KHU TRỤC VIỆT NAM CỘNG H̉A - PHI DIỄN F5E TIGER II

 

 

Video: Phi diễn F5E Tiger II - Không Quân VN Hành Khúc (đồng ca)

Sáng tác: Văn Cao

(Sau 15 giây vẫn chưa thấy âm thanh xin ấn vào F5 hay Refresh hay Icon Play)

 

          Không Quân Việt Nam Hành Khúc
                                                                
Sáng tác: Văn Cao
Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến đấu,
Đă chiếm chiến công ngang trời.
Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến thắng.
Đi không ai t́m xác rơi.

Lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi.
Hối tiếc tấm thân làm chi.
Giờ từng đoàn người vượt trên lưng gió quyết chiến đấu,
Nhớ lấy phút giây từ ly.

Ta là đàn chim bay trên cao xanh.
Khi nh́n qua khói những kinh thành xa
Đôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh.
Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng.

Đây đó hồn nước ơi !
Không Quân Việt Nam lướt trên ngàn mây gió.
U... u… u… u… u… u…
Ôi Không Quân danh tiếng muôn đời.
Nh́n xa phi trường Việt Nam.
Không Quân ra đi cánh bay rợp trời.

U... u… u… u… u… u…
Xa giang san ngắm nh́n về khắp nơi.

Đàn chim dù bay ngàn phương cũng về
Để rồi ngày ngày sống ḥa nhịp đời cùng ngàn kiếp chim.
Đoàn ta càng đi càng xa quyết khi về đem lại đây chiến công
Dù thân mồ quên lấp ch́m.

 

KHU TRỤC VIỆT NAM CỘNG H̉A

   Cũng một mùa hè; năm mươi năm trước, Chàng tuổi trẻ nằm trên đồi thông sứ Hoàng Triều cương thổ, mơ màng!…Chàng mơ màng… trên bầu trời xanh kia, đang vần vũ hàng đoàn phi cơ khu trục điều khiển bởi những Hiệp Sĩ Phi Công Thần Tượng của chàng, với bao chiến công; và bao hành động kiêu hùng của một “thời c̣n có Hiệp Sĩ Không Gian”…mà Chàng vừa đọc trong cuốn sách bên cạnh Chàng.

   Chàng đă bị “đầu độc” bởi các sách truyện nói về phi công khu trục của Thế Chiến II. Những chuyện do Pierre Clostermann kể (phi công khu trục Pháp với 16 chiến công), ám ảnh cậu teenager ngày đêm. Nào là một Walter Nowotny, mới 16 tuổi đă khai gian tuổi để vào Không Quân Đức; năm 19 tuổi đă hạ trên 150 phi cơ Nga; và làm Không Đoàn Trưởng chỉ huy 3 phi đoàn khu trục… nhưng anh chưa thỏa măn v́ theo anh nghĩ phi cơ Nga dở quá, cũ quá (ngành hàng không Nga lúc này c̣n yếu, phải mua máy Roll Royce cũ của Anh, hoặc dùng phi cơ cũ Mỹ cho), phi công Nga cũng ít kinh nghiệm và dở đối với anh. Anh cũng nghe nói bên chiến trường Miền Tây, trên bầu trời có nhiều hảo hán xứng đáng là địch thủ của anh, và anh xin đổi về Miền Tây để có cơ hội so tài với những aces khu trục thứ thiệt… Đến đây, nói tới Ace khu trục, phải mở ngoặc để trở về với Việt Nam Cộng Ḥa những năm đầu 1970,  có “nhà văn quân đội” P. Huấn có lần viết về Không Quân Việt Nam (đang lúc sung măn) đă “vui tánh quá độ” mà bơm một vài phi công Việt Nam lên hàng Ace, khiến người đọc phải rợn tóc gáy v́ ngượng. Ace (trong giới khu trục thế giới) được định nghiă là: HẠ ĐƯỢC NĂM PHI CƠ ĐỊCH trên trời; trong lúc không chiến… Không Quân Việt Nam có phi cơ khu trục và có phi công khu trục nhưng nhiệm vụ là YỂM TRỢ quân bạn do đó không có không chiến và không thể có Aces được. Nhờ anh P. Huấn một tư!

