CÂU CHUYỆN DI CƯ VÀO MIỀN NAM CỦA TÔI (Đoàn Thanh Liêm)
(Hồi
tưởng của: Đoàn Thanh Liêm)
Nhân đọc cuốn “20 Năm
Miền Nam 1955 – 1975" của tác giả
Nguyễn Văn Lục, mà sẽ được
giời thiệu với công chúng trong buổi Ra
Mắt Sách tại Pḥng Sinh Hoạt của Nhật báo
Người Việt ở Nam California vào ngày Chủ Nhật
ngày 1 Tháng Tám sắp tới, tôi nhớ lại
chuyện Di Cư vào Miền Nam của bản thân ḿnh,
và xin được ghi lại một số chi
tiết như sau đây.
Năm 1954, tôi vừa tốt nghiệp văn
bằng tú tài 2 qua kỳ thi vào tháng 6 tại Hà
Nội, th́ được tin quân đội quốc
gia đă rút khỏi miền quê tôi tại Bùi Chu
để ra Hải pḥng bằng đường
thủy. Và một số bà con ruột thịt của
tôi cũng t́m cách đi theo đoàn quân để
tới được thành phố cảng này. Tôi
lại có ông anh cả thuộc đơn vị quân
đội trú đóng ở Quảng Yên sát với
mỏ than Ḥn Gai. Nên vào đầu tháng 7, tôi đă t́m
cách đi từ Hà Nội đến Hải Pḥng
để t́m bà con và đi thăm gia đ́nh ông anh
luôn thể.
Trước khi rời Hà Nội, tôi phải
đến nhà Thầy Nguyễn Ngọc Cư là Phó Trưởng
Ban Giám Khảo kỳ thi Tú Tài, để xin Thầy
cấp cho một Giấy Chứng Nhận Đă Thi
Đậu Tú Tài, để nộp kèm theo hồ sơ
ghi danh vào Đại học. Dù đă biết rơ tôi là
học tṛ của Thầy tại trường Chu Văn
An, mà đă thi đậu trong kỳ thi vừa qua,
thầy vẫn phải cẩn thận rà lại danh sách
các thí sinh trúng tuyển, rồi mới cấp cho tôi
một “Giấy Chúng Nhận Tạm Thời” để
tùy nghi sử dụng. Thầy nói: Giấy Chứng
Nhận Chính Thức phải do Bộ Giáo Dục
cấp phát, chứ Ban Giám Khảo chỉ có thể
cấp Giấy Chứng Nhận Tạm Thời mà thôi.
Biết tôi có ư định vào miền Nam, thầy
cầu chúc tôi lên đường gặp nhiều may
mắn.
Ở vào tuổi 20 lúc đó, tôi nh́n cuộc
đời với nhiều lạc quan tin tưởng,
nên chẳng hề e ngại trước cuộc phiêu
lưu phải rời xa quê hương đất
Bắc, để mà đi tới Miền Nam xa xôi
cả mấy ngàn cây số. Một phần đó là
do tính ưa thích phiêu lưu mạo hiểm của
tuổi trẻ, nhưng phần lớn là do động
cơ thúc đảy bởi cái chuyện “phải tránh
thoát khỏi cái nạn cộng sản độc tài
nham hiểm”, mà đang sắp sửa bủa vây, bao
trùm xuống khắp Miền Bắc. Tôi phải ở
lại thành phố Hải Pḥng đến hơn
một tháng, th́ mới t́m được phương
tiện chuyên chở vào đến Sàig̣n hồi
giữa tháng 8.
Đó là nhờ một ông chú là cháu của bà
nội tôi, tên là chú Nhân. Chú làm việc tại cơ
quan hành chánh phụ trách về việc sắp xếp
tàu bè đi vào Nam, nên đă xin cấp trên ưu tiên
cấp phát giấy tờ di chuyển cho tôi và một
bà cô là Cô Nguyệt để leo lên được
chiếc tàu khá lớn của quân đội Pháp có tên
là Gascogne. Con tàu này chuyên môn chở quân trang quân
dụng cho quân đội, nên không có đủ
tiện nghi như là tàu chở hành khách thông thường.
