Tông huấn
Người
Tín hỮu giáo dân
Christifideles laici
của
Đức thánh cha Gioan-Phaolô II
Về Ơn Gọi Và Sứ Mạng Của Giáo
Dân
trong Giáo HỘi và
thẾ giỚi
30/12/1988
Nhập đề
1. Các kitô-hữu giáo dân
2. Cả các anh nữa, vào làm vườn
nho cho tôi đi !
3. Những thúc bách hiện tại
của thế giới
4. Khuynh hướng duy thế tục và
nhu cầu tôn giáo
5. Nhân vị con người …
6. Những t́nh huống xung đột
và ḥa b́nh
7. Đức Giêsu-Kitô, niềm hy
vọng của thế giới
Chương I
ThẦy
là cây nho, anh em là cành
Phẩm giá của giáo dân trong Giáo
Hội – Mầu Nhiệm
8. Mầu nhiệm cây nho
9. Giáo dân là ai?
10. Bí tích Thánh Tẩy và sự mới
mẻ Kitô-giáo
11. Con cái Thiên Chúa trong người Con
duy nhất
12. Một thân thể duy nhất trong
Đức Kitô
13. Đền thờ sống động
của Chúa Thánh Thần
14. Những người tham dự vào
chức vụ tư tế,
ngôn
sứ và vương giả của Đức Giêsu-Kitô
15. Giáo dân và tính cách trần thế
16. Những người được
mời gọi nên thánh
17. Thánh hóa bản thân trong thế
giới
Chương II
TẤt
cẢ là những cành nho cỦa mỘT Cây nho duy
nhẤt
Sự tham dự của giáo dân vào
đời sống của Giáo Hội – Hiệp Thông
18. Mầu nhiệm Giáo Hội –
Hiệp Thông
19. Công Đồng và Giáo-hội-học
hiệp thông
20. Một sự hiệp thông hữu
thể: khác biệt và bổ túc
21. Các tác vụ và đoàn sủng,
những
ân huệ do Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội
22. Các tác vụ do bí tích Truyền
Chức Thánh
23. Các tác vụ, chức vụ và
nhiệm vụ của giáo dân
24. Các đoàn sủng
25. Sự tham dự của giáo dân vào
đời sống Giáo Hội
26. Giáo xứ
27. Dấn thân hoạt động tông
đồ trong giáo xứ
28. Các h́nh thức tham gia trong sinh
họat Giáo Hội
29. Các h́nh thức tham gia tập
thể
30. Các tiêu chuẩn có tính Giáo Hội
đối
với những hiệp hội giáo dân
31. Các chủ chăn phục vụ cho
việc hiệp thông
Chương III
ThẦy
đă cẮt cỬ anh em đỂ anh em ra đi, thu
đưỢc kẾt quẢ
Tinh thần đồng trách nhiệm
của giáo dân trong Giáo Hội – Truyền Giáo
32. Hiệp thông trong truyền giáo
33. Loan báo Tin Mừng
34. Đă đến lúc phải
thực hiện một cuộc Phúc-âm-hóa mới
35. Hăy đi khắp tứ phương
thiên hạ
36. Sống Tin Mừng qua việc
phục vụ con người và xă hội
37. Cổ vơ phẩm giá con người
38. Tôn trọng quyền sống,
một quyền bất khả xâm phạm
39. Tự do kêu cầu Danh Chúa
40. Gia đ́nh, không gian đầu tiên
để dấn thân vào xă hội
41. Đức ái, linh hồn và sự nâng
đỡ của t́nh liên đới
42. Những người tham gia vào đời
sống chính trị
và
những người được hưởng lợi
ích của đời sống đó
43. Đặt con người ở trung
tâm đời sống kinh tế – xă hội
44. Việc phúc-âm-hóa văn hóa và các
nền văn hóa của con người
Chương IV
NhỮng
ngưỜi thỢ làm vưỜn nho cỦa Chúa
Những nhà quản lư tuyệt
vời
với
ân sủng đa dạng của Thiên Chúa
45. Sự khác nhau giữa các ơn
gọi
46. Thanh niên hay giới trẻ, niềm
hy vọng của Giáo Hội
47. Thiếu nhi và Nước Trời
48. Người cao niên và ơn khôn
ngoan
49. Nữ giới và nam giới
50. Những nền tảng nhân học
và thần học
51. Sứ vụ trong Giáo Hội và trong
thế giới
52. Người nam và người
nữ cùng hiện diện và cộng tác với nhau
53. Các bệnh nhân và các người
đau khổ
54. Canh tân họat động mục
vụ
55. Các bậc sống và các ơn
gọi
56. Các ơn gọi khác nhau của giáo
dân
Chương V
ĐỂ
anh em sinh nhiỀu hoa trái
Việc huấn luyện giáo dân
57. Luôn đạt đến sự trưởng
thành hơn
58. Khám phá và sống ơn gọi cũng
như sứ vụ cá nhân của ḿnh
59. Huấn luyện toàn vẹn để
có một đời sống thống nhất
60. Các khía cạnh của việc
huấn luyện
61. Những cộng tác viên của Thiên
Chúa, Nhà giáo dục
62. Các môi trường giáo dục khác
63. Mọi người huấn luyện
lẫn nhau
64. Kêu mời và cầu nguyện
Lời
Giới Thiệu
Như
chúng ta biết “Ơn gọi và sứ mệnh
của người giáo dân trong Giáo Hội và giữa
trần thế” đă được Công Đồng
Vatican II đề cập đến trong bốn văn
kiện rất quan trọng:
- Hiến
Chế “Ánh Sáng Muôn Dân” (Lumen
Gentium) nói
đến Giáo Hội đă dành trọn Chương
IV để nói về căn bản thần học
của vị trí người giáo dân trong Giáo
Hội.
- Hiến
Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” (Gaudium
et Spes) nói đến
tương quan mật thiết giữa Giáo Hội và
trần thế, tŕnh bày cho chúng ta thấy ơn
gọi và nghĩa vụ muôn mặt của người
giáo dân giữa cộng đồng nhân loại.
- Văn
kiện Thứ Ba và Thứ Tư là: Sắc Lệnh
“Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo
Hội” (Ad
Gentes) và
Sắc Lệnh “Tông Đồ Giáo Dân” (Apostolicam
Actuositatem) nói
về bổn phận truyền giáo của người
giáo dân.
Bao
nhiêu tư tưởng súc tích chứa đựng trong
4 văn kiện này, đă được Thượng
Hội Đồng Giám Mục năm 1987 lấy lại
để nghiên cứu rộng răi sâu xa hơn nhờ
kinh nghiệm mục vụ của 20 năm sau Công Đồng
Vatican II.
Tông
Huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có
mục đích tŕnh bày lại một cách rỏ ràng và
đầy đủ tất cả công việc của
Thượng Hội Đồng Giám Mục, như chính
lời Ngài quả quyết: “Sau khi công việc đă
hoàn thành… các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng
đă bày tỏ ḷng mong ước xin ‘ta’ vào một
thời điểm thuận tiện, tŕnh bày cho Giáo
Hội hoàn vũ một văn kiên tóm lược đúc
kết về hàng giáo dân Công Giáo… Văn kiện này (v́
thế) không nằm ngoài lề Thượng
Hội Đồng Giám Mục; trái lại nó là
những lời diễn tả mạch lạc và trung
thực của Thượng Hội Đồng” (Tông
Huấn, 2).
Khi
ban hành bức Tông Huấn, Đức Giáo Hoàng nhằm
mục đích đào tạo người giáo dân
trở thành những “viên đá sống động”
xây dựng Giáo Hội. V́ thế Tông Huấn này
phải là “thủ bản” cho mỗi người tín
hữu giáo dân.
Là
tài liệu đúc kết cả một công tŕnh vĩ
đại của Công Đồng, và của Thượng
Hội Đồng Giám Mục, bao gồm nhiều ngành
chuyên môn như thần học, triết học, nhân
chủng học… nên không dễ ǵ một người
giáo dân tự ḿnh am tường hết được.
V́ thế, trước khi trở thành cuốn “thủ
bản” Tông Huấn này phải là một tài liệu
học tập. Đă là tài liệu học tập, nó
cần có người hướng dẫn, và kẻ hướng
dẫn giáo dân, tưởng rằng, không ai ngoài các
vị chủ chăn, các vị Tuyên Úy.
Như
chúng ta thấy trong bản “mục lục”, Đức
Giáo Hoàng đă tŕnh bày đề tài “ơn gọi và
sứ mệnh của người tín hữu giáo dân
trong Giáo Hội và giữa trần thế” thành 3 chương
chính yếu và 2 chương phụ thuộc.
- Chương
1:
Nói đến Giáo Hội Mầu Nhiệm (Eglise
Mystère) phát xuất từ Thiên Chúa. Nhờ Phép
Rửa Tội, người tín hữu giáo dân trong Giáo
Hội có cùng một tước hiệu là “Con Chúa”;
có cùng một chổ đứng là thành phần
Nhiệm Thể Chúa Kitô. V́ thế, họ cũng như
các linh mục, tu sĩ đều lảnh nhận
từ Chúa Kitô ba chức vụ của Ngài là: Tư
Tế, Ngôn Sứ, và Vương Giả.
- Chương
2:
Nói đến Giáo Hội Hiệp Thông (Eglise
Communion). Đó là điều chúng ta tin trong kinh
Tin Kính: “Các Thánh Thông Công”. Trong sự hiệp thông
của mọi thành phần của Giáo Hội, người
tín hữu giáo dân có một ơn gọi, và nắm
giữ mội sứ mệnh theo địa vị giáo
dân của ḿnh. Ơn gọi sứ mệnh này khác
biệt nhưng bổ túc cho ơn gọi và sứ
mệnh của linh mục và tu sĩ.
- Chương
3:
Nói về Giáo Hội Thừa Sai (Eglise
Mission). Giáo Hội “tự bản tính ḿnh là
thừa sai” (Ad Gentes, 1), Giáo Hội
được Chúa giao phó sứ mệnh đem Tin
Mừng Phúc Âm cho mọi người. Trong sứ
mệnh thừa sai này của Giáo Hội, người
tín hữu giáo dân giữ một vai tṛ đặc
biệt giữa trần thế là “đem đạo
vào đời”, là thánh hóa tất cả người
tín hữu giáo dân.
- Chương
4:
Nói về Ơn Gọi và Sứ
Mệnh của người tín hữu giáo dân,
không phân biệt giai cấp, thành phần tuổi tác,
trai gái, khỏe mạnh cũng như bệnh tật
khổ đau. Trong Giáo Hội, mỗi người
đều được gọi và có sứ
mệnh xây dựng nước Chúa.
- Chương
5:
Nói đến việc Đào Tạo và Huấn
Luyện các tín hữu giáo dân, để
họ hiểu rỏ và sống ơn gọi của
ḿnh trong Giáo Hội và giữa trần thế như
ư Chúa muốn. Sự đào tạo này phải là
một sự đào tạo toàn diện để người
tín hữu trở nên kẻ cộng tác với Thiên
Chúa và Nhà Giáo Dục kiểu mẫu.
Với
bức Tông Huấn nầy, Đức Giáo Hoàng kêu
gọi mọi người giáo dân, nhất là thanh niên
nam nữ, ư thức một cách rỏ rệt sâu xa
phẩm giá Ki-tô hữu của ḿnh và sống với các
đ̣i hỏi của phẩm giá ấy một cách
hữu hiệu trong thế giới hôm nay.
Có
lẽ cho đến bây giờ, nhiều người tín
hữu giáo dân không ư thức như trên nên đă
sống như một thành phần “thụ động”
trong Giáo Hội, hay nói như Thánh Phaolô, sống “như
trẻ con”, nghĩa là tưởng rằng mọi
bổn phận tông đồ truyền giáo mục
vụ nhằm bảo tồn và phát triển Giáo
Hội đều thuộc về linh mục và tu sĩ
nam nữ.
Không!
hôm nay hơn bao giờ hết, chính Giáo Hội đă
ư thức sứ mệnh của ḿnh phải thánh hóa các
thực tại trần thế đang biến đổi
từng giây phút và đang đe dọa lôi kéo con người
lạc xa Thiên Chúa.
Hôm
nay, chúng ta đang ở trong bối cảnh lịch
sử của thời bắt đạo. Hăy bắt chước
Cha Ông chúng ta, họ đă đóng “vai tṛ chủ
động” để bảo tồn và mở mang nước
Chúa. Họ đă lấy máu đào rưới đổ
miền đất quê hương chúng ta nên hôm nay Giáo
Hội Việt Nam trưởng thành ngang hàng với các
Giáo Hội hoàn cầu. Họ đă thay thế các linh
mục để dạy Giáo Lư, Rửa Tội,
đưa Ḿnh Thánh Chúa vào ngục tù; đă chủ
tọa các buổi cử hành phụng vụ Chủ
Nhật, đă nuôi nấng che dấu các linh mục
trong lúc các ngài bị tầm nă bắt bớ…
Trong
t́nh trạng của các Cộng Đoàn Công Giáo tại
hải ngoại hôm nay, thiếu linh mục trầm
trọng. Nhiều vị Tuyên Úy đă lănh trách
nhiệm nhiều công đoàn rải rác vùng đất
3, 4, 5 giáo phận. Các vị cần những giáo dân
cộng sự đắc lực như Tổ Tiên
Tử Đạo của chúng ta để đáp
lại những nhu cầu mục vụ tông đồ
cấp bách trong những miền xa xăm.
Đức
Giáo Hoàng đă cho chúng ta cơ hội để
sống xứng đáng con cháu Tổ Tiên Tử Đạo
của chúng ta.
Chúng
ta hăy hiệp với Đức Giáo Hoàng cầu xin
Đức Mẹ Nữ Vương Nước Việt
Nam, ban cho chúng ta đủ ơn Chúa để
“tiếp tay vào việc xây dựng nền văn minh
của chân lư và của t́nh yêu trên thế gian theo
ước nguyện của Thiên Chúa và để làm sáng
danh Ngài muôn đời” (Tông Huấn, lời
nguyện).
Đức
Ông Philiphê Trần Văn Hoài
Giám Đốc Văn-pḥng Trung-ương
Tông-đồ Mục-vụ Việt-nam
Hải-ngoại Rôma
Kính gửi:
Các Giám mục,
Các linh mục và phó tế,
Các tu sĩ nam nữ
Và toàn thể giáo dân
NHẬP
ĐỀ
CÁC KITÔ-HỮU GIÁO DÂN(Christifideles
laici) mà “ơn gọi và sứ vụ của
họ trong Giáo Hội và trong thế giới hai mươi
năm sau Công Đồng Vatican II” đă là chủ
đề của khóa họp Thượng-hội-đồng
Giám Mục năm 1987, các tín hữu này thuộc về
Dân Thiên Chúa, được biểu tượng qua
những người thợ làm vườn nho, như thánh
Matthêu thuật lại trong sách Tin Mừng : “Nước
Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa
tảng sáng đă ra mướn thợ vào làm việc
trong vườn nho của ḿnh. Sau khi đă thỏa
thuận với thợ là mỗi ngày một quan
tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc” (Mt
20,1-2).