   Trở lại Walter Nowotny, chỉ một thời gian sau khi bay trên bầu trời Miền Tây, anh đă lại sơn trên 60 lá cờ Anh và Mỹ bên hông chiếc phi cơ khu trục (Me110 hoặc FW109) của anh, mỗi lá cờ là một phi cơ anh hạ. Đă có lúc, Pierre Clostermann kể: Walter Nowotny dẫn một đàn khu trục ra trận,và chiếc đầu đàn, do anh lái, sơn một mầu vàng khè như để thách đố phi công đồng minh hăy đến mà so tài với anh. Rồi tới phần cuối của cuộc chiến, khi Không Quân Đức có phản lực Me262 th́ Walter Nowotny cũng lái, và các phi công Đồng Minh lắc đầu chịu thua, không cách nào hạ nổi Walter Nowotny Me262 văn minh quá! Bay nhanh và cao quá cho dù P51 Mustang hay P38 Lightning của Mỹ, hay Typhoon của Anh; cũng chỉ nh́n thấy bóng một Me262 bay thoáng qua rồi mất hút. Măi sau, phi đoàn của Pierre C., phi đoàn C̣ Trắng, Croix de la Lorraine, phải dùng chiến thuậtt Chasse-au-rat “không mấy đẹp, không hiệp sĩ tính” (chữ của tác gỉa P.C.) để hạ Me262: Đồng Minh được biết Me262 chỉ có đủ nhiên liệu để bay đúng 1 giờ, biết nơi cất cánh và giờ cất cánh các phi công đồng minh bay Typhoon tới gần phi trường và chờ Me262 về đáp, tới cận tiến gears-flap ḷng  tḥng, là quân ta nhào vô ăn có. Walter Nowotny bị hạ trong trường hợp này. Ngày đám tang Walter Nowotny phi cơ đồng minh đă bay ngang đám tang và thả một ṿng hoa Lauriers, vừa có nghĩa là hoa tang vừa có nghĩa là ṿng hoa chiến thắng cho người hùng.

   Rồi tới chuyện người hùng khu trục Anh, Bader với hai cẳng sắt. Anh bị tai nạn phi cơ lúc c̣n trẻ và phải cưa hai cẳng, rồi chiến tranh bùng nổ, Không Quân Anh cần nhiều phi công khu trục, anh nhất định trở lại nghề cũ, phần anh mê bay, phần anh muốn chia sẻ gánh nặng với bạn bè cũ. Nhờ một số bạn cũ, giờ đây đă thành các chỉ huy cao cấp trong quân đội nên anh đă được trở lại không gian và chiến đấu. Anh cũng trở thành một Ace của Không Quân Anh, và Không Quân Đức cũng biết đến một Ace Anh bay với 2 cẳng sắt, đáng nể!… Anh bị hạ trong một trận không chiến, và người phi công Đức hạ anh, khi ṿng lại để nh́n người phi công đang tọng teeng dưới cái dù… đă gọi máy về báo cáo “thằng phi công địch tao mới hạ, đă nhẩy dù sống sót nhưng cụt hai chân!” Các phi công Đức biết ngay là Bader, ra tận nơi đón anh về bệnh xá của họ, và tối hôm đó họ đă mang Champagnes đến tận giường anh để ăn mừng và tṛ truyện giữa những con người HIỆP SĨ KHÔNG GIAN, người chiến sĩ của thế kỷ 20, chiến đấu với tinh thần thượng vơ của Hiệp Sĩ Thế Kỷ 20, lăng mạn…

   Nói tới tinh thần hiệp sĩ đạo… Mặt trận Thái B́nh Dương đă tới đoạn cuối, tại một ḥn đảo hẻo lánh, ông tướng Tư Lệnh căn cứ nọ; Washami, đêm hôm đó mời ông đại tá Tư Lệnh Không Đoàn - Shiroto - tới lều tư lệnh uống sakê. Cả hai ông mặc trang phục đại lễ của Samurai đầy đủ kiếm dài, kiếm ngắn, cả hai cấp chỉ huy đều biết chiến tranh đă chấm dứt và Nhật đă đầu hàng. Cả hai cùng nhận trách nhiệm là đă gửi đi gần hết đàn em của ḿnh đi làm những phi vụ Kamikasê không trở về… cho nên đêm nay họ sẽ từ gĩa nhau qua vài ly sakê, trao tặng nhau bảo kiếm Samurai, rồi sáng sớm mỗi người sẽ leo lên một chiếc Jinrai Baka (bomb bay) đeo dưới bụng 2 chiếc Betty, ra gần tới hạm đôị Mỹ, Betty sẽ thả Jinrai và họ sẽ chọn một tầu Mỹ, FlatTop th́ càng tốt, bay thẳng tới và đâm đầu vào… như các đàn em của họ đă làm… C̣n cái Chết nào Đẹp và Hùng hơn cái Chết của Người Hiệp Sĩ Không Gian!

