NGƯỜI LÍNH Không Bao Giờ Chết & TƯỚNG MacArthur
|
|||
Nhạc phẩm NGƯỜI LÍNH Không Bao Giờ Chết Sáng tác & tŕnh bày: Dzuy Lynh Sau 15 giây vẫn chưa thấy âm thanh xin ấn vào Icon Play hay Refresh hay F5
|
|||
|
|||
|
|||
Hành quân Trực Thăng
|
|||
|
|||
Hành quân LAM SƠN 719
|
|||
|
|||
Trận đánh tại TỐNG LÊ CHÂN tháng 5/1972
|
|||
|
|||
Bức tường Tưởng Nhớ (Washington, DC)
|
|||
|
|||
Bức tường Tưởng Nhớ (Washington, DC)
|
|||
Người
Lính Ǵa Không Bao Giờ Chết Người Lính Ǵà Không Bao Giờ Chết hay
Chuyện của Tướng Douglas MacArthur
Người Lính Ǵa Không Bao Giờ Chết là câu hát
của người lính Mỹ trong doanh trại
thời trước, nhưng khi câu hát này được
thốt ra từ Tướng Douglas MacArthur khi ông đọc
bài điều trần trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ sau khi bị
cất chức Tư Lệnh tối cao quân đội
Hoa Kỳ ở Đông Nam Á và các lực lượng Liên
Hiệp Quốc trong cuộc chiến tranh Bắc Hàn
- Nam Hàn năm 1950, th́ trở thành bất
hủ. Ông là một trong những vị tướng
5 sao của Hoa Kỳ được nhiều huy chương
chiến trường nhất, ông là một thiên
tài quân sự được xem là một Caesar. Nhưng
trong một phương diện khác, ông gây ra
nhiều ư kiến chống đối, đó là lư
do tại sao ông không được đảng Cộng Ḥa
chọn ra tranh cử Tổng
Thống Hoa Kỳ, mà chỉ làm một Người Lính Già Không Bao Giờ Chết.
Ông sinh trưởng trong một gia đ́nh vơ
nghiệp. Cha ông là tướng chỉ huy lực
lượng Hoa Kỳ chiếm đóng Phi Luật
Tân sau cuộc chiến tranh Hoa Kỳ - Tây Ban Nha
1898. Lúc nhỏ sống trong doanh trại, ông
được dự những buổi chào cờ
và diễn hành quân cách, nên nuôi giấc mộng làm
lính chiến. Ông được gửi học Trường Thiếu
Sinh Quân, và lớn lên được thâu nhận
vào Trường West Point. Sau khi ra trường vào năm
1904, ông được gắn cấp Thiếu úy ngành
công binh, và phục vụ ở Phi Luật Tân
để xây cất đường xá và bến
tàu, rồi làm Sĩ quan Tùy viên cho cha. Nhờ
đó ông được tháp tùng theo cha trong các
cuộc thăm viếng Nhật Bản, Trung Hoa và
Singapore, và có nhận định sớm là tương
lai quyền lợi Hoa Kỳ không phải ở Âu
Châu mà là ở các nước Á Châu đang giành
lại quyền độc lập.
Trở về Hoa Kỳ ông tham gia công tŕnh kênh
Panama, phụ trách xây cất San Francisco sau vụ
động đất 1906, tham gia trận chiến
với Mexico năm 1913. Khi Thế Chiến I bùng
nổ, ông là Đại tá trong đoàn quân Viễn
Chinh Hoa Kỳ sang chiến đấu ở Pháp năm
1917. Mặc dù là sĩ quan tham mưu sư đoàn,
ông thích cầm quân ra trận. Ông là một sĩ
quan gan dạ trong các trận đẩm máu
nhất của mặt trận miền Tây (Pháp,
Bỉ và Ḥa Lan) ông được gắn 7 anh dũng
bội tinh Silver Star, một DSC (Distinguished Service
Cross), một DSM (Distinguished Service Medal) và một
Legion d'Honneur (Bắc đẩu bội tinh) của
quân đội Pháp, và được thăng cấp
Tướng một sao. Cũng như các danh tướng
Mỹ khác, ông có một lối ăn mặc
đặc biệt, không gài cúc cổ áo, không
mang cà vạt, và thích đội chiếc nón két
bàu nhàu thêu kim tuyến trông rất tài tử.