Dụ ngôn của Tin Mừng mở ra
trước mắt chúng ta vườn nho mênh mông
của Chúa, và một đám đông con người,
cả nam lẫn nữ, được Chúa mời
gọi và sai đi làm tại vườn nho. Vườn
nho, chính là thế giới (x. Mt 13,38), phải
được biến đổi theo chương tŕnh
của Thiên Chúa, hướng tới ngày hoàn thành chung
cuộc của Nước Thiên Chúa.
1.
CẢ CÁC ANH NỮA, VÀO LÀM VƯỜN NHO CHO TÔI ĐI
!
“Khoảng chín giờ sáng, ông
lại trở ra, thấy có những người khác
ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông bảo
họ: ‘Cả các anh nữa, vào làm vườn nho cho
tôi đi !’ (Mt 20,3-4).
Kể từ ngày xa xưa ấy
của lịch sử, lời mời gọi trên của
Chúa vẫn không ngừng vang vọng: Lời ấy
gửi tới mọi người sống trên trần
gian này.
Ngày nay, trong luồng gió canh tân
của Thánh Thần ngày lễ Ngũ Tuần, do Công
Đồng Vatican II đem lại, Giáo Hội cảm
nghiệm sâu sắc hơn về tính chất truyền
giáo của ḿnh, và với thái độ vâng phục
quảng đại, Giáo Hội nghe lại tiếng nói
của Chúa, Đấng sai Giáo Hội vào trần gian như
“bí tích phổ quát cứu rỗi”[1].
Cả các anh nữa:
Lời mời gọi không chỉ gửi tới các
vị Chủ chăn, các linh mục, các tu sĩ nam
nữ, nhưng tới mọi người: cả các giáo
dân cũng được mời gọi đích danh,
nhận lănh từ Ngài một sứ vụ đối
với Giáo Hội và thế giới. Khi giảng
thuyết cho các kitô-hữu, Thánh Grêgôriô Cả
nhắc lại điều đó khi ngài diễn
giải dụ ngôn thợ làm vườn nho trong một
bài giảng cho dân chúng: “Anh em thân mến, hăy lưu
ư một chút về cách sống của anh em, hăy nghiêm
chỉnh xét xem anh em có phải đă là thợ làm vườn
của Chúa không. Mỗi người hăy tự xét
việc ḿnh làm và nhận định xem ḿnh có làm
việc trong vườn nho của Chúa hay không”[2].
Được thừa hưởng di
sản vô giá về giáo lư, tu đức và mục
vụ, Công Đồng đă viết những trang
thật tuyệt vời về bản tính, phẩm giá,
linh đạo, sứ mạng và trách nhiệm của giáo
dân. Họa theo lời mời gọi của Đức
Kitô, các Nghị Phụ công đồng đă
mời gọi mọi giáo dân, nam cũng như nữ, vào
làm việc trong vườn nho của Chúa: “ Nhân
danh Thiên Chúa, Thánh Công Đồng hết sức kêu
mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng
sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hăy mau
mắn, đại độ và sẵn sàng đáp
lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Đấng
giờ đây đang tha thiết mời gọi họ.
Ước ǵ giới trẻ hiểu rằng lời
mời gọi này được đặc biệt
gửi tới họ và ước ǵ họ vui mừng
và quảng đại đón nhận. Quả thật,
chính Chúa một lần nữa nhờ Thánh Công Đồng
này, mời gọi tất cả các giáo dân hăy kết
hợp với Người ngày một mật thiết hơn
và nhận thức được những ǵ của Người
cũng là của chính ḿnh (x. Pl 2,5), họ hăy tham
gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người,
và một lần nữa Người sai họ đi
tới các thành và những nơi Người sẽ
đến (x.Lc 10,1)”[3].
Cả các anh nữa, vào làm vườn
nho cho tôi đi ! Những lời này cũng âm
thầm vang vọng trong suốt thời gian Thượng-hội-đồng
Giám Mục nhóm họp tại Rôma từ ngày 01 đến
30 tháng mười năm 1987. Theo hướng đi
của Công Đồng và được những kinh
nghiệm cá nhân và cộng đoàn của toàn thể
Giáo Hội soi sáng, cộng thêm sự đóng góp
của các Thượng-hội-đồng trước,
các Nghị Phụ đă nghiên cứu sâu xa về “ơn
gọi và sứ mạng" của giáo dân trong Giáo
Hội và trong thế giới, hai mươi năm sau Công
Đồng Vatican II”.
Khóa họp này có sự hiện
diện của những đại biểu giáo dân nam
nữ ưu tú, những người đă góp phần
quư báu vào công việc của Thượng-hội-đồng.
Bài giảng bế mạc đă minh nhiên nh́n nhận
điều đó : “Chúng tôi tạ ơn Chúa v́, trong
thời gian Thượng-hội-đồng nhóm họp,
không những chúng tôi được vui mừng về
sự tham dự của các giáo dân (nam nữ dự
thính viên), nhưng hơn thế nữa v́ diễn
tiến các cuộc tranh luận đă cho chúng tôi nghe
được tiếng nói của các khách mời, là các
đại biểu giáo dân đến từ mọi
miền trên thế giới, từ những quốc gia
khác nhau. Điều đó cho phép chúng tôi sử
dụng các kinh nghiệm, các ư kiến và các đề
nghị của họ phát xuất từ ḷng yêu mến
sự nghiệp chung”[4].
Nh́n vào thời hậu-Công-Đồng,
các Nghị Phụ của Thượng-hội-đồng
đă có thể nhận thấy đâu là cách thức
được Thánh Thần sử dụng để
tiếp tục làm cho Giáo Hội thêm tươi trẻ,
bằng cách gợi lên trong Giáo Hội những năng
lực mới của sự thánh thiện, với
sự tham gia của đông đảo giáo dân. Trong
số nhiều chứng từ, chúng tôi thấy
được một chứng từ về những năng
lực đó, trong kiểu cách mới về sự
cộng tác giữa linh mục, tu sĩ và giáo dân ; trong
sự tham dự tích cực vào phụng vụ, vào
việc loan báo Lời Chúa, vào việc huấn giáo ;
trong nhiều dịch vụ và trách vụ được
trao phó cho giáo dân, và họ đă đảm nhận
rất tốt ; trong việc nở rộ các nhóm, các
hiệp hội, các phong trào tu đức và dấn thân
; trong việc tham gia rộng răi và rơ nét hơn của
phụ nữ vào đời sống của Giáo Hội
và sự phát triển của xă hội.
Đồng thời, Thượng-hội-đồng
cũng không quên ghi nhận rằng con đường
thời hậu-công-đồng của giáo dân không
phải là không có khó khăn và nguy hiểm.
Cụ thể, phải nhắc đến hai cám dỗ mà
không phải lúc nào cũng tránh được : cám
dỗ quá miệt mài với những dịch vụ và
trách vụ trong Giáo Hội, đến nỗi đôi
khi xao lăng trên thực tế các trách nhiệm chuyên môn
của ḿnh thuộc các lănh vực nghề nghiệp, xă
hội, kinh tế, văn hóa và chính trị ; cám dỗ
ngược lại là bào chữa cho sự tách biệt
không thể biện minh giữa đức tin và đời
sống, giữa việc đón nhận Tin Mừng và
hoạt động cụ thể trong các lănh vực
trần thế khác nhau.
Trong quá tŕnh làm việc, Thượng-hội-đồng
không ngừng tham chiếu Công Đồng Vatican II, đă
hai mươi năm qua mà giáo huấn của Công Đồng
liên quan đến giáo dân vẫn có tính thời sự
đáng ngạc nhiên, đôi khi có tầm mức tiên
tri : một giáo huấn như thế có khả năng
soi sáng và gợi hứng cho các câu trả lời
cần phải đưa ra ngày hôm nay trước
những vấn đề mới mẻ. Thực vậy,
thách đố mà các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
nêu lên, là vạch ra những con đường chính xác
ngơ hầu “lư thuyết” sáng ngời về bậc giáo
dân, do Công Đồng đề ra, có thể trở thành
một sự “thực hành” chính thực trong Giáo
Hội. Mặt khác, một số vấn đề
được đặt ra do một tính chất
“mới mẻ” nào đó ; đến độ người
ta có thể cho chúng thuộc thời hậu-công-đồng,
ít là theo nghĩa thời gian : các Nghị Phụ đă
hoàn toàn chính đáng khi lưu tâm đặc biệt
đến những vấn đề này trong các
cuộc tranh luận và suy tư. Trong số đó,
cần phải kể ra những vấn đề liên
hệ đến các tác vụ và các dịch vụ
trong Giáo Hội đă hay sẽ được trao cho giáo
dân, việc phổ biến và phát triển “những
phong trào” mới bên cạnh những h́nh thức khác
về các hiệp hội giáo dân, vị trí và vai tṛ
của phụ nữ trong Giáo Hội cũng như trong
xă hội.
Sau khi hoàn thành công việc một cách
nhiệt thành, quảng đại, với khả năng
chuyên môn, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă bày tỏ với tôi ḷng ước mong khao khát
của các ngài là vào thời điểm thuận
tiện, tôi sẽ tŕnh bày với toàn thể Giáo
Hội một văn kiện đúc kết về đề
tài kitô-hữu giáo dân.[5]
V́ thế, Tông Huấn Hậu-Thượng-hội-đồng
này muốn làm nổi bật tất cả giá trị công
việc của Thượng-hội-đồng, từ các bản
Đề-cương (Lineamenta) đến Tài-liệu
làm việc (Instrumentumlaboris), từ bản phúc
tŕnh nhập đề cho đến những đóng góp
của từng giám mục, từng giáo dân và cho đến
báo cáo tổng hợp sau khi đă tranh luận tại
phiên họp khoáng đại, từ những thảo
luận và phúc tŕnh của các “nhóm nhỏ” (circuli
minores) cho đến những “đề-nghị”
(propositiones) và Sứ-điệp kết thúc. V́
thế, Tông Huấn này không nằm bên lề Thượng-hội-đồng;
trái lại, nó diễn đạt Thượng-hội-đồng
một cách vừa mạch lạc vừa trung thành; nó là
kết quả của một công việc tập đoàn,
mà giai đoạn chót là thảo ra một bản tŕnh
bày có sự đóng góp của Hội Đồng Văn
pḥng Tổng-thư-kư của Thượng-hội-đồng
và của chính Văn pḥng.
Tông Huấn này nhằm mục đích
khơi dậy và nuôi dưỡng một ư thức rơ nét
hơn về ân huệ và trách nhiệm của tất
cả và của từng giáo dân, trong sự hiệp thông
và trong sứ vụ của Giáo Hội.
2.
NHỮNG THÚC BÁCH HIỆN TẠI CỦA THẾ GIỚI:
"Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm ǵ
hết ?"
Ư hướng nền tảng của
Thượng-hội-đồng vừa qua, và do đó,
hiệu quả quư giá và đáng mong ước nhất
của nó, là đưa giáo dân đến chỗ
lắng nghe Đức Kitô, Đấng gọi họ làm
việc trong vườn nho của Ngài, đồng
thời hướng dẫn họ góp phần tích
cực, có ư thức và trách nhiệm vào sứ vụ
của Giáo Hội, vào thời điểm vừa
huy hoàng vừa bi thương này của lịch sử,
lúc sắp bước vào thiên niên kỷ thứ ba.
Ngày nay, trong Giáo Hội cũng như
trong thế giới, trong những thực tại xă
hội, kinh tế, chính trị và văn hóa, có
những hoàn cảnh mới mẻ đang đ̣i
hỏi, một cách hết sức đặc biệt,
hoạt động của giáo dân. Nếu trước
đây thái độ thờ ơ đối với
hoạt động này luôn luôn không thể chấp
nhận được, th́ ngày nay, thái độ
ấy lại càng đáng khiển trách hơn bao
giờ hết. Không ai được phép ở yên
mà không làm ǵ cả.
Chúng ta hăy đọc lại dụ ngôn
trong Tin Mừng : “Khoảng năm giờ chiều, ông
trở ra và thấy c̣n có những người khác
đứng đó, ông nói với họ : ‘Sao các anh
đứng đây suốt ngày không làm ǵ hết ?’.
Họ đáp : ‘V́ không ai mướn chúng tôi’. Ông
bảo họ : ‘Cả các anh nữa, vào làm vườn
nho cho tôi đi !’” (Mt 20,6-7).
Không có chỗ cho việc ăn không
ngồi rồi, trong khi c̣n biết bao công việc đang
chờ đợi tất cả chúng ta trong vườn
nho của Chúa. “Ông chủ vườn” lập
lại c̣n khẩn khoản hơn : “Cả các anh
nữa, vào làm vườn nho cho tôi đi !”.
Chắc chắn lời nói của Chúa
vẫn vang vọng trong mỗi kitô-hữu, nơi thâm tâm
của họ. Thực vậy, mỗi người đă
được đồng h́nh đồng dạng
với Đức Kitô nhờ đức tin và các bí tích
khai tâm Kitô-giáo, cũng được tháp nhập vào
Giáo Hội như một chi thể sống động,
và là chủ thể tích cực trong sứ vụ
cứu độ của Giáo Hội. Tiếng nói
của Chúa cũng được truyền đạt
qua các biến cố của lịch sử Giáo Hội và
nhân loại, như Công Đồng đă nhắc : “Dân
Thiên Chúa, nhờ đức tin mà tin rằng ḿnh
được Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng bao
phủ mặt đất hướng dẫn, cố
gắng nhận định đâu là những dấu
chỉ thuộc về sự hiện diện hoặc ư
định của Thiên Chúa trong mọi biến cố,
mọi yêu sách và ước vọng mà họ dự
phần với những người đương
thời. Thực vậy, đức tin lấy ánh sáng
mới mà chiếu soi mọi sự và biểu lộ ư
định của Thiên Chúa về thiên chức toàn
vẹn của con người, và do đó hướng
dẫn lư trí tới những giải quyết hoàn toàn
nhân bản”[6].
Như thế, phải nh́n thẳng vào
thế giới này, thế giới của chúng ta, cùng
với những giá trị và những vấn đề
của nó, những ưu tư và hy vọng, những thành
đạt và thất bại của nó : một thế
giới mà những điều kiện kinh tế, xă
hội, chính trị và văn hóa đặt ra những
vấn đề và khó khăn c̣n trầm trọng hơn
những vấn đề được Công Đồng
tŕnh bày trong hiến chế mục vụ Vui mừng và
Hy vọng.[7] Dù
sao, đó vẫn là vườn nho, đó vẫn là
mảnh đất nơi các giáo dân được
mời gọi sống sứ vụ của ḿnh. Đức
Giêsu mong muốn rằng các giáo dân, cũng như
tất cả các môn đệ của Ngài, phải
trở thành muối đất và ánh sáng trần gian (x.
Mt 5,13-14).
Nhưng đâu là khuôn mặt
hiện nay của “trái đất” và của
“trần gian”, mà các kitô-hữu phải trở thành
“muối” và “ánh sáng” ?