   Đầu óc đầy một mớ mộng mơ, Chàng tuổi trẻ rời đồi thông, đi vào thành phố tới nhà một người anh họ, để đổi sách. Căn nhà này là một Hội Quán Hàng Không nhỏ, anh chủ nhà là “một con mọt về máy bay”, anh có đủ thứ sách về máy bay, nhưng tài nhất là anh làm máy bay bằng gỗ: anh gọt, anh mài, anh sơn những chiếc máy bay nhỏ bằng bàn tay với đủ chi tiết ly ty, không thua ǵ những chiếc Plastic Model sau này. Ở đây cũng có mặt một Người Khu Trục Việt Nam tương lai: anh Dzũng Mặt Đỏ.

   Thế rồi chiến tranh Đông Dương chuyển sang giai đoạn hai, từ súng Ngựa Trời đổi qua AK47, rồi 12ly7, Chàng tuổi trẻ ra nhập gia đ́nh Khu Trục Việt Nam.


F8F Bearcat

 

T-28 

 

   Khu trục Việt Nam bắt đầu là Phi Đoàn 1 Khu Trục, bay F8F Bearcat, đóng tại Biên Ḥa. Mỹ làm ra chiếc Bearcat, cho Hải Quân Hoa Kỳ, để thay thế chiếc Hellcat, vào khoảng cuối Thế Chiến II. Bearcat là phi cơ khu trục thuần túy (không chiến), một cái máy tổ bố kéo theo một cái thân và cánh tương đối ngăn để “bay cao và bay nhanh”. Khi Bearcat tới tay Người Khu Trục Việt Nam th́ cũng đă nhăo nhuẹt rồi, (từ tay ông Mỹ qua tay ông Tây) nên Phi Đoàn 1 Khu Trục, mỗi ngày khả dụng hành quân giỏi lắm dưới 10 chiếc, và phi công bay trung b́nh 10 giờ tới 20 giờ (kể cả giờ trên T6). Lúc này Chàng tuổi trẻ đang học Trung Học Đệ Nhất Cấp, xuống Biên Ḥa ở 3 tháng nghỉ hè, bám sát các anh Khu Trục Việt Nam: sáng đi ăn sáng, tối cũng leo 4x4 ra phố ăn cơm, trong ngày lang thang trong phi đoàn nh́n ra sân đậu, hàng dài F8F - Bearcat, mới hôm trước sơn đen, nay lại cạo trắng màu bạc… phảng phất mùi “săng máy bay”, say sưa ngày nọ qua ngày kia không chán! Làm sao quên được những buổi chiều hết nắng, không gian yên tĩnh chỉ có một chiếc Bearcat (hoặc 1 chiếc T6) đang nhào lộn làm Acrobaties trên tít trời cao. Hoặc một lần khác trên ṿm trời Vũng Tàu, Sàig̣n, thấy chiếc Constellation chở Ngô Tổng Thống, được escorted bởi Bearcat của Không Quân Việt Nam, mỗi bên cánh 3 chiếc, hợp đoàn thiệt đẹp… Được gặp những người Khu Trục Việt Nam đầu tiên mà đâu có biết là số đông sau này đă trở thành những nhân vật lịch sử của Việt Nam Cộng Ḥa hay những “người xây dựng lên Không Quân Việt Nam.” Nhớ nhất là các anh thuộc “Khóa 13 Người”. Hồi đó các anh c̣n mặc áo bay bằng Kaki Vàng nội hóa cũng Áo Liền Quần và nhiều túi, giầy bốt th́ mỗi người một kiểu, cánh bay th́ có người đeo Macaron của Tây hoặc “Con chim cụt đầu” của Ta; nói một cách khác quân trang không đồng nhất, nhưng sao vẫn thấy nét hùng và bất cần của Người Khu Trục (so với “tóc tai chải chuốt, áo quần bảnh bao” của những người khác), tứ đổ tường có đủ!