Ông được cử làm Chỉ Huy Trưởng
trường West Point năm 1919 lúc 39 tuổi, là
một trong nhũng vị Chỉ Huy Trưởng
trẻ nhất. Ông thực hiện nhiều
cải cách sâu rộng như nâng cao tinh thần
thể thao, mang môn khiêu vũ vào chương tŕnh,
khuyến khích Sinh Viên Sĩ Quan thích đọc báo hàng ngày
để tiếp xúc với thế giới bên
ngoài. Về văn hóa, ông thấy người lính
tương lai không c̣n là hạng chuyên nghiệp
nữa mà xuất thân từ các tầng lớp xă
hội, nên người sĩ quan không thể dùng
kỷ luật khắc khe và h́nh phạt nặng
nề để chỉ huy mà phải có tầm
hiểu biết rộng răi về tâm lư, lịch
sử, xă hội và những mối tương quan trên
thế giới, nên khoa Nhân Văn (Sử, Văn
Chương) và Khoa Học Xă Hội (Xă Hội,
Luật, Kinh Tế) được mang vào, và các
giảng viên được gửi đến các
đại học bên ngoài hàng năm một tháng
để trau dồi kiến thức. Nhờ
vậy văn bằng tốt nghiệp Trường West Point
đuợc Quốc Hội Hoa Kỳ biểu
quyết chấp nhận có giá trị ngang hàng
với Văn Bằng Cử Nhân ở các đại
học dân sự.
Năm 1922 ông được cử trở
lại Phi Luật Tân chỉ huy lực lượng quân
sự Hoa Kỳ ở Manila trong 3 năm, khi trở
về Hoa Kỳ ông được thăng cấp
Tướng 2 sao chỉ huy cấp quân đoàn,
rồi làm việc tại Bộ Quốc Pḥng. Năm 1930 ông được cử làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Hoa Kỳ, và được mang cấp tướng 4 sao giả định theo chức vụ. Ông thực hiện nhiều công tác quan trọng, như ra Quốc Hội tranh đấu đ̣i tăng ngân sách quốc pḥng, gia tăng quân đội, lập ra Trường Tham Mưu Trung Cấp Leavenworth giúp sĩ quan trẻ có cơ hội tiến xa trên đường vơ nghiệp, lập ra Đại Học Quân Sự để giúp cấp tá lănh đạo sau này. Nhờ vậy khi Thế Chiến II bùng nổ, quân đội Hoa Kỳ có đủ cấp sĩ quan lănh đạo. Khi Tổng Thống Roosevelt đắc cử năm
1930, chính sách New Deal được mang ra để
giải quyết nền kinh tế khủng
hoảng. Một tổ chức gọi là Civilian
Conservation Corps thu hút hơn 300 ngàn người
trẻ không có việc để thực hiện
những chương tŕnh như xây trường
học, tu bổ công ốc, xẻ đường,
khơi sông và trồng rừng. Chương tŕnh
này gặp khó khăn bước đầu v́
tất cả đoàn viên đều là dân
thất nghiệp lười biếng và thiếu
kỷ luật, nên ông được giao phó
nhiệm vụ này. Nhờ áp dụng tổ
chức quân đội và dùng sĩ quan điều
hành, ông đă thực hiện chương tŕnh này
tốt đẹp.
Năm 1934 nhiệm kỳ Tham Mưu Trưởng
đáo hạn, ông vận động ở
lại để có thể thực hiện
nhiều chương tŕnh khác, nhưng không
được. Trong lúc đang khó xử, v́ ông
sẽ trở lại cấp cũ, th́ phái đoàn
Chính Phủ Phi Luật Tân sang Washington nhờ chính
phủ Hoa Kỳ giới thiệu một vị
cố vấn quân sự để thành lập
đội quân chuẩn bị cho một nước
Phi Luật Tân sắp được Hoa Kỳ trao
lại độc lập vào năm 1946. Nếu
nhận chức vụ này ông phải rời quân
đội. Đó là một khổ tâm của ông,
mặc dù ông hưởng được nhiều
quyền lợi lớn. Cuối cùng buộc ḷng,
ông chấp nhận, và chính phủ đặc phái
Đại tá Eisenhower đi theo làm phụ tá cho ông.