Có một sự khác biệt lớn
lao về các hoàn cảnh và những cách đặt
vấn đề trong thế giới ngày nay, một
thế giới mà ngoài ra c̣n có đặc tính là thay
đổi mau lẹ. V́ vậy, tuyệt đối không
được tổng quát hóa và đơn giản hóa
quá đáng. Tuy thế, vẫn có thể ghi nhận một
số khuynh hướng hiện có trong xă hội
hiện đại. Cũng như trong cánh đồng
Phúc Âm, cỏ lùng và hạt giống tốt cùng
mọc lên, th́ trong lịch sử, là một sân
khấu hằng ngày công diễn sự tự do của
con người, cũng thế, sự thiện và sự
ác, bất công và công lư, lo âu và hy vọng vẫn sóng
đôi bên nhau, đôi khi quấn chặt lấy nhau.
-
Khuynh
hướng duy-thế-tục và nhu cầu tôn giáo
Làm sao không nghĩ đến sự
phổ biến của thái độ dửng dưng
tôn giáo và thuyết vô thần dưới
nhiều h́nh thức rất khác nhau, đặc biệt
dưới h́nh thức có lẽ đang phổ biến
nhất hiện nay, là khuynh hướng duy thế
tục ? Say sưa v́ những cuộc chinh
phục kỳ diệu của một sự phát
triển khoa học kỹ thuật mà không ǵ chặn
đứng được, và nhất là bị mê
hoặc bởi cám dỗ muốn bằng Thiên Chúa (x.
St 3,5), qua việc sử dụng tự do cách vô giới
hạn, con người tự chặt đức cội
rễ tôn giáo sâu xa nhất của họ : quên lăng Thiên
Chúa, họ nghĩ rằng Thiên Chúa chẳng có ư nghĩa
ǵ trong cuộc sống của họ, họ từ
chối Thiên Chúa để rồi sấp ḿnh thờ
lạy những “ngẫu tượng” đủ
loại.
Thực thế, khuynh hướng
duy-thế-tục hiện nay là một hiện tượng
rất trầm trọng : nó không chỉ tác động
tới các cá nhân, nhưng một cách nào đó, tác
động tới nhiều ṭan thể cộng đồng,
như Công Đồng đă ghi nhận : “Số người
ĺa xa Thiên Chúa trong cách sống thực tế càng ngày
càng đông”[8].
Chính tôi cũng thường nhắc lại :
hiện tượng tục hóa đă tác động nơi
các dân tộc vốn là tín hữu từ thời xa xưa,
và hiện tượng này đ̣i hỏi ngay một công
cuộc tái phúc âm hóa.
Tuy vậy, khát vọng và nhu
cầu tôn giáo không thể hoàn toàn mai một.
Khi có đủ can đảm đương đầu
với những vấn đề trầm trọng
nhất của cuộc sống con người, nhất
là vấn đề ư nghĩa cuộc sống, đau
khổ và cái chết, th́ lương tâm của con người
không thể ngần ngại nhận lấy cho ḿnh
lời chân lư đă được thánh Augustinô kêu lên
: “Lạy Chúa, Chúa đă tạo dựng chúng con cho Chúa,
và tâm hồn chúng con luôn khắc khỏai cho đến
khi được nghỉ yên trong Chúa”[9].
V́ vậy, dưới nhiều h́nh thức ngày càng
lớn và sống động, thế giới hôm nay làm
chứng con người hướng tới một cái
nh́n thiêng liêng và siêu việt về cuộc sống, làm
chứng về sự thức tỉnh việc t́m
kiếm tôn giáo, về sự trở lại với ư
thức về sự thiêng thánh và về việc
cầu nguyện, làm chứng về đ̣i hỏi
được tự do kêu cầu Danh Chúa.
-
Nhân
vị con người : phẩm giá của nó bị chà
đạp và được tán dương
Chúng ta hăy nghĩ thêm đến vô
số xúc phạm mà phẩm giá của nhân
vị con người đang phải chịu hôm
nay. một khi không được nh́n nhận và yêu
mến theo phẩm giá của ḿnh là h́nh ảnh
sống động của Thiên Chúa (x. St 1,26), con người
làm mồi cho những h́nh thức nhục nhă và
lệch lạc nhất là “biến họ thành dụng
cụ”, thành nô lệ cho thế lực mạnh hơn
một cách khốn khổ. “Thế lực mạnh hơn”
này có thể mang nhiều bộ mặt khác nhau : ‘ư
thức hệ, quyền lực kinh tế, những
hệ thống chính trị phi nhân, h́nh thức kỹ
trị khoa học , sự xâm nhập của các “phương
tiện truyền thông – xă hội”. Một lần
nữa, chúng ta đang đối diện với một
quần chúng là những anh chị em của chúng ta,
bị xúc phạm trong những quyền căn bản,
đôi khi là hậu quả của thái độ dung túng
quá đáng, thậm chí của sự bất công rành rành
của một số luật dân sự : quyền
được sống và toàn vẹn thân thể,
quyền có nhà ở và việc làm, quyền có gia đ́nh
và sinh sản có trách nhiệm, quyền được
tham dự vào sinh hoạt công cộng và chính trị,
quyền được tự do lương tâm và tuyên
xưng niềm tin tôn giáo của ḿnh.
Ai có thể thống kê được
số những trẻ em không được chào đời,
v́ chúng đă bị giết hại từ trong ḷng
mẹ, số các trẻ em bị bỏ rơi, hay
bị cha mẹ ngược đăi, số các trẻ em
lớn lên không được yêu thương và giáo
dục ? Trong một số quốc gia, có những
tập thể dân cư không có nhà ở cũng không có
việc làm, thiếu những phương tiện
cần thiết để sống cho ra con người.
Có những xóm nghèo khổ và cùng khốn thật kinh
khủng, cả về thể chất lẫn tinh
thần, từ đây mọc lên quanh các đô thị
lớn và gây tác hại trầm trọng đến toàn
bộ những nhóm người.
Thế nhưng, tính cách thiêng
thánh của con người không thể bị tiêu
diệt, mặc dù rất thường bị khinh
miệt và xúc phạm: nền tảng vững chắc
của nó là Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và là Cha;
v́ vậy tính cách thiêng thánh của con người
vẫn luôn đ̣i phải được tôn trọng.
Từ đó mà ư thức
về nhân phẩm của mọi người ngày
càng được phổ biến rộng răi và
được khẳng định mạnh mẽ.
Từ nay, một trào lựu tốt đẹp đang
đi đến và tràn ngập hết mọi dân
tộc trên trái đất ; họ đă ư thức hơn
về phẩm giá con người : con người ḥan ṭan
không phải là một “sự vật” hay một “đồ
vật” mà người ta có thể sử dụng, nhưng
luôn luôn và chỉ là một “chủ thể” có ư
thức và tự do, được mời gọi
sống một cách có trách nhiệm trong xă hội và
lịch sử, hướng về những giá trị
tinh thần và tôn giáo.
Người ta đă khẳng định
rằng thời đại chúng ta là thời đại
của những “chủ thuyết nhân bản” : trong
đó một số nhuốm khuynh hướng vô
thần và thế tục, nên, một cách nghịch lư,
lại đi đến chỗ hạ giá và tiêu
diệt con người ; ngược lại, một
số khác đề cao con người đến độ
đưa tới những h́nh thức tôn thờ
ngẫu tượng thực sự ; sau cùng, một
số khác đi đúng sự thật, nh́n nhận
sự cao cả và cùng khốn của con người, và
làm nổi bật, nâng đỡ và ủng hộ
phẩm giá toàn diện của con người.
Ta có thể thấy được
một dấu chỉ và một kết quả của
những trào lưu nhân bản này trong một nhu
cầu đang lớn mạnh là nhu cầu tham gia.
Rơ ràng đây là một trong những nét nổi bật
của nhân loại hiện nay, một “dấu chỉ
thời đại” đích thực đang chín
muồi trong nhiều lănh vực và theo nhiều hướng
khác nhau, đặc biệt trong những vấn đề
liên quan đến phụ nữ và giới trẻ, hướng
tới đời sống gia đ́nh và học
đường, và cả trong lănh vực văn hóa,
kinh tế, xă hội và chính trị. Đảm nhận
một vai tṛ, sáng tạo cách nào đó một nền
văn hóa nhân bản mới, là một đ̣i hỏi,
vừa có tính cách phổ quát vừa có tính cách cá nhân.[10]
-
Những
t́nh huống xung đột và ḥa b́nh
Sau cùng, chúng ta không thể quên
một hiện tượng khác ghi dấu nhân loại
đương đại : hơn bất cứ thời
điểm nào khác của lịch sử, nhân loại
ngày nay bị tác động và rung chuyển bởi
những t́nh huống xung đột. Đây là một
hiện tượng đa dạng, phân biệt với
sự đa dạng hợp pháp của các năo trạng
và các sáng kiến, và biểu lộ qua sự đối
kháng tệ hại giữa các cá nhân, các nhóm người,
các tầng lớp, các quốc gia và các khối
quốc gia. Sự đối kháng này mang những h́nh
thức bạo hành, khủng bố và chiến tranh.
Một lần nữa, và trong những phạm vi rất
lớn, một số phần của nhân loại ngày
nay đang tái diễn kinh nghiệm điên cuồng
của việc xây dựng “tháp Babel” (x. St 11,9), v́
muốn phô trương sự “ṭan năng” của ḿnh
; kinh nghiệm này tạo ra hỗn loạn, đấu
tranh, tan ră và áp bức. V́ thế, gia đ́nh nhân
loại bị đảo lộn và xâu xé một cách thê
thảm.
Bù lại, người ta thấy khát
vọng mạnh mẽ không ǵ dẹp nổi của
từng người và của các dân tộc về
thiện ích và giá của ḥa b́nh trong công
lư. Nơi con người thời nay, mối phúc “Phúc
thay ai xây dựng ḥa b́nh” (Mt 5,9) có một âm
vang mới mẻ và đầy ư nghĩa : ngày nay, có
nguyên những thế hệ đang sống, chịu
đựng và làm việc để cho ḥa b́nh và công lư
hiển trị. Việc tham gia ngày càng gia tăng
của các cá nhân và các nhóm vào sinh họat xă hội là
đường lối càng lúc càng được
sử dụng hôm nay, ngơ hầu ḥa b́nh trong ước
mơ được trở thành hiện thực. Trên
con đường này, chúng ta gặp thấy một
số đông giáo dân quảng đăi dấn thân trong
những lănh vực xă hội hay chính trị, dưới
nhiều h́nh thức rất khác nhau, hoặc đứng
trong các tổ chức, hoặc như những cộng tác
viên thiện chí, và phục vụ các người hèn kém
nhất.
3.
ĐỨC GIÊSU-KITÔ, NIỀM HY VỌNG CỦA NHÂN
LOẠI
Trên đây là cánh đồng bao la
trải ra trước mắt những người
thợ được “Ông chủ” sai đến làm
việc trong vườn nho.
Trên cánh đồng này, Giáo Hội
hiện diện và hành động, mà Giáo Hội là
tất cả chúng ta, chủ chăn và tín hữu, linh
mục, tu sĩ và giáo dân. Các t́nh huống mà chúng ta
vừa nhắc đến có liên hệ đến Giáo
Hội : qua những t́nh huống đó, Giáo Hội
cảm thấy ḿnh phần nào bị chi phối ; tuy nhiên,
Giáo Hội không bị đè bẹp cũng không bị
quật ngă, bởi v́ Thánh Thần, linh hồn của
Giáo Hội, vẫn luôn nâng đỡ Giáo Hội trong
sứ vụ của ḿnh.
Giáo Hội biết rằng những
nỗ lực của nhân loại hướng đến
sự hiệp thông và tham gia, mặc dầu có những
khó khăn, những tŕ trệ, những mâu thuẫn
đủ loại, do những giới hạn của con
người, do tội lỗi và Thần Dữ, vẫn
được giải đáp hoàn toàn nhờ sự can
thiệp của Đức Giêsu-Kitô, Đấng Cứu
Chuộc con người và thế giới.
Giáo Hội biết rơ ḿnh đă
được Chúa sai đến như “dấu
chỉ và phương tiện kết hiệp mật
thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất ṭan thể
nhân loại”[11].
V́ vậy, bất chấp chuyện ǵ
đi nữa, nhân loại vẫn có thể hy vọng và
phải hy vọng : chính Đức Giêsu-Kitô,
Phúc Âm sống động và có ngôi vị, là
“Tin Vui” hoàn toàn mới mẻ, đem lại niềm
vui mà Giáo Hội loan báo cho tất cả chúng ta
mỗi ngày và làm chứng cho tất cả mọi người.
Trong việc loan báo và làm chứng này,
các giáo dân có một vị trí độc đáo và không
thể thay thế : nhờ họ, Giáo Hội Chúa Kitô
hiện diện trong mọi lănh vực rất khác nhau
của thế giới, như là dấu chỉ và
nguồn mạch hy vọng và t́nh yêu.
[1] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo Hội, Lumen
gentium, s. 48
[2] Thánh Grêgôriô
Cả, Bài giảng về Phúc Âm I, XIX,2
[3] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân, Apostolicam
actuositatem, s. 33
[4] Đức
Gioan-Phaolô II, Bài giảng trong lễ đồng
tế Bế mạc Thượng-hội-đồng Giám
Mục khóa VII, 30/10/1987
[5] x. Đề
nghị 1
[6] CĐ
Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội
trong thế giới hôm nay, Gaudium et spes, s. 11
[7] Các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng khóa
ngoại lệ năm 1985, sau khi khẳng định
“tầm mức quan trọng và tính hiện đại
lớn lao của Hiến chế Vui mừng và Hy
vọng” đă thêm : “Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
đồng thời nhận thấy rằng các dấu
chỉ trong thời đại chúng ta có phần nào khác
với những dấu chỉ thời Công Đồng,
bao gồm những vấn đề và những âu lo c̣n
to lớn hơn nữa. Thực vậy, khắp nơi
trong thế giới, không ngừng gia tăng sự đói
khổ, đàn áp, bất công, chiến tranh, khổ
đau, khủng bố và nhiều h́nh thức bạo
lực đủ loại khác nhau” (Giáo Hội, dưới
quyền Ngôi Lời Thiên Chúa, cử hành những
mầu nhiệm của Đức Kitô để thế
giới được cứu độ. Bản phúc tŕnh
tổng kết, II, D,1)
[8] CĐ
Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội
trong thế giới hôm nay, Gaudium et spes, s. 7
[9] Thánh
Augustinô, Tư thuật I, 1
[10] x. Tài
liệu làm việc, “Ơn gọi và sứ mệnh
người giáo dân trong Giáo Hội và thế giới
hai mươi năm sau Công Đồng Vatican II”, s.
5–10
[11] CĐ.
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo Hội, s. 1
CHƯƠNG MỘT
THẦY LÀ CÂY NHO, ANH EM LÀ CÀNH
Phẩm giá của giáo dân trong
Giáo Hội – Mầu Nhiệm
1.