   Thời điểm này cũng phải nhắc tới một loại phi cơ và phi công, cũng thả bomb, bắn súng nhưng không gọi là Khu Trục v́ không phải “một người, một ngựa, một động cơ”, đó là phi cơ Marcel Dassault 315, khi đánh B́nh Xuyên cũng thả Napalm (từng hàng thùng sắt 40 lít, chở trong thân tầu, được đẩy qua cửa) và đại liên ở cánh.

   

AD6 Skyraiders

 

AD6 Skyraiders

 

   Thế hệ thứ hai của Khu Trục Việt Nam Cộng Ḥa là phi công AD6 Skyraider được Hải Quân Hoa Kỳ huấn luyện tại Biên Ḥa (ngoại trừ một số nhỏ được huấn luyện ở Mỹ, thời điểm 58/60), và Phi Đoàn 1 trở thành Phi Đoàn 514; rồi thêm 516, 518, 520 và Biệt Đoàn 83… Thời gian sau 1966, có thể gọi là thời Việt Nam Hóa, phi công khu trục được huấn luyện trên A1E tại Hoa Kỳ do 1st Air Commando đảm nhiệm (TT Kennedy chế ra Special Force cho Lục Quân, c̣n Không Quân là Air Commando; gọi là Counter Insurgency để “chống” chiến tranh du kích)… Lúc này “đánh nhau thứ thiệt”, số phi công khu trục chết, phần nhiều là tại pḥng không và trên chiến trường, chứ không phải như trước “lỗi phi công”, hay tại phi cơ cũ, hay trở ngại kỹ thuật… Phi cơ AD5/AD6 (Hải Quân Hoa Kỳ) hay A1E (2 chỗ ngồi), A1H (1 chỗ ngồi - Không Quân Hoa Kỳ) là một phi cơ một máy cánh quạt của Hải Quân Hoa Kỳ được sử dụng nhiều nhất trong chiến tranh Triều Tiên, không phải là phi cơ khu trục thuần túy (không chiến) do đó tên gọi có chữ A là Attack. Tuy nhiên trong Không Quân Việt Nam vẫn gọi là khu trục v́ tính cách “một người, một ngựa, một động cơ” và nhiệm vụ chính của Khu Trục Việt Nam là yểm trợ quân bạn, nên Skyraider là đúng chỉ số. Riêng đối với người viết bài này, khi mới thấy Skyraider bay trên ṿm trời Việt Nam th́ chê: vừa xấu, vừa chậm, (quen nh́n Bearcat rồi); đến khi lái Skyraider đi đánh giặc rồi th́ mê! Chưa có phi cơ một máy nào, mà bị bắn bể 3 cylinders, dầu bắn ra xối xả, sơn đen cả tầu, mà vẫn bay được thêm 20 phút để về căn cứ hạ cánh an toàn. Đạn pḥng không 12ly7 chỉ găm dính chung quanh pḥng lái, không thể xuyên qua, đụng tới da thịt người phi công, v́ những miếng Ammo-Plates dầy cả 1cm. Cockpit Plexiglas cũng cả inch như ngồi trong xe tăng.

 

Phản lực siêu thanh F5E

 