Nhưng mà lúc đó, lớp người di cư
tỵ nạn chúng tôi đâu c̣n có sự lựa
chọn nào khác, miễn là đi thoát khỏi Miền
Bắc cộng sản là được may mắn
lắm rồi? Số lượng hành khách trên tàu lúc
đó có đến 7-800 người, phần đông
là từ các tỉnh xa mà sớm ra được
tới Hải Pḥng để đi vào Nam trong mấy
chuyến đầu tiên được tổ chức
cấp tốc sau ngày kư kết Hiệp Định
Geneva 20 Tháng Bảy 1954, chia đôi đất nước.
Măi ít lâu sau, th́ mới có loạt các tàu của
Mỹ với tiện nghi thoải mái hơn.
Con tàu chạy trong chừng ba ngày, th́ đến
Cap Saint Jacques, tức là cảng Vũng Tàu bây giờ,
để chuẩn bị vào cửa sông đi đến
bến Nhà Rồng của thành phố Sàig̣n. Sau khi tàu
cập bến ít lâu, th́ chúng tôi được xe
chuyên chở đưa tới nơi tạm cư là
trường tiểu học Tôn Thọ Tường trên
đường Trần Hưng Đạo bây giờ (mà
hồi đó vẫn c̣n mang tên Pháp là Boulevard Gallieni),
gần với Chợ Bến Thành. Lúc đó bên phía
đối diện với ngôi trường, th́ có
một ṭa nhà lớn đang được xây
cất, mà sau này chính là rạp chiếu phim Đại
Nam. Bà con di cư chúng tôi được các công nhân
ở đây thật là hào phóng cấp cho một
số gỗ ván gỡ từ giàn “cốt pha”, để
dùng làm củi đun cơm, nấu nước: Đó
thật là một nghĩa cử đầu tiên
của người dân Sàig̣n, mà làm cho tôi cứ
nhớ hoài.
Chúng tôi được mấy bà con đến
được Saigon vài ba tuần lễ trước,
nên họ t́m đến để chỉ dẫn
đường đi nước bước tại cái
thành phố rộng mênh mông này. Riêng tôi th́ gặp
lại một số bạn bè cũng từ Hà
Nội hay từ Nam Định mà đến đây trước
ít lâu, như Vơ Thế Hào, Trần Ngọc Vân,
Nguyễn Phi Hùng…, các bạn cũng giúp tôi việc
này chuyện nọ trong bước đầu c̣n
nhiều bỡ ngỡ.
Sau mấy bữa, th́ tôi làm xong thủ tục
ghi danh ở Đại Học Sàig̣n và được
nhận vào ở trong Trường Gia Long dành riêng cho
các sinh viên di cư. Tại đây, sinh viên chúng tôi
được cư ngụ trong khu kư túc xá, nên có
đày đủ tiện nghi về nơi ăn
chốn ở, nhà vệ sinh, pḥng tắm giặt
thật là đàng hoàng tươm tất. Ban tiếp
cư c̣n lo cho chúng tôi mỗi ngày ba bữa ăn
đày đủ. Và mỗi tháng chúng tôi c̣n
được cấp phát cho một số tiền
nhỏ để chi tiêu lặt vặt. Có lần chúng
tôi lại được tiếp đón Thủ Tướng
Ngô Đ́nh Diệm cùng phái đoàn chánh phủ đến
thăm nom và úy lạo sinh viên nữa. Nói chung, th́
sự chăm sóc của nhà nước đối
với lớp người di cư đầu tiên trong
mấy tháng cuối năm 1954 rơ ràng là đă
được tổ chức hết sức chu đáo,
gọn gàng. Đặc biệt là mấy trăm sinh viên
từ Hà Nội như tôi đă được hưởng
một chế độ ưu đăi quá tốt đẹp,
vượt xa ngoài sự mong đợi của
nhiều người trong hàng ngũ chúng tôi.