Vào năm 1940, Đế quốc Nhật Bản
đang bành trướng thế lực trong vùng Đông
Nam Á. V́ thời gian cấp bách và ngân sách eo
hẹp nên ông phỏng theo Thụy Sĩ lập
một đạo quân trừ bị, nghĩa là
chỉ duy tŕ một đạo quân hiện
dịch 40 ngàn, c̣n ngoài ra sẽ đào tạo
một đạo quân trừ bị khoảng 200
ngàn người trong thời gian 6 năm, khi b́nh thường ở nhà, khi có chiến tranh sẽ
trở lại nhập ngũ. Đó là một kế
hoạch sai lầm, v́ đạo quân này ô
hợp tan rả nhanh chóng khi quân Nhật đổ
lộ lên Luzon vào năm 1941.
Sau khi chiếm Triều Tiên, Măn Châu, miền
Bắc Trung Hoa, các tỉnh Thượng Hải,
Bắc Kinh và Đài Loan, Nhật Bản thấy không
đủ sức để chiếm nốt Trung
Hoa, nên ngừng lại và quay ra bành trướng
trong vùng Thái B́nh Dương để chiếm các tài
nguyên quan trọng cần cho bộ máy chiến
tranh như dầu hỏa ở Nam Dương, cao su
ở Mă Lai và hầm mỏ ở Úc. Khởi
sự Nhật đưa quân vào Đông Dương năm
1940 với sự đồng ư của Pháp để
đánh chiếm Mă Lai, Singapore, và tiếp tục
đổ quân chiếm các quần đảo
Marinas, Solomons và Papua New Guinea để xâm
chiếm Úc. Trước t́nh h́nh nghiêm trọng, Bộ
Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ gọi ông trở
lại quân đội và thăng ông cấp Tướng 3 sao vào tháng 7 năm 1941 làm tư
lệnh quân đội Hoa Kỳ và Phi Luật Tân.
Khi quân Nhật th́nh ĺnh oanh tạc Pearl Harbour ngày
8/12/41, ông được thăng lên tướng 4 sao
chỉ huy tất cả lực lượng Hoa Kỳ
ở Thái B́nh Dương.
Lực lượng Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân
chỉ gồm có 3 sư đoàn với quân
số không đầy đủ dưới quyền
chỉ huy của tướng Wainwright, ông yêu cầu
Bộ Tổng Tham Mưu gửi thêm quân và vũ
khí, nhưng không được đáp ứng, v́
ưu tiên dành cho mặt trận Âu Châu. Nên khi quân
Nhật từ Đài Loan đổ bộ 200,000 quân
cùng với hàng trăm phi cơ lên bán đảo
Luzon phía Bắc Phi Luật Tân th́ Hoa Kỳ không
chống đỡ nỗi, quân đội Hoa
Kỳ rút về cố thủ ở bán đảo
Battan cách Manila vài chục dặm về phía
Bắc, nhưng Battan thất thủ, ông và và
bộ tham mưu rời Manila rút ra đảo
Corregidor ngoài vịnh Manila. Ông cương quyết
cố thủ để chờ tiếp viện.
Bộ Tổng Tham Mưu dưới quyền tướng
Marshall yêu cầu ông rời ḥn đảo này
để qua Úc lập lực lượng
phản công, ông từ chối dù phải bỏ
mạng. Tướng Marshall lo ngại nếu
Tướng
MacArthur bị bắt sống th́ đó là một
sự nhục nhă đối với cường
quốc Hoa Kỳ và làm mất tinh thần quân
đôi Hoa Kỳ trên khắp thế giới, nên
ra lệnh ông phải rời. Hải quân được
lệnh phái tàu đến đưa ông và ban tham
mưu xuống đảo Midanao phía Nam Phi Luât Tân,
và từ đó không quân đưa ông sang Darwin,
thành phố bắc Úc. Ông cảm thấy hổ
thẹn như kẻ đào ngũ bỏ rơi quân
đội, nhưng ông hứa, “I shall return.” Đó là câu nói bất hủ đă
dày ṿ tâm hồn ông ngày đêm cho đến khi
giải phóng được Phi Luật Tân mới thôi.
Khi ông vừa đến Darwin th́ không quân
Nhật dội bom xuống thành phố này. Khi
xuống Melbourne ông được Thủ Tướng Úc John Curtin và dân chúng thành phố này
đón mừng như một vị anh hùng. Trong
khi đó ở Hoa Kỳ bộ máy tuyên truyền
ca ngợi ông để nâng cao tinh thần quân
đội, các hội hè, các đoàn thể và các
trường học đều treo cờ và h́nh
ảnh của ông.