MẦU
NHIỆM CÂY NHO
2.
GIÁO
DÂN LÀ AI?
o
Bí
tích Thánh Tẩy và sự mới mẻ Kitô-giáo
o
Con
cái Thiên Chúa trong người Con Duy Nhất
o
Một
Thân thể duy nhất trong Đức Kitô
o
Đền
thờ sống động của Chúa Thánh
Thần
3.
NHỮNG
NGƯỜI THAM DỰ VÀO CHỨC VỤ TƯ
TẾ, NGÔN SỨ, VƯƠNG GIẢ CỦA
ĐỨC GIÊSU-KITÔ
4.
GIÁO
DÂN VÀ TÍCH CÁCH TRẦN THẾ
5.
NHỮNG
NGƯỜI ĐƯỢC MỜI GỌI NÊN
THÁNH
o
Thánh
hóa bản thân trong trần gian
1. MẦU NHIỆM CÂY
NHO
H́nh ảnh cây
nho được Thánh Kinh sử dụng theo
nhiều cách và với những ư nghĩa khác
nhau : đặc biệt, nó được
sử dụng để diễn tả mầu
nhiệm Dân Thiên Chúa. Trong viễn tượng
thâm sâu này, các giáo dân không chỉ là
những người thợ làm việc trong vườn
nho, nhưng c̣n là chính thành phần của cây
nho : “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga
15,5).
Từ
thời Cựu Ước, khi muốn nói
về dân tuyển chọn, các ngôn sứ đă
dùng đến h́nh ảnh vườn nho. Israel
là vườn nho của Thiên Chúa, là công tŕnh
của Chúa, là niềm vui của tâm hồn Người
: “Ta đă trồng ngươi như nho
hảo hạng” (Gr 2,21) ; “Mẹ ngươi
giống tợ cây nho trồng bên bờ nước.
Nó đă sai quả, nhánh sum suê nhờ nước
nhuận” (Ed 19,10) ; “Bạn tôi có
một vườn nho, chênh chếch mỏm
đồi màu mỡ. Người vỡ đất,
người nhặt đá, người đă
trồng nho quư” (Is5,1-2).
Đức Giêsu
lấy lại dụ ngôn vườn nho, và Ngài
sử dụng dụ ngôn này để mặc
khải một số khía cạnh của Nước
Thiên Chúa : "Có người kia trồng
được một vườn nho ; ông rào
giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và
xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác,
rồi trẩy đi xa" (Mc 12,1 ; x. Mt
21,28 tt.).
Thánh sử
Gioan mời chúng ta đi sâu hơn và ngài giúp
chúng ta khám phá mầu nhiệm vườn
nho : Vườn nho là biểu tượng
và h́nh bóng không những của dân Thiên Chúa,
nhưng c̣n của chính Đức Giêsu.
Chính Ngài, Đức Giêsu, là thân nho, và chúng
ta, các môn đệ, là cành ; Ngài là “cây nho
thật”, các cành muốn sống, phải
kết hiệp với cây (x. Ga 15,1 tt.).
Khi lập
lại những h́nh ảnh khác nhau trong Thánh
Kinh để soi sáng mầu nhiệm Giáo
Hội, Công Đồng Vatican II cũng
đưa ra h́nh ảnh cây nho và cành nho : “Chúa
Kitô là cây nho đích thực ; Người ban
sự sống và hoa trái cho các nhánh là chúng ta
: nhờ Giáo Hội, chúng ta ở trong Người,
và không có Người, chúng ta không thể làm
ǵ được (x. Ga 15,1-5)[1]. Như
thế, chính Giáo Hội là vườn nho nói
trong Tin Mừng.
Giáo Hội là mầu
nhiệm, bởi v́ t́nh yêu và sự
sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần là ân huệ hoàn toàn tặng-không cho
tất cả những ai sinh bởi nước
và Thánh Thần (x. Ga 3,5), được kêu
gọi sống chính sự hiệp thông với
Thiên Chúa, được kêu gọi tỏ bày
và thông truyền sự hiệp thông đó
trong lịch sử (sứ vụ) : "Ngày
đó, anh em sẽ biết rằng Thầy
ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và
Thầy ở trong anh em" (Ga 14,20).
Từ đây, “căn
tính” của người giáo dân, phẩm
giá nguyên thủy của họ chỉ
được bộc lộ trong thâm sâu
của mầu nhiệm Giáo Hội như là
mầu nhiệm hiệp thông. Và cũng
chỉ trong thâm sâu của phẩm giá đó,
người ta mới có thể định nghĩa
ơn gọi và sứ vụ của họ trong
Giáo Hội và trong thế giới.
2. GIÁO DÂN LÀ AI ?
Các Nghị
Phụ của Thượng-hội-đồng
đă thật có lư khi ghi nhận rằng
cần phải xác định và đưa ra
một cách mô tả tích cực về
ơn gọi và sứ vụ của giáo dân,
nhờ nghiên cứu sâu xa giáo huấn của Công
Đồng Vatican II, dựa theo những tài
liệu mới nhất của Huấn Quyền
và kinh nghiệm của đời sống Giáo
Hội, được Thánh Thần hướng
dẫn.[2]
Để
trả lời cho câu hỏi “giáo dân là ai
?”, Công Đồng đă khước từ
giải pháp dễ dăi của một định
nghĩa tiêu cực, và đă hướng
tới một quan điểm hoàn toàn tích
cực. Công Đồng đă bày tỏ ư hướng
nền tảng của ḿnh khi khẳng định
rằng giáo dân hoàn toàn thuộc về
Giáo Hội cũng như thuộc về
mầu nhiệm của Giáo Hội, và tính
chất đặc biệt ơn gọi của
họ có nét riêng là đặc biệt
“t́m kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách
quản trị các sự việc trần
thế và xếp đặt chúng theo ư Thiên Chúa”[3].
Hiến chế Ánh Sáng muôn dân nói
: “Danh hiệu giáo dân ở đây được
hiểu là tất cả những kitô-hữu không
thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu tŕ
được Giáo Hội công nhận. Nghĩa
là những kitô-hữu đă được tháp
nhập vào thân thể Chúa Kitô nhờ phép thánh
tẩy, đă trở nên Dân Thiên Chúa, và tham
dự vào chức vụ tư tế, ngôn
sứ và vương giả của Chúa Kitô
theo cách thức của họ ; họ là
những người đang thực hiện
sứ mệnh của toàn dân Kitô-giáo trong Giáo
Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng
của ḿnh”[4].
Đức Giáo
hoàng Piô XII đă khẳng định “Các tín
hữu, và chính xác hơn, các giáo dân, có
mặt ở hàng ngũ tiền phong trong đời
sống Giáo Hội ; nhờ họ, Giáo Hội
trở thành nguyên lư sống động
của xă hội nhân loại. Chính v́ thế,
họ là những người trước
hết phải có một ư thức luôn luôn sáng
suốt hơn rằng không những ḿnh
thuộc về Giáo Hội, mà c̣n là
Giáo Hội, tức là cộng đồng tín
hữu trên trần gian, dưới sự lănh
đạo của một vị thủ lănh
chung là Đức Giáo hoàng, và các vị Giám
mục hiệp thông với ngài. Họ là
Giáo Hội.[5]
Phù hợp
với h́nh ảnh cây nho trong Thánh Kinh, các giáo
dân, cũng như tất cả mọi thành
phần của Giáo Hội, đều là cành
nho, được tháp nhập vào Đức
Kitô là cây nho đích thực, và chính nhờ
Ngài mà họ được trở thành người
trao ban sự sống.
Việc tháp
nhập vào Đức Kitô nhờ đức
tin và nhờ các bí tích khai tâm Kitô-giáo là
gốc rễ đầu tiên tạo nên địa
vị mới của người kitô-hữu
trong mầu nhiệm Giáo Hội, làm thành
“diện mạo” sâu sắc nhất của
họ, làm nền tảng cho tất cả
mọi ơn gọi và tính năng động
của đời sống kitô-hữu giáo dân :
trong Đức Giêsu-Kitô tử nạn và
phục sinh, người được thánh
tẩy trở nên một “thụ tạo
mới” (Gl 6,15 ; 2 Cr 5,17), một thụ
tạo được thanh tẩy khỏi
tội lỗi và được sống
nhờ ân sủng.
Như vậy,
chỉ nhờ việc khai thác kho tàng phong phú
huyền nhiệm do Thiên Chúa ban cho người
kitô-hữu trong bí tích thánh tẩy mà người
ta có thể phác họa được “dung
mạo” người giáo dân.
- Bí
tích Thánh Tẩy và sự mới mẻ Kitô-giáo
Thật không
quá đáng khi nói rằng ṭan bộ đời
sống của giáo dân có mục đích
đưa họ tới chỗ nhận biết
sự mới mẻ căn bản Kitô-giáo phát
sinh từ bí tích Thánh Tẩy, bí tích của ḷng
tin, để họ có thể thực hiện
những nghĩa vụ theo đúng ơn
gọi đă được Thiên Chúa ấn
định. Để phác họa “dung mạo”
của người giáo dân, chúng ta hăy xem xét
một cách trực tiếp và rơ ràng hơn
những khía cạnh căn bản sau đây,
trong số nhiều khía cạnh khác : Bí
tích Thánh Tẩy tác sinh chúng ta vào cuộc
sống con cái Thiên Chúa ; kết hiệp chúng
ta với Đức Kitô và với Thân Thể
của Ngài là Giáo Hội ; xức dầu cho chúng
ta trong Thánh Thần qua việc biến chúng ta
thành những đền thờ thiêng liêng.
- Con
cái Thiên Chúa trong người Con Duy Nhất
Chúng ta hăy
nhớ lại những lời Đức Giêsu
nói với ông Nicôđêmô : "Thật, tôi
bảo thật ông: không ai có thể vào Nước
Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước
và Thần Khí" (Ga 3,5). Như thế, bí
tích thánh tẩy là một cuộc sinh ra
mới, đó là một cuộc tái sinh.
Chính khi nghĩ
đến khía cạnh này của ơn thánh
tẩy mà tông đồ Phêrô xướng lên
bài ca ngợi sau đây : "Chúc tụng Thiên
Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta ! Do lượng hải hà, Người
cho chúng ta được tái sinh để
nhận lănh niềm hy vọng sống động,
nhờ Đức Giê-su Ki-tô đă từ cơi
chết sống lại, để được
hưởng gia tài không thể hư hoại,
không thể vẩn đục và tàn phai" (1
Pr 1,3-4). Và ngài áp dụng danh xưng kitô-hữu
cho những người đă được
Thiên Chúa "tái sinh, không phải do hạt
giống mục nát, mà do hạt giống
bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa
hằng sống và tồn tại măi măi" (1
Pr 1,23).
Nhờ bí tích
thánh tẩy, chúng ta trở thành con cái nam
nữ của Thiên Chúa, trong người Con Duy
Nhất là Đức Giêsu-Kitô. Ra khỏi
giếng rửa tội, mỗi người kitô-hữu
đều nghe được tiếng nói xưa
kia ở bờ sông Jorđanô : “Con là Con yêu
dấu của Cha, Cha hài ḷng về Con” (Lc3,22),
và như vậy họ hiểu rằng ḿnh
đă được kết hợp với người
Con Yêu Dấu, khi trở thành nghĩa tữ (x.
Gl 4,4-7) và là anh em Đức Kitô. như
thế, chương tŕnh vĩnh cửu của
Thiên Chúa được thể hiện nơi
lịch sử mỗi người : "V́
những ai Người đă biết từ trước,
th́ Người đă tiền định cho
họ nên đồng h́nh đồng dạng
với Con của Người, để Con
của Người làm trưởng tử
giữa một đàn em đông đúc" (Rm
8,29).
Chính Chúa Thánh
Thần làm cho những người đă
được thánh tẩy trở nên con cái
nam nữ của Thiên Chúa, đồng thời
trở thành chi thể của Thân Thể Đức
Kitô. Thánh Phaolô nhắc lại điều
ấy với tín hữu Côrintô : “Chúng ta
đều đă được chịu phép
rửa trong cùng một Thần Khí để
trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13),
đến nỗi Thánh Tông Đồ có
thể nói với giáo dân của ngài :
“Vậy anh em là thân thể Đức Kitô, và
mỗi người là một bộ phận” (1
Cr 12,27) ; "Để chứng thực anh
em là con cái, Thiên Chúa đă sai Thần Khí
của Con ḿnh đến ngự trong ḷng anh em" (Gl
4,6).
- Một
Thân thể duy nhất trong Đức Kitô
Được
tái sinh trở thành “những người con
trong Người Con”, những người
chịu thánh tẩy không thể tách khỏi
những tư cách này là “chi thể của
Đức Kitô và chi thể của thân thể
Giáo Hội”, như Công Đồng Firenze
đă dạy.[6]
Bí tích Thánh
Tẩy biểu thị và làm phát sinh một
sự tháp nhập huyền nhiệm nhưng
thực sự vào Thân Thể đă chịu
đóng đinh và vinh quang của Đức Giêsu.
Qua bí tích này, Đức Giêsu nối kết người
chịu thánh tẩy vào cái chết của Ngài,
để rồi nối kết họ vào
sự phục sinh của Ngài (x. Rm 6,3-5),
giải gỡ họ khỏi “con người
cũ” và mặc cho họ “con người
mới”, tức là chính Ngài : "Bất
cứ ai trong anh em được thanh tẩy
để thuộc về Đức Ki-tô – thánh
Phaolô tông đồ viết –, đều
mặc lấy Đức Ki-tô" (Gl 3,27 ;
x. Ep 4,22-24 ; Cl 3,9-10). V́ vậy, "chúng ta tuy
nhiều, nhưng chỉ là một thân thể
trong Đức Ki-tô" (Rm 12,5).
Qua những
lời của thánh Phaolô, chúng ta nghe vọng
lại một cách trung thực giáo huấn
của chính Đức Giêsu. Thực vậy,
Đức Giêsu đă mặc khải cho chúng
ta sự hiệp nhất mầu nhiệm
của các môn đệ với Ngài và giữa
họ với nhau, khi tŕnh bày sự hiệp
nhất đây như h́nh ảnh và sự
nối dài của mối hiệp thông bí
ẩn liên kết Chúa Cha với Chúa Con, và Chúa
Con với Chúa Cha trong dây t́nh yêu là Thánh
Thần (x. Ga 17,21). Khi sử dụng h́nh
ảnh cây nho và cành nho, Đức Giêsu
muốn nói về chính sự hiệp nhất
đó : “Thầy là cây nho, anh em là cành nho” (Ga
15,5), h́nh ảnh này làm sáng tỏ không
những sự thân mật sâu xa của các môn
đệ với Đức Giêsu, mà cả
sự hiệp thông đời sống giữa
các môn đệ với nhau. : tất cả
đều là cành của một Cây Nho duy
nhất.