   Gia đ́nh Khu Trục Việt Nam có thêm một phi đoàn Phản Lực Siêu Thanh đầu tiên, Phi Đoàn 522, với phi cơ F5. Thủa đầu khi hăng Northrop c̣n đang trong thời kỳ test & experimental, và đă đăng báo quảng cáo chiếc N156F Freedom Fighter tương lai sẽ bán cho đệ tam quốc gia (trong chương tŕnh MAP), sách vở học sinh của Chàng từ b́a trước đến b́a sau toàn h́nh vẽ N156F. Nhưng mê th́ mê vậy thôi chứ chàng có bao giờ mường tưởng tới ngày ḿnh có thể được lái F5. Rồi Không Quân Hoa Kỳ mua một loạt Version 2 chỗ ngồi để làm phi cơ huấn luyện Talon T-38. Phi Đoàn F5A đầu tiên xuất hiện tại chiến trường Việt Nam 1965, sau một năm hoạt động ở Miền Nam, thi hành các phi vụ thả bombs yểm trợ, phi công về Hoa Kỳ, để lại phi cơ cho Không Quân Việt Nam. Vào những năm chót của cuộc chiến VNCH có được 3 phi đoàn F5E Không Chiến. Phi cơ F5E lúc đầu c̣n được gọi là F5/21, được làm ra để “chống” Mig21. Nhưng phi công Việt Nam Cộng Ḥa, chưa được đối đầu với những phi công Mig21 Bắc Việt, chuyên viên chiến thuật “chốn trong mây chờ, phi cơ địch tới nhẩy ra vồ…” nên Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa không có Ace!

 

A-37 (Cessna T-37)

 

   Sau Tết Mậu Thân và cũng là thời Việt Nam Hóa, Skyraider đă thật sự “Ǵa” rồi! phi công nhận những “cảnh cáo không nên” dùng Ca Nông 20, đeo bombs tối đa, hay gấp cánh lúc ở parking… Rồi từng phi đoàn A-37B, bắt đầu xuất hiện, lần lượt thay thế A-1(Skyraiders)… Phi cơ A-37, cũng là sản phẩm của Counter Insurgency và là “hoá thân” của chiếc Cessna T-37: 2 máy phản lực mới và mạnh như F5, cánh đựơc tăng cường cứng gấp bội để đeo xăng và bomb. Có những người Không Quân “đặt tên không mấy đẹp” cho A-37, như là “SlowJet” hay “Ṇng Nọc Bay”, hay ǵ ǵ đi nữa… A-37 là Một Phi Cơ Tốt cho chiến trường Việt Nam. Phi cơ dễ bay, dễ bảo tŕ, nhỏ bé trên cao độ (khó bắn), là một Platform vững khi thả bomb, nhờ hệ thống YawDumper nên bomb thả rất chính xác. Từ khi có A-37, số phi xuất mỗi ngày gia tăng gấp bội, pḥng không địch cũng tăng như SA-7, 23ly, 37ly mang từ Bắc vào khi Mỹ rút lui, tỷ số phi cơ bị hạ ít hơn trước. Trong một phi vụ, trên ṿm trời Quảng Đức, số 2 bị SA-7 hạ, số 1 đă bay cover thời gian lâu hơn sách vở cho phép… phi công tắt một máy… A-37 có thể bay với 1 máy an toàn cũng gần như 2 máy.

  Người Khu Trục Việt Nam: sống Vui, Thích Bay, bất cần, sống ngày hôm nay thôi, c̣n chơi hết thôi…” Với chút vốn, triết lư đó Người Khu Trục Việt Nam Công Ḥa mới có thể làm cái việc họ làm ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia! Nếu không phải là mê Bay… như anh mê chơi Tennis, vài ngày không ra sân, cảm thấy nhớ, ngứa ngắy chân tay, thậm chí có lúc được đi phép vài ngày, một tuần, lúc lái phi cơ về phi đoàn thấy hăng say và vui sướng… th́ không ở trong ngành lâu được v́ cuộc chiến và cuộc sống hàng ngày, đ̣i hỏi Người Khu Trục Việt Nam một sự Hy Sinh Quá Lớn và Quá Chênh Lệch. Không có Người Khu Trục nào sống đủng đỉnh chứ đừng nói dư giả, thậm chí có anh cả năm không thấy Thẻ Lương! (di chuyển từ tay bà Thượng Sĩ này qua tay ông Trung Sĩ kia) đành chờ Du Học để “recover-from-dive”…

   Đúng không bạn ta ? Họ thuộc thành phần “tôi hănh diện tôi nghèo, chứng tỏ tôi không tham nhũng !” Ngay cả phần thưởng tinh thần của người chiến sĩ: Huy Chương. Từ quyết định của Tư Lệnh Chiến Trường đến hồ sơ cá nhân Người Khu Trục Việt Nam, qua cả ngàn bàn tay, chữ kư và rồi phần thưởng bị “thất lạc” là chuyện thường!