Ông được cử làm chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ và các
nước Đồng Minh
ở Viễn Đông, nhưng ông khổ tâm v́ quân
lực Hoa Kỳ chưa có mặt trên đất
Úc. Trong khi đó nước Úc đang bao trùm trong
một bầu không khí bại trận đến
nơi, v́ Úc đang bị bỏ ngơ, quân lực
Úc gồm 4 sư đoàn thiện chiến đang
ở mặt trận Bắc Phi, Hải quân Úc
đang ở Đia Trung Hải và không lực Úc
đang ở Trung Đông, nên dân chúng lo sợ quân
Nhật có thể xuất hiện bất cứ
ở đâu và bất cứ lúc nào. Sự
có mặt của ông mang lại một niềm hy
vọng lớn cho dân Úc. Ông đặt bản
doanh tại thành phố Brisbane, ngụ tại khách
sạn Lennon và làm việc tại ṭa nhà AMP. Khi
mặt trận Âu Châu bắt đầu nghiêng
về phe Đồng Minh, Tổng Tham Mưu Trưởng
Hoa Kỳ mới bắt đầu nghĩ đến
chiến trường Viễn Đông, quân đoàn 8 do Tướng Eichelberger và nhiều phi đoàn vận
tải và chiến đấu được gửi
sang Úc.
Chiến lược của Nhật là một
mặt chiếm các quần đảo Solomons, Papua
Guinea, và một mặt khác diệt tan hạm
đội Hoa Kỳ, cắt đứt đường
hải vận từ Hoa Kỳ, tức là làm bá
chủ được vùng Thái B́nh Dương, và
vấn đề xâm chiếm Úc không c̣n khó khăn
nữa, nên Nhật đă oanh tạc Trân Châu
Cảng ngày 8/12/41 ḥng tiêu diệt hạm đội
7 của Hoa Kỳ, nhưng không thành công, nên qua năm
sau, Đô đốc Yomamoto dẫn hạm đội
hùng hậu với 4 hàng không mẫu hạm
chứa trên hàng trăm phi cơ quyết tâm tiêu
diệt hạm đội Hoa Kỳ. Nhờ
bắt được tín hiệu mật của
Nhật, Hải quân Hoa Kỳ phát hiện sớm
và đánh tan đoàn chiến hạm Nhật
gần đảo Midway. Trận hải chiến này
đă xoay chiều mặt trận Thái B́nh Dương.
Trong khi đó, Tướng MacArthur bắt đầu
phản công những quần đảo. Những
trận đánh chiếm những căn cứ Nhât
trên các quần đảo này là những trận
đẫm máu đắt giá với 1 đổi
2, bởi v́ quân Nhật cố thủ trong
những hầm hố kiên cố. Sau khi chiếm
được đảo Solomons, Hoa Kỳ và Úc
bắt đầu phản công New Guinea. Khi các căn
cứ lớn như Rabaul, Lae, Gona và Buna lọt vào
tay Hoa Kỳ, và quân Úc đánh tan được quân
Nhật ở con đường ṃn Kokoda phía Bắc
thị trấn Moresby của Papua New Guinea th́ Đồng
Minh coi như làm chủ t́nh h́nh quần đảo
này, và Tướng MacArthur tuyên bố với dân Úc
mối đe doa Nhật không c̣n nữa.
Bây giờ Tướng MacArthur mới nghĩ
đến kế hoạch giải phóng Phi Luật
Tân như lời hứa, nhưng các tư
lệnh Hải Quân và Không Quân muốn bỏ Phi
Luật Tân mà đánh thẳng vào Nhật.
Tổng Thống Roosevelt bay sang Hawaii họp với
các tướng vùng Viễn Đông để vạch
một kế hoạch phản công. Ông thuyết
phục Tổng Thống Roosevelt phải giải phóng
Phi Luật Tân.