- Đền
thờ sống động của Chúa Thánh
Thần
Nhờ
một h́nh ảnh khác, h́nh ảnh ngôi đền,
thánh Phêrô định nghĩa những người
đă chịu thánh tẩy như là những
“viên đá sống động” đặt
nền tảng trên Đức Kitô là “đá
tảng góc tường” ; và họ được
dành để “xây nên ngôi đền thờ
thiêng liêng” (1 Pr 2,5 tt.). h́nh ảnh này
đưa chúng ta đến một khía
cạnh khác của sự mới mẻ của
bí tích thánh tẩy, được Công Đồng
Vatican II tŕnh bày với những lời như
sau : “Thực vậy, những người
đă lănh phép rửa, nhờ sự tái sinh và
xức dầu của Thánh Thần, được
thánh hiến để trở thành chỗ
ở thiêng liêng”[7].
Chúa Thánh
Thần “xức dầu” cho người
được thánh tẩy, Ngài đóng trên
họ ấn tích không thể xóa nḥa (x. 2
Cr 1,21.22), và Ngài xây dựng họ thành đền
thờ thiêng liêng, nghĩa là làm cho họ
được đầy tràn sự hiện
diện thánh của Thiên Chúa, nhờ sự
kết hiệp và nên đồng h́nh đồng
dạng với Đức Giêsu-Kitô.
Được
vững mạnh nhờ việc “xức
dầu” thiêng liêng này, người kitô-hữu,
theo cách thế của ḿnh, có thể lặp
lại những lời của Đức Giêsu-Kitô
: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, v́ Chúa
đă xức dầu tấn phong tôi, để
tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người
đă sai tôi đi công bố cho kẻ bị
giam cầm biết họ được tha, cho
người mù biết họ được sáng
mắt, trả lại tự do cho người
bị áp bức, công bố một năm
hồng ân của Chúa" (Lc 4,18-19). Như
thế, nhờ ân huệ của các bí tích Thánh
Tẩy và Thêm Sức, người đă
chịu thánh tẩy tham dự vào chính sứ
mạng của Đức Giêsu-Kitô, Đấng
Thiên Sai Cứu Thế.
3. NHỮNG NGƯỜI
THAM DỰ VÀO CHỨC VỤ TƯ TẾ, NGÔN
SỨ, VƯƠNG GIẢ CỦA ĐỨC GIÊSU-KITÔ
Ngỏ
lời với những người đă
được thánh tẩy, như là những
“người con vừa được sinh ra”,
thánh Phêrô viết: "Anh em hăy tiến
lại gần Đức Ki-tô, viên đá
sống động bị người ta
loại bỏ, nhưng đă được
Thiên Chúa chọn lựa và coi là quư giá. Hăy
để Thiên Chúa dùng anh em như những viên
đá sống động mà xây nên ngôi Đền
Thờ thiêng liêng, và hăy để Thiên Chúa
đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng
những lễ tế thiêng liêng đẹp ḷng
Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô... C̣n
anh em, anh em là giống ṇi được
tuyển chọn, là hàng tư tế vương
giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa,
để loan truyền những kỳ công
của Người, Đấng đă gọi
anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi
đầy ánh sáng diệu huyền"(1 Pr
2,4-5.9).
Chính đó là
một khía cạnh mới của ân sủng và
của phẩm giá bí tích thánh tẩy : về
phần ḿnh, người giáo dân tham dự vào
ba chức vụ của Đức Giêsu-Kitô : tư
tế, ngôn sứ và vương
giả. Chắc chắn truyền thống
sống động của Giáo Hội không bao
giờ quên lăng khía cạnh đó, chẳng
hạn như ta thấy trong phần giải thích
Thánh vịnh 26 của thánh Augustinô : “Đavít
đă được xức dầu để
làm vua. Vào thời đó, chỉ có vua và tư
tế mới được xức dầu. Hai
nhân vật này là h́nh bóng cho vị vua – tư-tế
duy nhất trong tương lai là Đức Kitô
(từ ngữ “Kitô” xuất phát từ
chữ “chrisma” có nghĩa là “xức
dầu”). Không phải chỉ có vị
thủ lănh của chúng ta là người duy
nhất được xức dầu, mà
cả chúng ta nữa, là thành phần trong thân
thể Ngài, chúng ta cũng được
xức dầu với Ngài [...]. Như
thế, mọi người kitô-hữu đều
được xức dầu, trong khi thời
Cựu Ước chỉ có hai người
được xức dầu. Chúng ta là thân
thể của Đức Kitô, điều này rơ
ràng phát xuất từ sự kiện là
tất cả chúng ta đă được
xức dầu và trong Ngài, chúng ta là những
người được xức dầu (christi)
và là Kitô, bởi v́, một cách nào đó,
đầu và thân thể làm nên Đức Kitô
toàn vẹn”[8].
Theo đường
hướng của Công Đồng Vatican II,[9] ngay
từ lúc khởi đầu sứ mạng
mục vụ của tôi, tôi đă ca ngợi
phẩm chức tư tế, ngôn sứ và vương
giả của toàn thể Dân Chúa : “Đấng
được sinh ra do Đức Trinh Nữ
Maria, con của bác thợ mộc, như người
ta nghĩ, Con Thiên Chúa hằng sống, như
Phêrô tuyên tín, Đấng ấy đă đến
để tập hợp tất cả chúng ta
thành “một vương quốc tư tế”.
Công Đồng Vatican II đă nhắc lại
mầu nhiệm của quyền năng này và cũng
nhắc lại rằng sứ vụ của
Đức Kitô, Linh-mục, Ngôn-sứ –
Thầy, Vua, được tiếp tục trong
Giáo Hội. Tất cả mọi người,
toàn thể Dân Thiên Chúa, đều tham dự
vào ba chức vụ này”[10].
Qua Tông
Huấn này, một lần nữa, chúng tôi
muốn mời gọi giáo dân đọc
lại, suy niệm và lănh hội với ḷng
hiểu biết và yêu mến, giáo huấn
rất phong phú và súc tích của Công Đồng
về sự tham dự của họ vào ba
chức vụ của Đức Kitô.[11] Sau đây
là một tổng hợp ngắn gọn
những yếu tố chính của giáo huấn
đó.
Các người
giáo dân tham dự vào chức vụ tư
tế, nhờ chức vụ này, Đức
Giêsu đă hiến dâng chính ḿnh trên Thập
Giá, và c̣n tiếp tục dâng hiến ḿnh trong
cử hành Thánh Thể để tôn vinh Chúa
Cha v́ ơn cứu độ của nhân
loại. Được tháp nhập vào Đức
Giêsu-Kitô, những người đă chịu
thánh tẩy được kết hiệp
với Ngài và với hy tế của Ngài qua
việc dâng hiến chính ḿnh và mọi
họat động của ḿnh (x. Rm 12,1-2).
Khi đề cập đến các giáo dân, Công
Đồng tuyên bố : “Mọi hoạt động,
kinh nguyện và công cuộc tông đồ,
đời sống hôn nhân và gia đ́nh, công
ăn việc làm thường ngày, việc
nghỉ ngơi thể xác và tinh thần
của họ, nếu họ chu toàn trong Thánh
Thần, và cả đến những thử thách
của cuộc sống, nếu họ kiên tŕ
đón nhận, th́ tất cả đều
trở nên hiến lễ thiêng liêng đẹp
ḷng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu-Kitô (x. 1
Pr 2,5) ; v́ những của lễ ấy
được thành kính dâng lên Chúa Cha, cùng
với Ḿnh Thánh Chúa khi cử hành phép Thánh
Thể. Như thế, giáo dân thánh hiến
thế giới này cho Thiên Chúa nhờ biết
phụng thờ Người khắp nơi
bằng đời sống thánh thiện”[12].
Việc tham
dự vào chức vụ ngôn sứ của
Đức Kitô, “Đấng đă dùng
chứng tá đời sống và sức
mạnh của lời nói, để công
bố Nước Thiên Chúa Cha”[13],
làm cho người giáo dân có đủ tư cách
và thúc đẩy họ lấy ḷng tin đón
nhận Tin Mừng, và dùng lời nói việc làm
loan báo Tin Mừng đó, không ngần ngại
can đảm tố giác sự dữ.
Được kết hiệp với Đức
Kitô, “vị ngôn sứ vĩ đại” (Lc
7,16), và, trong Thánh Thần, được đặt
làm “chứng nhân” của Đức Kitô
phục sinh, giáo dân trở thành những người
tham dự vào cảm thức đức tin siêu
nhiên của Giáo Hội, một Giáo Hội
“không thể sai lầm trong đức tin”[14],
cũng như vào ân sủng của Lời (x.
Cv 2,17-18 ; Kh 19,10) ; ngoài ra, họ c̣n được
kêu gọi làm sáng lên nét mới mẻ và
sức mạnh của Tin Mừng trong đời
sống thường ngày, trong gia đ́nh và ngoài
xă hội, cũng như diễn tả niềm
hy vọng của họ vào vinh quang mai ngày,
với ḷng kiên tŕ và can đảm, trong
những khó khăn của thời hiện
tại, “qua cả những cơ cấu
của cuộc sống trần gian”[15].
Nhờ
thuộc về Đức Kitô, là Chúa và Vua vũ
trụ, giáo dân tham dự vào chức
vụ vương giả của Ngài, và
được Ngài kêu gọi phục vụ Nước
Thiên Chúa và làm cho Nước ấy lan tỏa
trong lịch sử. Họ sống tính cách vương
giả Kitô-giáo, trước hết bằng
cuộc chiến thiêng liêng để tiêu
diệt quyền thống trị của tội
lỗi nơi họ (x. Rm 6,12), và sau đó,
bằng việc dâng hiến chính ḿnh để,
trong bác ái và công chính, phục vụ chính
Đức Giêsu, hiện diện nơi mọi
anh em của Ngài, đặc biệt nơi
những người bé nhỏ nhất (x.
Mt 25,40).
Thế nhưng,
giáo dân được đặc biệt
mời gọi để trả lại công
cuộc sáng tạo tất cả giá trị
nguyên thủy của nó. Khi nối kết công
cuộc sáng tạo với lợi ích đích
thực của con người qua một
họat động được ân sủng nâng
đỡ, họ tham dự vào việc thực
thi quyền bính mà nhờ đó Đức Giêsu
Phục Sinh lôi kéo mọi sự về với
Ngài, và đặt mọi sự cũng như
chính Ngài dưới quyền Chúa Cha, để
Thiên Chúa nên tất cả cho mọi người (x.
Ga 12,32 ; 1 Cr 15,28).
Việc tham
dự của giáo dân vào ba chức vụ
của Đức Giêsu Tư Tế, Ngôn Sứ
và Vương Giả, trước hết
bắt nguồn từ việc xức dầu
trong bí tích Thánh Tẩy, rồi được
phát triển trong bí tích Thêm Sức, được
hoàn thành và nâng đỡ trong bí tích Thánh
Thể. Đó là một sự tham dự
được ban cho mỗi giáo dân,
đúng vậy, nhưng với tư cách là
họ làm nên Thân Thể duy nhất của
Đức Kitô : thực vậy, Đức Giêsu
dùng các ân huệ của Ngài làm cho chính Giáo
Hội thêm phong phú, bởi v́ Giáo Hội là Thân
Thể và Hiền Thê của Ngài. Như
thế, chính với tư cách là chi
thể của Giáo Hội mà mỗi người
tham dự vào ba chức vụ của Đức
Kitô, như thánh tông đồ Phêrô đă nói
rơ ràng ; quả thực, ngài gọi những người
đă được thánh tẩy là "giống
ṇi được tuyển chọn, là hàng tư
tế vương giả, là dân thánh, dân riêng
của Thiên Chúa" (1 Pr 2,9). Chính v́
bắt nguồn từ sự
hiệp thông Giáo Hội, mà việc tham dự
của giáo dân vào ba chức vụ của
Đức Kitô đ̣i phải được
sống và thể hiện trong sự
hiệp thông và v́ sự tăng trưởng
của chính sự hiệp thông này. Thánh
Augustinô viết : “Cũng như hết
thảy chúng ta nhận ḿnh là kitô-hữu (christiani)
v́ được xức dầu (chrisma) cách
mầu nhiệm. Th́ hết thảy chúng ta cũng
nhận ḿnh là linh mục, bởi v́ chúng ta là
chi thể của một Linh Mục duy nhất”[16].
4.
GIÁO DÂN VÀ TÍCH CÁCH TRẦN THẾ
Tính cách
mới mẻ Kitô-giáo là nền tảng và là
sự chứng thực cho sự b́nh đẳng
của tất cả những ai đă lănh
nhận bí tích thánh tẩy trong Đức Kitô,
của tất cả mọi thành phần Dân
Thiên Chúa : “Cùng chung một phẩm giá
của những chi thể v́ đă được
tái sinh trong Chúa Kitô, một ân huệ
được làm con cái, một ơn gọi
trở nên trọn lành ; chỉ có một ơn
cứu độ, một niềm hy vọng duy
nhất và một đức ái không phân chia”
|
[17]. V́ có
phẩm giá chung của bí tích thánh tẩy, giáo
dân là người đồng-trách-nhiệm
trong sứ vụ của Giáo Hội, cùng
với các thừa tác viên có chức thánh và
với các tu sĩ nam nữ.
Tuy thế, nơi
người giáo dân, phẩm giá chung của bí
tích thánh tẩy có một thể thức khác,
phân biệt nhưng không tách biệt họ
với linh mục, tu sĩ nam nữ. Công Đồng
Vatican II đă chỉ rơ thể thức này
ở trong tính cách trần thế : “Tính cách
trần thế là tính cách riêng biệt và
đặc thù của giáo dân”[18].
Để
hiểu cách thấu đáo, thích hợp và chuyên
biệt địa vị của người giáo
dân trong Giáo Hội, cần phải đào sâu
tầm quan trọng thần học của tính
cách trần thế, dựa theo chương tŕnh
cứu độ của Thiên Chúa và mầu
nhiệm Giáo Hội.
Như Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI đă nói, Giáo Hội “có
một chiều kích trần thế đích
thực, gắn liền với bản tính thâm
sâu và sứ vụ của Giáo Hội ;
chiều kích này bắt nguồn từ mầu
nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, và
được thực hiện bằng
nhiều h́nh thức khác nhau nơi các chi
thể của ḿnh”[19].
Thực
vậy, Giáo Hội sống giữa thế gian,
dẫu rằng không thuộc về thế gian (x.
Ga 17,16), và Giáo Hội được sai đến
để tiếp tục công cuộc cứu
độ của Đức Giêsu-Kitô ; công
cuộc này “cốt yếu nhằm việc
cứu độ nhân loại, nhưng cũng
bao hàm việc canh tân tất cả trật
tự trần thế”[20].
Chắc
chắn rằng mọi chi thể của
Giáo Hội đều tham dự vào chiều kích
trần thế này, nhưng theo những cách
thức khác nhau. Đặc biệt, sự
tham dự của người giáo dân có
một thể thức thực hiện và
chức năng, một thể thức mà, theo Công
Đồng, là “riêng biệt và đặc thù”
của họ : thể thức này được
gọi là “tính cách trần thế”[21].