   Nhưng rồi cũng có những giây phút nhớ đời. Anh Bạn L-19, c̣n nghi ngờ tài năng thả bomb của Khu Trục Việt Nam nên bắn trái khói cách mục tiêu cả 100 thước rồi bảo số 1: “Hit my smoke” để thử tài… Số 1 nhào xuống, bấm nút, kéo lên crosswind, ngoái cổ lại coi bomb nổ và gáy: “Where’s your smoke?”… một cụm khói đen của bomb vừa thả đă bao trùm cụm khói trắng… ông bạn đồng minh thét lên trên tần số: “Beautiful! excellent bomb! never seen before!” rối những quả bomb kế tiếp cũng vậy: Excellent bomb để chứng tỏ không phải là Rùa hay Lucky.

   Trận Thác Lác, thả Napalm cách quân bạn (có Paneau đỏ che đầu) 20/30 thước; sau mỗi pass lại thấy quân bạn tiến chiếm mục tiêu, đếm xác địch… đến chiều về Căn Cứ quân bạn cho xem Paneau c̣n dính bột Napalm trắng. Nhiều lắm! những tiếng gáy trên tần số (gáy với L-19, phe ta: “Nếu quân bạn đánh cận chiến, tao có thể thả bom safe, giết địch, phe ta an toàn!”) Những tiếng gáy đó đă thúc đẩy Người Khu Trục Việt Nam sách dù mang nón thi hành phi vụ kế tiếp.

   Có một nữ phóng viên người Ḥa Lan tới Căn Cứ để viết một bài về phi công Việt Nam Cộng Ḥa. Cô có một thân h́nh khổng lồ, to khỏe, đứng bên cạnh phi công Việt Nam, có anh bạn gọi là “thằn lằn đeo cột nhà”, thế mà “lửa để gần rơm”, đêm cô ngủ lại Cư Xá Độc Thân. Sáng hôm sau cô tuyên bố: “Các anh (những người phi công) thật là Quốc Tế (inter-national), cô đă từng biết phi công Ḥa Lan, Đức, Anh, Pháp… các anh giống nhau, có một lối sống bất cần (blasé), Không Có Ǵ Quan Trọng Cả, nó quyến rũ phái nữ lạ lùng, nhất là cô nào có tư máu mạo hiểm, thích đùa với lửa. “Tất cả chỉ như gío thoảng, như mây nổi, như chiêm bao...”

   Năm 1973; trong một cuộc phỏng vấn truyền h́nh giữa các Em gái hậu phương và Chiến sĩ xuất sắc Không Quân, có em hỏi: “Khi anh t́nh nguyện vào Không Quân, động lực nào đă thúc anh chọn vào nghề Khu Trục: vào sinh ra tử, lại nghèo đói và bao giờ anh ra được khỏi nghề ?”… “Từ thủa nhỏ tôi mê và bị ám ảnh bởi h́nh ảnh một người, một ngựa, bay ngả nghiêng, vi vút trên tuốt trời xanh, rồi sau này lại tin vào “sống chết có số” nên tôi vẫn bay khu trục…”

  
Bài này viết nhân ngày Đại Hội “40 năm Khu Trục Việt Nam Cộng Ḥa” do các bạn Khu Trục vùng Thung Lũng Vàng tổ chức tại San Jose tháng 5/2005, hy vọng chia sẻ t́nh cảm và kỷ niệm cùng các Phi Công, nhớ lại một thời đă cùng nhau đi “Bứt sao trời, cho nhức nhối không gian”.

               Vân Đ́nh
(Biên Hùng & Đàm Thượng Vũ chuyển)

 

 

Có người lính già đi dưới Quân Kỳ. 

Nghe dấu đạn bom nhớ đời Viễn Thám.
Dầu đă nát chinh y, dầu đă gẫy gươm thiêng.
C̣n ṿng tay Quê Hương, c̣n T́nh Yêu Đồng Đội.

Khi người lính già, người lính chỉ mờ đi.
Người lính chỉ mờ đi, mà không chết bao giờ…

   Dzuy Lynh (Người Lính không bao giờ chết) 

 

 

    

Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân

Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.