Ông được thăng cấp tướng 5
sao ngày 18/12/44 chỉ huy các lực lượng
Viễn Đông. Vào năm 1944, quân Đức bị
đẩy lui khắp các mặt trận Âu Châu, nên
mặt trận Viễn Đông được tăng cường. Cuộc đổ bộ lên đảo
Leyte phía Đông Phi Luật Tân gồm một hạm
đội trên 1000 chiếc và hàng trăm máy bay hùng
hậu chẳng kém trận Normandy. Tướng
MacArthur lội nước từ chiếc tàu đổ
bộ bước lên băi biển, đầu đội
chiếc nón két tài tử và ngậm ống vố là
h́nh ảnh lịch sử khó quên, và từ đó
quân đội Mỹ tiến chiếm Luzon và giải phóng
Manila vào tháng 2, 1945.
Hải quân tiến chiếm các đảo
chiến lược như Saipan, Iwo Jima và cuối
cùng là Okinawa gần Nhật. Đây là một
trận đẩm máu nhất, cả 2 bên đều
thiệt hại nặng, Hoa Kỳ phải trả
gía 50 ngàn quân mới chiếm được ḥn
đảo này.
Kế hoạch đánh thẳng vào nội
địa Nhật bắt đầu, hàng trăm
pháo đài bay B-29 từ các căn cứ trên Thái
B́nh Dương hàng ngày dội hàng ngàn tấn
bom xuống các thành phố kỹ nghệ Nhật, nhưng
Nhật chưa chịu đầu hàng. Căn
cứ vào mức thiệt hại nặng ở
trận Okinawa, Tổng Thống Truman không muốn
Hoa Kỳ phí tổn và kéo dài cuộc chiến
tranh, nên hạ lệnh thả 2 qủa bom nguyên
tử xuống Hiroshima ngày 6/8 và Nagazaki ngày 9/8
khiến Nhật đầu hàng vô điều
kiện vào ngày 15/8/45.
Tướng MacArthur được cử làm
Chỉ Huy Tôi Cao các lực lượng Đồng Minh
chiếm đóng Nhật. Lễ đầu hàng
được diễn ra trên chiến hạm Missouri,
Tướng MacArthur oai phong với chiếc nón két
phong sương, cổ không thắt cà vạt như
thường lệ chủ tọa buổi lễ.
Khi quân đội chiếm đóng Hoa Kỳ
đặt Bộ Chỉ Huy trên đất
Nhật, ai cũng tưởng Tướng MacArthur
sẽ thi hành một chính sách trả thù không nương
tay đối với sự tàn ác của quân
đội Nhật, nhưng ngược lại ông là
một nhà chính trị khôn ngoan. Lúc đầu ông
định thiết lập chế độ quân
quản và lập ṭa án quân sự, nhưng
thủ tuớng Yokoda cam kết sẽ thi hành nghiêm
chỉnh văn kiện kư kết, nên ông bỏ ư
định này, và quả nhiên 3 tháng sau tất
cả vũ khí, máy bay, tàu chiến đều
được giao trọn cho lực lượng
chiếm đóng. Một vài nước đồng
minh yêu cầu tháo gỡ máy móc kỹ nghệ
của Nhật để đền bù thiệt
hại chiến tranh, và bắt xử Nhật Hoàng
về tội ác chiến tranh, ông từ chối,
bởi v́ bây giờ ông không cầm quân nữa,
mà đang đối phó với nền kỹ
nghệ sụp đổ, nạn thất
nghiệp và các đảng chính trị thiên
tả của Nhật. Cho nên vấn đề
cấp bách là phục hồi nền kinh tế
Nhật để giải quyết nạn thất
nghiệp trầm trọng do hàng triệu quân
Nhật giải ngũ, và dân chủ hoá một nước
quân phiệt độc tài.
Ông có công lớn đưa ra một bản
dự thảo Hiến Pháp Nhật và được
Quốc Hội Nhật chấp nhận với
những nguyên tắc dân chủ như: biến nước
Nhật quân chủ chuyên chế quân phiệt thành
một nước quân chủ lập hiến,
biến nền kinh tế chỉ huy thành kinh
tế thị trường, bỏ chế độ
trợ cấp Thần đạo tôn sùng Nhật
Hoàng, thành lập các nghiệp đoàn lao động,
cải cách ruộng đất, phá bỏ
những tổ hợp công ty gia đ́nh phục
vụ cho bộ máy chiến tranh.
