nàng tiếp tục chinh phục nàng, trao nàng
những lá thư
t́nh đậm đà
thương
nhớ viết từ trong trại hay từ chổ hành
quân, hoặc trổ tài miệng
lưởi chiếm cảm t́nh của gia đ́nh
họ hàng nàng, đưa
em nàng đi nhổ răng tại pḥng Nha Khoa của
TĐQYND hay cùng nhau về
thăm bên ngoại nàng ở Thủ Đức… Mùa
Xuân 1975 là một mùa Xuân tràn ngập
yêu đương của tôi trong niềm
vui riêng. Nhưng là một mùa Xuân thảm họa
cho đất
nước đang từ từ tan vở với
những di tản chiến thuật, những bỏ
ngỏ bỏ của chạy lấy thân. Những câu
chuyện bi hùng tráng của dân quân từ Cao Nguyên,
từ Miền Trung Huế,
Đà Nẳng đến dần Nha Trang, Phan Rang, Xuân
Lộc... Những trận đánh đẩm máu bất
cân xứng trong những giờ thứ 25. Thời
gian t́nh h́nh chính trị xấu dần, t́nh h́nh quân
sự càng bi đát hơn.
Dân chúng ùn ùn kéo nhau đổ về
Saigon. Người quyền thế và giàu có
bắt đầu di tản ra khỏi
nước. Những
căng thẳng mất ngủ của những ngày 27, 28
và 29 tháng 4. Dù vậy tinh thần chiến đấu
của TĐ15ND vẫn bất diệt. Cá nhân tôi
vẫn b́nh tỉnh làm phận sự của ḿnh và
vẫn theo sát chân TĐ15, vẫn chiến đấu
tại cầu B́nh Triệu, khu nhà thờ Fatima, cho đến
ngày cuối cùng: 30 tháng 4. Giờ cuối cùng:
sau khi được lệnh buông súng. Nghẹn ngào,
sững sờ. Bàng hoàng, đau đớn. Xót xa và
tủi nhục! Chiều
cùng ngày, tôi về đến nhà nàng trước
khi về nhà Măng tôi. Như
muốn t́m một nơi
an ủi duy nhất để bám víu. Với quyết
định không để lạc mất nhau trong
những năm tháng đen tối sắp đến, nàng
can đảm nhận lấy tôi, dang rộng tay ôm choàng
tôi, che chở tôi khi đôi cánh thiên thần của tôi
vừa sụp gảy. Chúng tôi trở nên vợ
chồng 3 ngày sau khi mất
nước, trong ngôi nhà nguyện nhỏ tại nhà
thờ DCCT ở
đường Kỳ Đồng. Một đám
cưới thật đơn
sơ chạy tan cho đất
nước.
|
H́nh ảnh của 40 năm trước và 40 năm sau |
Cho dù
giờ đây cầu
Trường Tiền
được chiếu sáng đèn
màu mỗi đêm,
h́nh ảnh chiếc cầu gảy trong Tết Mậu Thân
vẫn là một chứng tích măi măi tồn tại
trong tim óc những
người con Huế! Cho dù các ngôi mộ
những nạn nhân trong biến cố Mậu Thân
bị chính quyền mới bắt dời chổ, thay
đổi mộ bia trong cố gắng xóa đi
những bằng chứng phạm
tội diệt chủng, ở
trong nước hay hải ngoại, trên khắp
thế giới tự do, ngoài những kỵ giổ vào
mỗi dịp Tết hàng năm, con dân gốc
người Huế chọn thêm ngày 23 tháng Năm
Âm Lịch mỗi năm, nguyên thủy là ngày Kinh Đô
Huế bị thất thủ vào tay quân ngoại xâm Pháp
vào năm 1885, để tưởng
nhớ và cầu siêu cho bao ngàn vong linh bị giết
hại trong biến cố Mậu Thân. Xin
thắp những nén nhang cho bao anh hùng đă gục ngă
v́ chống trả quân thù trên mănh đất quốc
gia Việt Nam. Cho bao đồng đội, chiến
hữu đă nằm xuống v́ Tự Do. Xin tưởng
nhớ đến bao triệu sinh linh vô tôi bị
giết chết trong cuộc chiến, kể luôn cả
hàng trăm ngàn
người bỏ xác trên
đường di tản, vượt
biên, vượt
biển. Xin dâng lời cầu nguyện cho một Mùa Xuân
vĩnh cữu đến với Việt Nam trong Tự
Do, Dân Chủ và Nhân Ái MĐ.
Vĩnh Chánh Tháng Giêng
2016 Bên
bờ hồ Mission Viejo, CA (1): “Cho Những người c̣n nhớ Huế”. Tác giả Lê Nhật Thăng
|
Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.
|