Một cách
cụ thể, Công Đồng nói về
cảnh sống trần thế của giáo dân
bằng cách tŕnh bày cảnh sống ấy, trước
tiên, như là môi trường trong đó
họ được Thiên Chúa mời gọi :
“Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ”[22].
Ở đây, “nơi” được tŕnh bày
bằng những hạn từ có tính cách năng
động : giáo dân sống giữa trần
gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng
như từng công việc và bổn phận
của trần thế, giữa những
cảnh sống thường ngày trong gia đ́nh
và ngoài xă hội, tất cả những điều
đó như dệt thành cuộc sống
của họ”[23].
Đó là những con người có một
đời sống b́nh thường trong
trần gian, học hỏi, làm việc,
thiết lập những tương quan bạn
bè, xă hội, nghề nghiệp, văn hóa. Công
Đồng không chỉ coi hoàn cảnh của
họ như một khung cảnh bên ngoài,
một môi trường chung quanh, trái lại như
một thực tại nhằm t́m
thấy ư nghĩa trọn vẹn của ḿnh nơi
Đức Giêsu-Kitô.[24] Công
Đồng cũng khẳng định : “Chính
Ngôi Lời Nhập Thể đă muốn chia
sẻ t́nh liên đới nhân loại... Ngài
đă thánh hóa những mối liên hệ
của con người, nhất là những liên
hệ thuộc về gia đ́nh, là nguồn
gốc phát sinh những liên hệ xă hội.
Ngài đă muốn tuân phục các luật
lệ của quê hương và sống
cuộc sống của thợ thuyền với
người đương thời nơi quê hương
Ngài”[25].
Như
vậy, “trần gian” trở thành môi
trường và phương tiện cho ơn
gọi Kitô-giáo của giáo dân, bởi v́ chính
nó được dành để tôn vinh Thiên Chúa
Cha trong Đức Kitô. từ đó, Công Đồng
có thể chỉ ra ư nghĩa riêng biệt và
đặc thù của việc Thiên Chúa mời
gọi giáo dân. Họ không được
mời gọi rời bỏ vị thế
họ đang sống nơi trần gian.
Thực vậy, bí tích thánh tẩy không kéo
họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô
đă nhấn mạnh : "Thưa anh em, khi
được kêu gọi ở địa
vị nào, mỗi người cứ ở
địa vị đó trước mặt Thiên
Chúa" (1 Cr 7,24) ; trái lại, Ngài trao
cho họ một ơn gọi có liên hệ
đích thực với t́nh huống của
họ trong trần gian : thực vậy, giáo dân
được “Thiên Chúa kêu gọi để,
dưới sự hướng dẫn của
tinh thần phúc âm, như men từ bên
trong, họ thánh hóa thế giới bằng
việc thi hành những nhiệm vụ của
ḿnh ; và như thế, với ḷng tin cậy
mến sáng ngời, nhất là với chứng
tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa
Kitô cho kẻ khác”[26].
Như vậy, đối với người giáo
dân, hiện hữu và họat động trong
trần gian là một thực tại không
chỉ có tính cách nhân học và xă hội
học, nhưng c̣n đặc biệt có ư nghĩa
thần học và Giáo Hội nữa. Thật
thế, trong t́nh huống của họ,
giữa trần gian, Thiên Chúa tỏ bày chương
tŕnh của Ngài và thông đạt cho họ
ơn gọi riêng là “t́m kiếm Nước
Thiên Chúa bằng cách quản trị các
việc trần thế và xếp đặt chúng
theo ư Thiên Chúa”[27].
Chính theo nhăn
quan này, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă tuyên bố : “Vậy, tính cách trần
thế của giáo dân phải được
định nghĩa không chỉ theo ư nghĩa xă
hội học, nhưng nhất là theo ư nghĩa
thần học. Tính cách trần thế ấy
phải được hiểu dưới ánh
sáng của hành vi sáng tạo và cứu độ
của Thiên Chúa, Đấng đă trao phó
thế giới cho con người, nam cũng như
nữ, để họ tham dự vào công
cuộc sáng tạo, giải phóng tạo
vật khỏi ảnh hưởng của
tội lỗi, và để họ thánh hóa
bản thân trong đời sống hôn nhân hay
độc thân, trong gia đ́nh, nghề
nghiệp và trong các họat động xă
hội khác”[28].
Vị
trí của người giáo dân trong Giáo Hội được
xác định tự nền tảng của nó
bắt đầu từ sự mới
mẻ Kitô-giáo và có nét đặc trưng
là tính cách trần thế của
nó.[29]
Các h́nh
ảnh trong Tin Mừng về muối, ánh
sáng và men, mặc dầu áp dụng cho
mọi môn đệ của Đức Giêsu, không
phân biệt ai, thế nhưng chúng được
áp dụng một cách hoàn toàn đặc
biệt cho giáo dân. Đó là những h́nh
ảnh có ư nghĩa lạ lùng , bởi v́ không
những chúng diễn tả sự tháp nhập
cách sâu xa và sự tham dự trọn vẹn
của giáo dân trên trái đất vào trần
gian, vào cộng đồng nhân loại, nhưng
nhất là diễn tả sự mới mẻ và
độc đáo của một sự hội
nhập và một sự tham dự hướng
đến việc phổ biến Tin Mừng
cứu độ.
|
5.
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC MỜI
GỌI NÊN THÁNH
Chúng ta
sẽ thấy trọn vẹn phẩm giá
của giáo dân nếu xem xét ơn
gọi đầu tiên và căn
bản được Chúa Cha gửi
đến mỗi người trong họ trong
Đức Giêsu-Kitô, qua trung gian Thánh Thần :
đó là ơn gọi nên thánh, tức là ơn
gọi đạt đến đức ái
trọn hảo. Thánh nhân là chứng từ sáng
ngời nhất về phẩm giá đă
được ban cho môn đệ Đức
Kitô.
Công Đồng
Vatican II đă diễn tả rơ ràng về
lời mời gọi mọi người nên thánh.
Có thể khẳng định rằng đó là
định hướng chính yếu đă
được Công Đồng ấn định
cho các con cái nam nữ của Giáo Hội,
một Công Đồng được triệu
tập để canh tân đời sống Kitô-giáo
phù hợp với Tin Mừng.[30] Định
hướng này không đơn thuần là
một sự khuyên nhủ luân lư, nhưng là
một đ̣i hỏi không thể tránh né
trong mầu nhiệm Giáo Hội : Giáo
Hội là Cây Nho được tuyển
chọn, nhờ đó các cành được
sống và tăng trưởng do chính nhựa
sống thánh thiện và thánh hóa của Đức
Kitô ; Giáo Hội là Thân Thể mầu
nhiệm trong đó các chi thể tham dự cùng
một đời sống thánh thiện với
thủ lănh là Đức Kitô ; Giáo Hội là
Hiền Thê yêu quư của Chúa Giêsu, Đấng
đă tự phó ḿnh để thánh hóa Giáo
Hội (x. Ep 5,25 tt). Chúa Thánh Thần, Đấng
thánh hóa bản tính nhân loại của Đức
Giêsu trong cung ḷng trinh khiết của Đức
Maria, cũng là Thánh Thần đang cư
ngụ và hoạt động trong Giáo Hội
để thông ban cho Giáo Hội sự thánh
thiện của Con Thiên Chúa làm người.
Ngày nay, hơn
lúc nào hết, mọi kitô-hữu phải
cấp bách trở về với con đường
canh tân theo Tin Mừng, quảng đại đáp
lại lời kêu gọi của thánh Tông Đồ
là “sống thánh thiện trong cách ăn
nết ở” (1 Pr 1,15). Năm 1985, tức
hai mươi năm sau khi kết thúc Công Đồng,
Thượng-hội-đồng khóa ngọai
lệ đă nhấn mạnh thật đúng lúc
về sự cấp bách này : “V́ Giáo Hội
trong Đức Kitô là một mầu nhiệm,
nên phải coi Giáo Hội như một dấu
chỉ và một phương tiện nên thánh.
Trong những giai đọan khó khăn nhất
của lịch sử Giáo Hội, các thánh nam
nữ luôn là nguồn mạch và căn nguyên
của việc canh tân. Ngày nay chúng ta rất
cần có những vị thánh ; chúng ta phải
tha thiết xin Chúa ban cho những vị thánh”[31].
Trong Giáo
Hội, tất cả mọi người, chính
là phần tử của Giáo Hội, nên lănh
nhận và tham dự vào ơn gọi chung là nên
thánh. Không hề có sự khác biệt nào
so với các thành phần khác của Giáo
Hội, các giáo dân đương nhiên
được mời gọi nên thánh :
“Tất cả các kitô-hữu, bất cứ
theo bậc sống hay địa vị nào,
đều được kêu gọi tiến
đến sự viên măn của đời
sống Kitô-giáo và tiến đến sự
trọn lành Đức Ái”[32] ;
“Mọi kitô-hữu đều được
kêu mời và có bổn phận nên thánh và nên
trọn lành theo bậc sống ḿnh”[33].
Ơn
gọi nên thánh có gốc rễ trong
bí tích Thánh Tẩy và được khơi
lại nhờ các bí tích khác ; chủ yếu là
bí tích Thánh Thể : được mặc
lấy Đức Kitô và được tràn
đầy Thánh Thần, các kitô-hữu là
“những vị thánh”, nhờ đấy,
họ có năng cách và nỗ lực bày
tỏ sự thánh thiện của hữu
thể trong sự thánh thiện của mọi
hoạt động của họ. Thánh Phaolô
không ngừng khuyên các kitô-hữu sống
“xứng đáng là các thánh” (Ep 5,3).
Đời
sống theo Thần Khí, mà hoa trái là sự thánh
hóa (Rm 6,22 ; x. Gl 5,22) khơi lên nơi
tất cả và từng người đă lănh
nhận bí tích thánh tẩy khát vọng và
đ̣i hỏi phải nối gót và noi gương
Đức Giêsu-Kitô, qua việc đón nhận
các Mối phúc thật của Ngài, lắng nghe
và suy gẫm Lời Chúa, tham dự cách có ư
thức và chủ động vào đời
sống phụng vụ và bí tích của Giáo
Hội, chuyên chăm việc cầu nguyện cá
nhân, gia đ́nh và cộng đồng, đói
khát sự công chính, thực hành giới
luật yêu thương trong mọi hoàn
cảnh đời sống và trong việc
phục vụ các anh em, đặc biệt
những người hèn kém, nghèo khó và đau
khổ,
- Thánh
hóa bản thân trong trần gian
Lời
mời gọi giáo dân nên thánh đ̣i hỏi
đời sống theo Thần Khí phải
được diễn tả đặc
biệt qua việc họ hội nhập
vào các thực tại trần thế và
tham dự vào các họat động trần
gian. Thánh Phaolô cũng khuyến khích chúng ta :
"Anh em có làm ǵ, nói ǵ, th́ hăy làm hăy nói nhân
danh Chúa Giêsu-Kitô, và nhờ Người mà
cảm tạ Thiên Chúa Cha" (Cl 3,17). Áp
dụng câu nói của thánh Phaolô cho giáo dân, Công
Đồng quả quyết cách mạnh mẽ
: “Những việc trong gia đ́nh cũng như
những việc ngoài xă hội không được
tách rời khỏi động lực siêu nhiên
của cuộc sống”[34].
Sau Thánh Tông Đồ và Công Đồng, các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă tuyên bố : “Sự thống nhất
đời sống của giáo dân là cực
kỳ quan trọng. Thực vậy, họ
phải tự thánh hóa bản thân trong cuộc
sống thường ngày, cuộc sống
nghề nghiệp và xă hội. Để có
thể đáp ứng ơn gọi của ḿnh,
giáo dân phải coi cuộc sống hằng ngày
của ḿnh như một cơ hội kết
hiệp với Thiên Chúa và chu toàn thánh ư Người,
đồng thời coi đó là cơ hội
phục vụ người khác, bằng cách
đưa họ về hiệp thông với Thiên
Chúa trong Đức Kitô”[35]
Người
giáo dân phải hiểu và sống ơn
gọi nên thánh không hẳn như nghĩa
vụ đ̣i buộc và không thể tránh né,
cho bằng như một dấu chỉ sáng chói
về t́nh yêu vô biên của Chúa Cha, Đấng
đă tái sinh họ vào đời sống thánh
thiện của Ngài. Một ơn gọi như
thế, cùng với những điều
kiện nói trên, phải được xác
định như một yếu tố
|
thiết
yếu và không thể tách rời của đời
sống mới trong bí tích thánh tẩy, và v́
thế, như một yếu tố cấu
tạo nên phẩm giá của họ. Đồng
thời, ơn gọi nên thánh cũng liên
hệ mật thiết tới sứ vụ và
trách nhiệm đă được trao phó cho
giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới.
Thực thế, việc nên thánh, phát xuất
từ việc tham dự vào đời sống
thánh thiện của Giáo Hội, cũng góp
phần hàng đầu và căn bản vào
việc xây dựng Giáo Hội, xét như
sự “Hiệp Thông Các Thánh”. Với
cặp mắt đức tin, ta thấy mở
ra một quang cảnh kỳ diệu : đó là
vô số giáo dân, nam cũng như nữ, trong
đời sống và trong hoạt động
thường ngày, thường không được
nhận ra hay đôi khi không được thông
cảm, không được những người
có uy thế ở trần gian đếm
xỉa, nhưng lại được Chúa Cha
nh́n đến với ḷng yêu thương,
những người ấy là những công nhân
làm việc không mệt mỏi trong Vườn
Nho của Chúa, những người thợ
vừa khiêm tốn vừa cao cả – nhờ
quyền lực ân sủng của Thiên Chúa –
làm tăng trưởng Nước Thiên Chúa
trong ḍng lịch sử.
Tiếp
đến, phải nh́n nhận rằng, sự
thánh thiện là một nền tảng
thiết yếu và là điều kiện không
thể thay thế để chu ṭan sứ
vụ cứu độ của Giáo Hội.
Sự thánh thiện của Giáo Hội là
nguồn mạch sâu kín và là mực thước
vững chắc cho họat động tông
đồ và hứng khởi truyền giáo
của Giáo Hội. Chỉ khi nào Giáo Hội,
Hiền Thê của Đức Kitô, để
cho Ngài yêu mến và yêu mến Ngài, th́ Giáo
Hội mới trở nên người Mẹ
sinh sản trong Thánh Thần.
Chúng ta hăy
trở lại với h́nh ảnh Thánh Kinh : cành
nho phát sinh và tăng trưởng tùy thuộc
vào việc chúng gắn liền với cây nho :
"Cũng như cành nho không thể tự ḿnh
sinh hoa trái, nếu không gắn liền với
cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở
lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là
cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy
ở lại trong người ấy, th́ người
ấy sinh nhiều hoa trái, v́ không có Thầy,
anh em chẳng làm ǵ được (Ga
15,4-5).
Ở đây
tất nhiên phải nhắc lại việc long
trọng tôn phong các giáo dân, nam cũng như
nữ, vào hàng ngũ các chân phước và
hiển thánh, diễn ra trong thời gian Thượng-hội-đồng.