Mặc dù Hoa Kỳ có viện trợ cho
Nhật để tái thiêt nền kinh tế, nhưng
Nhật không hưởng được chương
tŕnh viện trợ Marshall như ở Âu Châu,
nền kinh tế Nhật vẫn thấp kém, nên
sau 3 năm chiếm đóng ông kêu gọi Hoa
Kỳ thực hiện một hiệp ước b́nh
đẳng để giúp Nhật Bản phát
triển kinh tế với các quốc gia khác. Lúc
này ông nghĩ đến hoà b́nh hơn là
chiến tranh, nên ông bị công kích là đă
bỏ quên vấn đề quân sự.
Ngày 25/6/50 quân Bắc Hàn đột nhiên xua
quân sang vĩ tuyến 38 chia đôi Nam-Bắc Hàn,
quân Nam Hàn tháo chạy xuống Pusan, thị
trấn cực Nam của Nam Hàn, Hoa Kỳ với
quân số ít cũng không ngăn chận được.
Ông được cử làm tư lệnh tối
cao quân đội các nước Liên Hiệp
Quốc.
Lực lượng Hoa Kỳ chiếm đóng
ở Nhật và Viễn Đông được
gởi sang Nam Hàn. Nhưng muốn đẩy lui quân
Bắc Hàn trở lại vĩ tuyên 38, Tướng
MacArthur tính Hoa Kỳ phải tổn thất ít
nhất trên một trăm ngàn quân, nên ông nghĩ
ra một chiến thuật táo bạo, là bỏ
mặt trận phía Nam mà đánh tập hậu
ở hải cảng Inchon gần vỹ tuyến
38, cách Hán Thành 20 dặm về hướng Tây Nam và
cách Pusan 130 dặm để cắt đứt
nguồn tiếp vận lương thực, vũ
khí và binh lính Bắc Hàn. Ông gửi kế
họach về Tổng Tham Mưu và yêu cầu tăng
viện một sư đoàn Thủy Quân Lục
Chiến. Tổng Tham Mưu không tin tưởng
kế hoạch này, nên cử một phái đoàn
gồm 3 tướng Tư Lệnh Lục, Hải, Không
Quân và Tướng Chỉ Huy Quân Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến sang Tokyo để tŕnh bày
những điểm bất lợi về địa
thế, thời tiết và tiếp vận mà nguyên
tắc chiến thuật không cho phép. Ông b́nh tĩnh
trả lời từng điểm và đánh tan
mọi sự hồ nghi của Ban Tham Mưu Trung Ương,
và kết luận: “Đây
là một ván cờ khó khăn, 1 đối
với 5000, nhưng tôi chấp nhận. Nếu như
thất bại tôi lănh chịu trách nhiệm, và tôi
sẽ cùng binh sĩ chiến đấu rút lui, c̣n
qúy vị không mất ǵ cả, danh tiếng
của tôi sẽ bị chôn vùi. Tôi chỉ xin qúy
vị cấp cho tôi một sư đoàn TQLC để
đánh tan quân địch”. Ban Tham Mưu
không c̣n lư do ngăn cản và đă đồng
ư.
Đến ngày 15/9/50, Tướng MacArthur đứng
trên chiến hạm với Tướng Chỉ Huy
TQLC tiến về hải cảng Inchon. Bờ
biển Inchon b́nh thường rất cạn, nuớc
triều mỗi ngày lên xuống 2 lần là
những lúc tàu có thể vào bờ. Khi cơn
triều thứ nhất dâng lên vào lúc 8 giờ sáng,
một đơn vị TQLC chiếm ḥn đảo
nhỏ trước mặt hải cảng Inchon
chẳng gặp khó khăn, và khi cơn triều
thứ nh́ lên cách 8 giờ sau, th́ cả sư
đoàn trên các tàu đổ bộ tiến vào
bờ mà chẳng gặp sự kháng cự đáng
kể. Bị yếu tố bất ngờ Bắc
Hàn không chống cự được, trong khi
đó lực lượng Hoa Kỳ từ Pusan đánh
lên ở thế trên búa dưới đe, Bắc Hàn
tan rả và chạy trở lại vỹ tuyến
38.
Với
chiến thuật lừng lẫy này MacArthur trở
thành một thiên tài quân sự, và tên tuổi
đi vào lịch sử. Các danh tướng từ
cổ chí kim và từ Đông sang Tây thường hay
ỷ công và bất phục tùng. Tướng MacArthur
cũng không thóat khỏi thông lệ đó. Điều
này có một ảnh hưởng tai hại cho danh
vọng chính trị của ông về sau.