Nhưng rồi đến lúc các học sinh
tựu trường, th́ sinh viên chúng tôi phải di
rời ra cư ngụ tại khu lều vải
được dựng lên trên nền đất
của Khám Lớn Sàig̣n cũ sát bên Ṭa Án, để
trả lại trường ốc cho nữ sinh Gia Long.
Vào cuối năm, trời Sàig̣n nắng nhiều và vào
ban trưa nhiều anh em chúng tôi phải t́m cách
chạy đến các công sở lân cận, mà có
nhiều bóng cây che rợp cho bớt nóng. Và chúng tôi
đă ăn cả hai cái Tết Tây và Tết Ta đầu
năm 1955, tại khu lều vải tạm trú này.
Thật là một kỷ niệm khó quên của cái
thời bọn thanh niên trai trẻ chúng tôi nơi
miền đất mới lạ Sàig̣n này. Cuối cùng,
th́ vào khoảng sau Tết Âm Lịch chúng tôi
được dọn đến khu Đại Học
xá Minh Mạng vừa mới xây cất xong. Sinh viên di
cư chúng tôi là những người đầu tiên
đến cư ngụ tại khu cư xá này với
đày đủ tiện nghi pḥng ốc, giường
tủ... Và cứ như vậy cuộc sống
của chúng tôi lần hồi đi vào mức ổn
định và ḥa nhập được với
nền nếp của cả thành phố thủ đô
của Miền Nam tự do, phồn thịnh và thanh b́nh.
C̣n về phần riêng gia đ́nh các anh chị
em ruột thịt của tôi, th́ kẻ trước người
sau chúng tôi đều quy tụ được với
nhau trên mảnh đất miền Nam an lành, và nâng
đỡ bảo bọc nhau xây dựng lại
cuộc sống mới. Và rất nhiều các cháu
thuộc thế hệ thứ hai trong đại gia
đ́nh chúng tôi đều đă thành đạt
tại đây. V́ thế, khi các cháu khôn lớn, th́
đều bày tỏ ḷng biết ơn đối
với cha mẹ v́ đă hy sinh hết ḿnh, để
mà đem được các cháu vào Miền Nam và
nhờ đó mà các cháu có được những cơ
hội tốt đẹp để học tập và
gặt hái được nhiều thành công trên đời.
Năm 2010 này, nhân dịp kỷ niệm 56 năm
Ngày Đặt Chân đến Miền Nam Tự Do (1954
– 2010), tôi xin ghi lại một số kỷ niệm
riêng tư của ḿnh như là một chứng từ
của một thanh niên là một thành viên của
khối gần một triệu người di cư
tỵ nạn cộng sản, mà đă phải bỏ
lại tất cả tài sản nhà cửa, ruộng vườn,
mồ mả cha ông trên đất Bắc để
đi xây dựng cuộc sống mới tại
miền đất tự do, no ấm và an ḥa ở phía
Nam của tổ quốc Việt Nam.
Và nhân dịp này, với tư cách là một người
thụ ơn, tôi xin được bày tỏ ḷng
biết ơn đối với nhân dân các quốc gia
đă góp phần yểm trợ cho công cuộc di
chuyển và định cư vĩ đại của
cả triệu đồng bào chúng tôi trong những ngày
tháng đen tối đó. Và tôi cũng không quên công
lao của các nhân viên Chánh Phủ, của Quân Đội
Miền Nam Việt nam, và của biết bao nhiêu cơ
quan thiện nguyện khác mà đă lo lắng chăm sóc
thật là chu đáo tận t́nh cho lớp người
di cư chúng tôi vào thuở đó. Dù chỉ là
một cá nhân nhỏ bé, lời nói của tôi lại
hết sức trung thực, như là một biểu
hiện của sự cảm thông sâu sắc và quư
mến chân thành đối với tất cả các
vị ân nhân đáng kính của cả một thế
hệ người di cư từ Miền Bắc
Việt Nam năm 1954 vậy./
California, ngày 20 tháng Bảy năm 2010 Đoàn Thanh Liêm |