Toàn thể Dân Chúa, cách riêng các giáo dân, có
thể t́m thấy nơi các ngài những gương
mẫu mới về sự thánh thiện và
những chứng nhân mới về các nhân
đức anh hùng, được thực hành
trong những hoàn cảnh b́nh thường như
mọi người. Các Nghị Phụ đă
khẳng định : “Ước mong các Giáo
Hội địa phương, nhất là các
Giáo Hội trẻ, hăy lưu tâm t́m ra, trong
số các phần tử của ḿnh, những
người nam và nữ đă làm chứng
về sự thánh thiện giữa những hoàn
cảnh như thế (sống thường
nhật giữa đời và trong bậc
vợ chồng) và có thể nên gương cho
người khác, để, khi có cơ hội,
đề nghị tôn phong chân phước và
hiển thánh cho những người ấy”[36].
Trong
phần cuối những suy tư này nhằm
để xác định vị thế của
người giáo dân trong Giáo Hội, chúng ta
nhớ lại lời chất vấn nổi
tiếng của thánh Lêô Cả : “Hỡi người
kitô-hữu, hăy nhận biết phẩm giá
của ḿnh”[37].
Ngỏ lời với những người
đă nhận lănh bí tích thánh tẩy, thánh
Maximô, giám mục Torinô, cũng nói như
thế : “Hăy trân trọng danh dự đă
được ban cho anh trong mầu nhiệm này
!”[38].
Tất cả mọi người đă lănh bí
tích thánh tẩy đều được
mời gọi lắng nghe một lần
nữa những lời của thánh Augustinô :
“Hăy vui mừng và tạ ơn v́ không
những chúng ta đă trở thành kitô-hữu,
mà trở thành Đức Kitô ... Hăy ngạc
nhiên và vui mừng v́ chúng ta trở thành Đức
Kitô !”[39].
Phẩm giá
kitô-hữu, nguồn mạch của sự b́nh
đẳng giữa mọi thành phần trong Giáo
Hội, bảo đảm và thúc đẩy
tinh thần hiệp thông và huynh đệ,
đồng thời trở nên nguồn mạch
âm thầm mạnh mẽ của sự năng
động tông đồ và truyền giáo
của giáo dân. Đó là một phẩm
giá có tính đ̣i buộc, phẩm
giá của những người thợ
được Chúa kêu gọi làm vườn
nho. Công Đồng tuyên bố : “Nhiệm
vụ cao cả của mọi giáo dân là làm
cho ư định cứu độ của Thiên
Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người
ở mọi thời và mọi nơi”[40]
Tới
đầu trang
<<< === >>> Về
mục lục
[1] CĐ.
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 6
[2] x.
Đề nghị 3
[3] CĐ.
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 31
[4] nt.
[5] Đức
Piô XII, Diễn từ đọc trước các
Tân Hồng Y (20/02/1946)
[6] CĐ
Firenze, Sắc lệnh cho người Armênia :
DS 1314
[7] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, số 10
[8] Thánh
Augustinô, Chú giải Tv XXVI, II, 2
[9] x.
CĐ Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, số 10
[10] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Bài giảng khởi đầu
thừa tác vụ Mục tử Tối Cao
(22/10/1978)
[11] x.
nhắc lại giáo huấn này trong Tài liệu
làm việc, “Ơn gọi và sứ mệnh
của giáo dân trong Giáo Hội và thế
giới hai mươi năm sau Công Đồng
Vatican II”, s. 25
|
[12] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về
|
Giáo
Hội, s. 34
[13] nt.
s. 35
[14] nt.
s. 12
[15] nt.
s. 35
[16] Thánh
Augustinô, Thành Đô Thiên Chúa, XX, 10
[17] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 32
[18] nt.
s.31
[19] Đức PHAOLÔ VI,
Diễn từ đọc trước các
bề trên và thành viên các Tu Hội đời
(02/02/1972)
[20] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ
giáo dân, s. 5
[21] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 31
[22] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 31
|
[23] nt.,
s. 31
[24] nt.,
s. 48
[25] CĐ
Vatican II, Hiến chế về Mục
Vụ, s. 32
[26] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 31
[27] nt.,
s. 31
[28] Đề
nghị 4
[29] “Là
những thành phần trọn vẹn của Dân
Thiên Chúa và của Nhiệm Thể, được
tham dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn
sứ và vương giả của Đức
Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy, người giáo
dân diễn tả và làm nổi bật nét phong
phú của phẩm giá đó trong cuộc
sống giữa trần gian. Có những công
việc đối với những phần
tử trong hàng giáo sĩ được coi là
có tính cách phụ thuộc hoặc ngoại thường,
th́ đối với người giáo dân,
phải được coi như một sứ
vụ tiêu biểu. Ơn gọi riêng
của người giáo dân là “t́m
kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các
việc trần thế và xếp đặt chúng
theo ư Thiên Chúa” (Hiến chế tín lư về
Giáo Hội, số 31)” (Đức Gioan-Phaolô
II, Suy niệm khi đọc kinh Truyền Tin, ngày
15/3/1987)
[30] x.
đặc biệt chương V Hiến
chế tín lư về Giáo Hội, các
số 39–42, bàn về “lời mời gọi
mọi người nên thánh trong Giáo Hội”
[31] THĐGM
năm 1985, Khóa ngoại lệ lần II, Giáo
Hội dưới quyền Ngôi Lời Thiên Chúa
cử hành mầu nhiệm Đức Kitô để
cứu độ thế giới, Bản phúc tŕnh
tổng kết, II, A, 4
[32] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 40
[33] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 42. Những xác quyết long
trọng và hết sức sáng sủa này
của Công Đồng nhắc lại cho chúng
ta một chân lư nền tảng của đức
tin Kitô-giáo. cũng thế, chẳng hạn như
Đức PIÔ XII đă viết trong thông điệp Casti
connubii, gửi các đôi vợ chồng kitô-hữu
: “Dù trong hoàn cảnh hay t́nh trạng sống
nào của ḿnh, mọi người đều
có thể và phải bắt chước
mẫu gương hoàn hảo về sự thánh
thiện do Thiên Chúa ban cho con người, đó
là Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta ; và với
sự trợ giúp của Thiên Chúa, mọi người
đều có thể và phải đạt
đến đỉnh trọn lành Kitô-giáo, như
mẫu gương của bao vị thánh đă
minh chứng”.
[34] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo
dân, s. 4
[35] Đề
nghị 5
[36] Đề
nghị 8
[37] Thánh Lêô Cả, Bài
giảng XXI
[38] Thánh Maximô, Khảo
luận III về bí tích Thánh Tẩy
[39] Thánh Augustinô, Khảo
luận về Tin Mừng theo thánh Gioan, 21, 8
[40] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 33
|
|
Chương II
TẤT
CẢ LÀ NHỮNG CÀNH NHO CỦA MỘT CÂY NHO
DUY NHẤT
Sự
tham gia của giáo dân vào đời sống Giáo
Hội – Hiệp Thông
MẦU
NHIỆM GIÁO HỘI – HIỆP THÔNG
Công
Đồng và Giáo-hội-học hiệp thông
Một
sự hiệp thông hữu thể : khác
biệt và bổ túc
CÁC
TÁC VỤ VÀ ĐOÀN SỦNG : NHỮNG ÂN
HUỆ DO THÁNH THẦN BAN CHO GIÁO HỘI
Các
tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ
Các
tác vụ do bí tích Truyền Chức
Các
tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ
của giáo dân
Các
đoàn sủng
SỰ
THAM DỰ CỦA GIÁO DÂN VÀO ĐỜI
SỐNG GIÁO HỘI
Các
Giáo Hội địa phương và Giáo
Hội phổ quát
Giáo
xứ
Dấn
thân hoạt động tông đồ trong giáo
xứ
CÁC
H̀NH THỨC THAM GIA TRONG SINH HOẠT CỦA GIÁO
HỘI
Các
h́nh thức tham gia cá nhân
Các
h́nh thức tham gia tập thể
Các
tiêu chuẩn có tính Giáo Hội đối
với các hiệp hội giáo dân
Các
Chủ Chăn phục vụ cho việc
hiệp thông
1.
MẦU NHIỆM GIÁO HỘI – HIỆP THÔNG
Chúng
ta hăy nghe lại câu nói của Đức Giêsu
: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là
người trồng nho. ... Hăy ở
lại trong Thầy như Thầy ở lại
trong anh em" (Ga 15,1-4).
Những
lời nói đơn giản này mạc
khải cho chúng ta sự hiệp thông mầu
nhiệm nối kết Chúa với các môn đệ
của Người, nối kết Đức
Kitô với những người đă lănh
nhận bí tích thánh tẩy trong một sự
hiệp nhất hoàn hảo : một sự
hiệp thông sống động và đem
lại sức sống, nhờ đó các tín
hữu không c̣n thuộc về ḿnh, nhưng
thuộc về Đức Kitô, như cành nho
kết hợp với cây nho.
Sự
hiệp thông giữa Chúa Con với Chúa Cha trong
ân huệ của Chúa Thánh Thần chính là
kiểu mẫu, nguồn mạch và cùng đích
của sự hiệp thông giữa các kitô-hữu
với Đức Giêsu : nhờ được
kết hiệp với Chúa Con trong sợi dây t́nh
yêu của Chúa Thánh Thần, các kitô-hữu
được kết hiệp với Chúa Cha.
Đức
Giêsu nói tiếp : “Thầy là cây nho, anh em là
cành” (Ga 15,5). Sự hiệp thông giữa các
kitô-hữu với Đức Kitô làm phát sinh
sự hiệp thông giữa các kitô-hữu
với nhau ; tất cả đều là cành
của một Cây Nho duy nhất là Đức
Kitô. trong sự hiệp thông huynh đệ này,
Chúa Giêsu cho thấy sự phản ánh kỳ
diệu và sự tham dự cách mầu
nhiệm vào đời sống t́nh yêu thâm sâu
của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Đức Giêsu cầu nguyện cho sự
hiệp thông này : "Xin cho tất cả nên
một, lạy Cha, như Cha ở trong con và con
ở trong Cha để họ cũng ở trong
chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin
rằng Cha đă sai con" (Ga 17,21).
Sự
hiệp thông này là chính mầu nhiệm Giáo
Hội, như Công Đồng Vatican II nhắc
lại, qua từ ngữ nổi tiếng
của thánh Cyprianô : “Giáo Hội phổ quát
xuất hiện như một dân tộc
được hiệp nhất nhờ sự
hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con và Chúa
Thánh Thần”[1].
Mầu nhiệm Giáo Hội – Hiệp Thông
được nhắc lại cho chúng ta trong
phần mở đầu thánh lễ, khi vị
linh mục đón tiếp cộng đoàn
bằng lời chào của thánh Phaolô :
“Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu-Kitô
Chúa chúng ta, t́nh yêu của Chúa Cha và ơn thông
hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng
tất cả anh chị em” (2 Cr 13,13).
Sau
khi đă phác họa “khuôn mặt của người
giáo dân qua việc tŕnh bày phẩm giá của
họ, giờ đây chúng ta cần suy tư
về sứ mạng và trách nhiệm của
họ trong Giáo Hội và trong thế giới :
thế nhưng, suy tư ấy chỉ có giá
trị khi được đặt trong
bối cảnh sống động của Giáo
Hội – Hiệp Thông.
-
Công
Đồng và Giáo-hội-học hiệp thông
Trên
đây là ư tưởng trọng tâm đă
được Giáo Hội tŕnh bày lại trong
Công Đồng Vatican II, để xác định
chính ḿnh ; Thượng-hội-đồng
bất thường năm 1985, tức 20 năm
sau Công Đồng, cũng nhắc lại :
“Giáo-hội-học hiệp thông là ư tưởng
trọng tâm và nền tảng trong các văn
kiện của Công Đồng. Từ ngữ koinonia –
sự hiệp thông, có nền tảng Thánh Kinh,
đă được trân trọng trong Giáo
Hội thời đầu, và trong các Giáo
Hội Đông phương cho đến ngày
nay. Chính v́ thế, Công Đồng Vatican II
đă tận lực làm việc để Giáo
Hội được quan niệm một cách rơ
ràng hơn như là một sự hiệp thông,
và để khái niệm này được
diễn tả cách cụ thể trong đời
sống. Vậy “hiệp thông”, từ
ngữ phức tạp này có nghĩa là ǵ ?
Tự căn bản, đó là sự hiệp thông
với Thiên Chúa, qua trung gian Đức Giêsu-Kitô,
trong Chúa Thánh Thần. Con người đạt
được sự hiệp thông này nhờ
Lời Chúa và các bí tích. Bí tích Thánh Tẩy là
cửa ngơ và là nền tảng của sự
hiệp thông trong Giáo Hội. Bí tích Thánh
Thể là nguồn mạch và là cao điểm
của toàn bộ đời sống Kitô-giáo (x. GH 11).
Sự hiệp thông với Thánh Thể Đức
Kitô vừa biểu thị vừa làm phát sinh
– nói khác đi là xây dựng – sự
hiệp thông sâu xa của tất cả mọi
tín hữu trong Thân Thể Đức Kitô là Giáo
Hội (x. 1 Cr 19,16)”[2].
Sau
khi bế mạc Công Đồng, Đức
Phaolô VI ngỏ lời với các tín hữu như
sau : “Giáo Hội là một sự hiệp thông.
Từ ngữ hiệp thông ở đây có nghĩa
là ǵ ? Tôi muốn nhắc lại với anh
chị em đoạn giáo lư nói về sự hiệp
thông các Thánh. Giáo Hội có nghĩa là
hiệp thông các Thánh. Và hiệp thông các Thánh
biểu thị hai cách tham dự vào sự
sống : tháp nhập các kitô-hữu vào đời
sống của Đức Kitô, và lưu
chuyển cùng một đức ái trong toàn
thể cộng đồng tín hữu thuộc
thế giới này cũng như thế
giới bên kia. Hiệp nhất với Đức
Kitô và trong Đức Kitô ; và hiệp nhất
giữa các kitô-hữu trong Giáo Hội”[3].
Các
h́nh ảnh Thánh Kinh, được Công Đồng
sử dụng nhằm giúp chúng ta chiêm ngắm
mầu nhiệm Giáo Hội, đă làm nổi
bật thực tại Giáo Hội – Hiệp Thông
trong chiều kích không phân chia của Giáo
Hội là hiệp thông của các kitô-hữu
với Đức Kitô và hiệp thông giữa
các kitô-hữu với nhau. Các h́nh ảnh đó
là chuồng chiên, đàn chiên, cây nho, ṭa nhà
thiêng liêng, thành thánh.[4] Đặc
biệt, nhiều đoạn văn Công Đồng
lấy hứng từ giáo lư luôn sống động
và hấp dẫn của h́nh ảnh thân
thể, đă được thánh Phaolô tŕnh bày.[5] Dựa
vào toàn bộ lịch sử cứu độ,
Công Đồng cũng tŕnh bày Giáo Hội như
là Dân Thiên Chúa : “Thánh ư Thiên Chúa
muốn loài người được thánh hóa
và cứu độ không phải cách riêng
rẽ, thiếu sự liên kết ; ngược
lại, Ngài muốn quy tụ họ lại thành
một dân tộc để họ nhận
biết Ngài trong chân lư và phụng sự Ngài
trong thánh thiện”[6].