Lần thứ nhất khi làm tổng Tham Mưu
Trưởng Quân Lực Hoa Kỳ dưới thời
Tổng Thống Hoover. Khi cuộc khủng
hoảng kinh tế xẩy ra, hàng trăm ngàn
cựu chiến binh mất việc yêu sách chính
phủ trả trợ cấp hưu trí liền
thay v́ phải chờ đến 60 tuổi, nhưng
chính phủ không chấp nhận, nên họ
tập họp thành một đoàn biểu t́nh
gọi là Bonus Marchers kéo về thủ đô
Washington chiếm một số công ốc và gây
bạo động, cảnh sát được
lệnh dẹp đoàn biểu t́nh, nhưng
bất lực. Chính phủ giao cho quân đội,
Tướng MacArthur cởi ngựa điều
động toán quân với súng gắn lưỡi lê
và lựu đan cay thẳng tay dẹp đoàn
biểu t́nh, và theo chỉ thị ông phải
ngừng lại bên này sông Potomac, th́ ông ra
lệnh cho quân đội vượt qua cầu cào
sạch lều trại của đoàn biểu t́nh.
Vụ đàn áp này làm dân chúng công phẩn, và
bị báo chí lên án là một hành động phát
xít chà đạp quyền tự do biểu t́nh
của dân chúng của một nước tự
do dân chủ ngay giữa Thủ Đô Hoa Kỳ.
Cuộc đàn áp này Tổng Thống Hoover đă
trả giá bằng cuộc thất bại tranh
cử lần thứ 2, c̣n Tướng MacArthur mang một
vết dơ không tẩy xóa đuợc.
Và lần thứ hai, sau khi dồn quân
Bắc Hàn trở lại vỹ tuyến 38, ông
được lệnh của Tổng Tham Mưu và
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vượt
qua vĩ tuyến này để giúp Bắc và Nam Hàn
thống nhất theo Ḥa Ước kư kết giữa
các nuớc Đồng Minh sau Thế Chiến II, nhưng
không được tiến gần sát ranh giới
Trung Cộng. Đồng thời Tổng Thống
Truman bay sang đảo Wake để gặp Tướng
MacArthur tỏ sự lo âu một cuộc tham
chiến của Trung Cộng.
Giữa Tổng Thống Truman và Tướng
MacArthur vẫn có một sự hiềm khích nhau.
Sau khi Nhật đầu hàng, Tổng Thống
Truman hai lần mời Tướng MacArthur về Hoa
Kỳ, nhưng MacArthur thoái thác viện cớ
bận rộn công việc, Tổng Thống Truman
tức bực, nhưng không dám ra lệnh
triệu về, v́ Tướng MacArthur là một
vị anh hùng. Và sau trận Inchon th́ uy danh của
ông lấn át tất cả chính khách Hoa Kỳ,
trong khi uy tín của Tổng Thống Truman đang
tụt giảm. Khi Tổng Thống Truman bay sang
đảo Wake để gặp Tướng MacArthur,
th́ theo nghi lễ Tướng MacAthur phải bay
đến trước để đón tiếp
một vị Tổng Thống vừa là Tổng Tư
Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ, th́ trái lại
MacAthur ra lệnh cho máy bay hạ cánh cùng lúc
với máy bay của Tổng Thống Truman, Tướng
MacArthur vẫn ăn mặc thường lệ
với chiếc nón phong sương và không mang cà
vạt khiến Tổng Thống Truman tức
giận trong ḷng và chờ một cơ hội khác
để cất chức. Trong buổi nói
chuyện MacArthur bỏ ngoài tai mối lo sợ
của vị Tổng Thống, và cả khi
Tổng Thống Truman mời MacArthur ăn cơm
chiều th́ Tướng MacArthur cũng từ
chối.
Sau trận Inchon, các tướng trong bộ
Tổng Tham Mưu tự thấy ḿnh nhỏ bé, và
không dám tỏ bày ư kiến khi Tướng
MacArthur cho quân đội Hoa Kỳ tiến sát biên
giới Trung Cộng và cho Không Quân đánh sập các
cây cầu trên sông Yulu giữa Trung Cộng -
Bắc Hàn, và quả nhiên đưa đến
sự can thiệp của Trung Cộng. Hoa Kỳ
bị đánh tan, và Trung Cộng vượt qua vĩ
tuyến 38 lại và tiến về Pusan. Hoa Kỳ
phải khó khăn và thiệt hại nặng
mới đẩy Trung Cộng về lại vĩ
tuyến 38.
Cuộc chiến tranh dây dưa và tổn
thất nặng khiến dân chúng Hoa Kỳ đ̣i
chấm dứt chiến tranh sớm. Tổng
Thống Truman trước sự chống đối
của dân chúng đang t́m cách dàn xếp ngưng
chiến với Trung Cộng, th́ Tướng MacArthur
tuyên bố trên báo chí sẽ dùng Không Lực
dội bom các vùng kỹ nghệ Trung Cộng
nếu không chịu rút quân. Lời tuyên bố này
đi ngược đường lối của chính
phủ, và chứng tỏ một sự bất
phục tùng, nên Tổng Thống Truman quyết
định lấy tư cách Tổng Tư
Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ cất chức Tướng MacArthur Tư Lệnh các nước Liên
Hiệp Quốc, Tư Lệnh các lực lượng
Đồng Minh chiếm đóng Nhật và Tư
Lệnh Hoa Kỳ ở Viễn Đông và
triệu hồi ông về Hoa Kỳ ngay.
Khi dân chúng Nhật nghe tin này, một số
đông coi như môt cái tang trong gia đ́nh. Khi ông
rời phi truờng Tokyo, hơn 250 ngàn dân Nhật
đứng 2 bên đường tiễn đưa thương
tiếc, và khi máy bay đáp xuống sân bay San
Francisco, mặc dù không được loan báo chính
thức hơn 500 ngàn nguời tụ tập đón
tiếp, và khi ông xuất hiện chính thức
ở thành phố New York, hơn 7 triệu dân chúng
đổ ra đường đón tiếp ông.
Trong bài điều trần trước lưỡng
viện Quốc Hội Hoa Kỳ, ông được
vổ tay hoan nghênh khiến ông phải ngưng
lại nhiều lần mà vị Chủ Tịch
Quốc Hội là Joe Martin nói ông chưa hề
thấy một chính khách nào được hoan nghênh
như vậy suốt 50 năm ở chính trường. Ông có nghệ thuật viết và nói
trước đám đông. Trong pḥng làm việc
của ông khi nào cũng có gắn một tấm
gương lớn. Mỗi lần viết xong một
bài nói chuyện, ông thường đứng trước tấm
gương học cách diễn tả
trong lời nói và dáng điệu. Trong bài điều trần trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, ông kết thúc như sau: “Tôi đang khép cánh cửa cuộc đời binh nghiệp 52 năm. Khi tôi gia nhập quân đội trước khúc quanh thế kỷ, mọi hy vọng và ước mơ thơ ấu đă thành tựu. Thế giới đă đổi thay bao phen kể từ khi tôi tuyên thệ trên vũ đ́nh Trường West Point, và những giấc mộng và uớc mơ đă tan biến từ lâu. Nhưng tôi vẫn c̣n nhớ điệp khúc một bài ca quen thuộc nhất trong doanh trại của thời đó được hát một cách kiêu hùng: “Người lính già không bao giờ chết, họ chỉ phai mờ di”. Và giống như người lính già của câu hát đó, tôi đang khép cửa cuộc đời binh nghiệp và phai mờ đi, và người lính già đă cố gắng làm tṛn nhiệm vụ mà Thượng Đế đă soi sáng để thấy nhiệm vụ đó. Xin chào tạm biệt.” (I am closing my fifty
two years of military service. When I joined the army before the
turn of the century, it was the fulfillement of my boyish hopes and
dreams. The world has turned over many times since I took the oath
on the plain at West Point, and the hopes and dreams have long since
vanished. But I still remember the refrain of one of the most
popular barrack ballads of that day which proclaimed most proudly
that: “Old soldiers never
die, they just fade aways.” And like the old soldier of that
ballad I now close my military career and just fade away, and old
soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see
that duty. Goodbye!) Cả
Lưỡng
Viện Quốc Hội đều đứng
dậy vổ tay hoan nghênh, và một số
mắt hoen lệ.
Trần Xuân Hiền
|
|||
Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.
|