Ngay từ những ḍng đầu tiên, Hiến
chế Ánh sáng muôn dân đă tóm
tắt giáo lư này một cách tuyệt vời :
“Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như bí tích
hoặc dấu chỉ và khí cụ của
sự kết hiệp mật thiết với
Thiên Chúa, và của sự hiệp nhất toàn
thể nhân loại”[7].
Từ
đây, thực tại Giáo Hội –
Hiệp Thông là thành phần toàn vẹn,
hay nói đúng hơn, thực tại ấy
diễn tả nội dung trọng tâm
của “mầu nhiệm”, tức là của
chương tŕnh Thiên Chúa cứu độ nhân
loại. Chính v́ thế, sự hiệp thông Giáo
Hội không được thể hiện cách
trọn vẹn nếu người ta chỉ nh́n
nhận sự hiệp thông này như một
thực tại thuần túy xă hội học và
tâm lư học. Giáo Hội – Hiệp Thông là dân
“mới”, dân “thiên sai”, dân “có vị
thủ lănh là Đức Kitô ... Địa
vị dân này là được vinh dự và
tự do làm con cái Thiên Chúa ... Luật của
họ là giới răn mới : phải yêu thương
nhau như chính Chúa Kitô đă yêu thương
chúng ta ... Sau cùng, vận mệnh của họ
là Nước Thiên Chúa ... và dân tộc ấy
được Chúa Kitô thiết lập để
thông dự vào sự sống, bác ái và chân lư”[8].
Mối dây liên kết các thành phần trong Dân
mới với nhau – trước tiên là
với Đức Kitô – không phải là liên
hệ theo “xác thịt” và “máu huyết”,
nhưng là liên hệ theo tinh thần, đúng hơn
là trong Chúa Thánh Thần, Đấng mà mọi
người đă được rửa
tội đều lănh nhận (x. Ge 3,1).
Thực
vậy, từ thuở đời đời, Thánh
Thần này là mối dây liên kết giữa Ba
Ngôi duy nhất và bất khả phân chia, và là
Đấng “khi thời gian tới hồi viên
măn” (Gl 4,4) đă liên kết bền
chặt xác phàm với Con Thiên Chúa ; qua mọi
thế hệ Kitô-giáo, cũng một Thánh
Thần này là nguồn mạch liên tục và
dồi dào của sự hiệp thông trong Giáo
Hội và của Giáo Hội.
-
Một
sự hiệp thông hữu cơ : khác biệt
và bổ túc
Nói
chính xác hơn, sự hiệp thông Giáo Hội
là một sự hiệp thông “hữu cơ”,
tương tự như sự hiệp thông
của một thân thể sống và hoạt
động : thực vậy, sự hiệp thông
này có đặc tính là cùng một lúc có sự
khác biệt và sự bổ túc giữa
các ơn gọi và các hoàn cảnh sống, các
tác vụ, các đặc sủng và trách
nhiệm . nhờ sự khác biệt và bổ túc
này, mỗi giáo dân có tương quan
với toàn thân thể và, đóng góp
phần riêng của ḿnh vào thân thể
đó.
Tông
Đồ Phaolô đă nhấn mạnh một cách
rất đặc biệt sự hiệp thông
hữu cơ của Huyền Thể Đức
Kitô ; ở đây, một lần nữa, chúng
ta cùng đọc lại giáo huấn rất
phong phú của ngài, đă được Công
Đồng tổng hợp trong Hiến chế Ánh
sáng muôn dân như sau : Đức Giêsu-Kitô
“đă tạo lập cách mầu nhiệm các
em Người, tụ họp từ muôn nước,
thành Thân Thể Người, bằng cách thông
truyền Thánh Thần cho họ. Trong Thân
Thể ấy, sự sống Chúa Kitô tràn lan trên
các tín hữu ... Tất cả các chi thể
tuy nhiều, nhưng chỉ tạo thành một
thân thể ; cũng thế, các tín hữu
hợp thành một thân thể trong Chúa Kitô (x.
1 Cr 12,12). Trong việc xây dựng Thân Thể Chúa
Kitô, cần có nhiều chi thể với
phận vụ khác nhau. Chỉ có một Chúa Thánh
Thần ban những ân huệ khác nhau để
làm ích cho Giáo Hội theo sự sung măn của
Ngài và tùy nhu cầu của công việc (x.
1 Cr 12,1-11). Trong các ân huệ ấy, ơn ban
cho các Tông Đồ đứng hàng đầu
: chính Chúa Thánh Thần đặt dưới
quyền các ngài những người lănh
nhận những đặc sủng (x. 1 Cr
14). Cũng chính Thánh Thần tự ḿnh là nguyên
lư hợp nhất trong thân thể, nơi
thể hiện thần lực Ngài và là nơi
Ngài liên kết tinh thần các chi thể
lại với nhau, Thánh Thần ấy làm phát
sinh và thúc bách đức ái giữa các tín
hữu. V́ thế, nếu một chi thể nào
đau đớn th́ tất cả các chi
thể khác đều bị đau đớn
; và nếu một chi thể nào được
vinh dự, th́ các chi thể khác cùng chung vui (x.
1 Cr 12,26)”[9].
Luôn
luôn chính cũng một Thánh Thần duy
nhất là nguyên lư năng động của
sự khác biệt và hiệp nhất trong
Giáo Hội và của Giáo Hội. Chúng ta cùng
đọc lại Hiến chế Ánh sáng muôn
dân : “Để chúng ta không ngừng canh tân
trong Người (Đức Kitô) (x. Ep 4,23),
Người đă cho ta thông dự vào Thánh
Thần Người, cũng một Đấng
duy nhất hiện hữu trên đầu cũng
như trong các chi thể, làm sống động,
liên kết và thúc giục toàn thân, khiến các
thánh Giáo Phụ đă ví nhiệm vụ
của Chúa Thánh Thần với nguyên lư sự
sống”[10].
Trong một đoạn văn khác, rất xúc tích
và quư giá để hiểu được tính
chất hữu cơ của sự hiệp thông
Giáo Hội, ngay cả theo khía cạnh không
ngừng tăng trưởng hướng
tới sự hiệp thông trọn vẹn, Công
Đồng viết : “Chúa Thánh Thần
ngự trị trong Giáo Hội và trong tâm
hồn các tín hữu như ngự giữa
đền thờ (x. 1 Cr 3,16 ; 6,19), trong
họ, Ngài cầu nguyện và chứng
nhận họ là dưỡng tữ của Thiên
Chúa (x. Gl 4,6 ; Rn 8,15-16.16). Ngài dẫn
đưa Giáo Hội vào trong chân lư toàn
vẹn (x. Ga 16,13) và bảo đảm
cho Giáo Hội được hiệp nhất
trong hiệp thông và phục vụ. Ngài
huấn luyện và dẫn dắt Giáo Hội
bằng muôn ơn theo phẩm chức và đoàn
sủng, trang điểm Giáo Hội bằng hoa
quả của Ngài (x. Ep 4,11-12 ; 1 Cr 12,4 : Gl
5,22). Nhờ sức mạnh Phúc Âm, Ngài làm tươi
trẻ, không ngừng canh tân và dẫn
đưa Giáo Hội đến kết
hiệp hoàn toàn với Phu Quân ḿnh. Thực
vậy, Chúa Thánh Thần và Hiền Thê nói cùng
Chúa Giêsu : Xin hăy đến ! (x. Kh 22,17)[11].
Như
thế, sự hiệp thông Giáo Hội là
một ân huệ, một ân huệ lớn lao
do Chúa Thánh Thần ban tặng ; các tín
hữu được mời gọi lănh
nhận hồng ân đó với ḷng tri ân,
đồng thời sống hồng ân đó
với đầy tinh thần trách nhiệm.
Điều đó được thực
hiện cụ thể qua việc họ tham
dự đời sống và sứ vụ
của Giáo Hội ; giáo dân dùng các tác vụ
và các đoàn sủng khác nhau và bổ túc
của họ để phục vụ Giáo
Hội.
Người
giáo dân “không có quyền tự khép kín,
sống đời sống thiêng liêng đơn
độc ngoài cộng đồng, trái
lại họ phải sống một tinh
thần không ngừng chia sẻ với người
khác, với ư thức mănh liệt về t́nh
huynh đệ, trong niềm vui v́ có cùng
một phẩm giá như nhau và trong nỗ
lực cộng tác với người khác
để phát huy kho tàng vô tận đă
thừa hưởng. Thần Khí Chúa ban cho giáo
dân, cũng như các người khác,
nhiều đặc sủng, Ngài kêu gọi
họ tham gia nhiều tác vụ và trách vụ
khác nhau. Thánh Thần nhắc nhở họ, cũng
như nhắc nhở các thành phần khác có tương
quan với họ, rằng nét đặc thù
của giáo dân không phải là một
sự bổ túc về phẩm giá, nhưng là
được ban một năng cách đặc
biệt và bổ túc để phục vụ ... V́
vậy, các đoàn sủng, các tác vụ, trách
vụ và dịch vụ của giáo dân
được thể hiện trong sự
hiệp thông. Đó là những ơn phong phú
được ban thêm v́ lợi ích của
tất cả mọi người, dưới
sự hướng dẫn khôn ngoan của các
Chủ Chăn”[12].
2.
CÁC TÁC VỤ VÀ ĐOÀN SỦNG : NHỮNG ÂN
HUỆ DO THÁNH THẦN BAN CHO GIÁO HỘI
Công
Đồng Vatican II tŕnh bày các tác vụ và
đoàn sủng như là những ân huệ
của Chúa Thánh Thần để xây dựng
Thân Thể Đức Kitô và v́ sứ vụ
để cứu độ thế giới.[13] Thật
vậy, Giáo Hội được điều
khiển và hướng dẫn nhờ Chúa Thánh
Thần, Đấng ban phát các ân huệ khác
nhau, thuộc phẩm trật và đoàn
sủng, cho tất cả những người
đă được rửa tội, bằng cách
mời gọi họ, mỗi người theo cách
thế của ḿnh, hành động và đồng
trách nhiệm.
Giờ
đây, chúng ta hăy nh́n đến các tác
vụ và đoàn sủng, xem xét những liên
hệ của chúng với giáo dân và sự tham
dự của họ vào đời sống Giáo
Hội – Hiệp Thông.
-
Các
tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ
Mặc
dầu có nhiều dạng thức khác nhau, nhưng
tất cả các tác vụ hiện có và
hoạt động trong Giáo Hội, đều
là một sự tham dự vào tác vụ
của Đức Giêsu-Kitô, người
Mục Tử nhân lành hiến mạng sống
ḿnh cho đoàn chiên (x. Ga 10,11), người
tôi tớ khiêm tốn và hoàn toàn hy sinh để
cứu độ mọi người (x. Mc
10,45). Thánh Phaolô nói rất rơ về sự
thiết lập tác vụ trong các Giáo Hội
thời Tông Đồ. Trong thư thứ
nhất gửi tín hữu Corintô, ngài viết :
“Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đă đặt
một số người, thứ nhất là các
tông đồ, thứ hai là các ngôn sứ,
thứ ba là các thầy dạy...” (1 Cr
12,28). Và trong thư gửi tín hữu Ephêsô, chúng
ta đọc thấy : “Mỗi người chúng
ta nhận được ân sủng tùy theo
mức độ Đức Kitô ban cho ... Và chính
Người đă cho kẻ này làm tông đồ,
người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm
người loan báo Tin Mừng, kẻ khác
nữa làm người coi sóc và dạy dỗ.
Nhờ đó, dân thánh được chuẩn
bị để làm công việc phục vụ,
là xây dựng Thân Thể Đức Kitô, cho
đến khi tất cả chúng ta đạt
tới sự hiệp nhất trong đức
tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa,
tới t́nh trạng con người trưởng
thành, tới tầm vóc viên măn của Đức
Kitô” (Ep 4,7.11-13 ; x. Rm 12,4-8). Từ các
đoạn văn này và các đoạn khác
trong Tân Ước, ta thấy các tác vụ cũng
như các ân huệ và các trách vụ thuộc
giáo hội th́ rất nhiều và khác nhau.
-
Các
tác vụ do bí tích Truyền Chức
Trong
Giáo Hội, chúng ta thấy đứng hàng
đầu là các tác vụ được
tấn phong, tức là các tác vụ phát
xuất từ bí tích Truyền Chức Thánh.
Thật vậy, Chúa Giêsu-Kitô đă tuyển
chọn và thiết lập các Tông Đồ
– là “Mầm mống của Israel Mới,
đồng thời cũng là nguồn gốc
của hàng giáo phẩm”[14] – truyền cho các ông làm
cho các dân tộc nên môn đệ của Ngài (x.
Mt 28,19), xây dựng và điều khiển dân
tư tế. Sứ vụ của các Tông Đồ,
mà Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trao phó cho các
vị mục tử của dân Ngài, là một
công việc phục vụ thực sự, đă
được Kinh Thánh diễn tả bằng
một từ ngữ đầy ư nghĩa : “diakonia”,
có nghĩa là phục vụ, tác vụ. Qua bí tích
Truyền Chức Thánh, các thừa tác viên lănh
nhận từ Đức Kitô phục sinh ơn
đoàn sủng của Chúa Thánh Thần, trong
sự tiếp nối liên tục với các Tông
Đồ : như thế, họ lănh nhận
quyền bính và quyền thánh chức mà hành
động “thay mặt Đức Kitô là
Đầu” (“in persona Christi Capitis”)[15],
để phục vụ Giáo Hội, và nhờ
Phúc Âm và các bí tích mà quy tụ Giáo Hội
trong Chúa Thánh Thần.
Các
tác vụ được tấn phong là một
ân sủng lớn lao cho đời sống và
sứ mệnh của toàn thể Giáo Hội,
trước khi là ân sủng cho riêng người
được tấn phong. Các tác vụ
ấy thực hiện và bày tỏ sự tham
dự vào chức Linh Mục của Đức
Kitô, và tự bản tính chứ không phải
trong mức độ, sự tham dự đó
khác với sự tham dự do bí tích Thánh
Tẩy và Thêm Sức được ban cho
tất cả mọi tín hữu. Đàng khác,
như Công Đồng Vatican II nhắc nhở,
cùng đích chính yếu của chức tư
tế thừa tác là chức tư tế vương
giả của mọi tín hữu và hướng
về chức tư tế này.[16]
V́
thế, để bảo đảm và phát
triển sự hiệp thông trong Giáo Hội,
đặc biệt những ǵ liên quan đến
các tác vụ khác nhau và bổ túc cho nhau, các
vị chủ chăn phải xác tín hết
sức vững chắc rằng tác vụ
của các ngài hướng về việc
phục vụ dân Thiên Chúa (x. Dt 5,1), và
về phần ḿnh, giáo dân phải hiểu
rằng chức tư tế thừa tác hoàn toàn
cần thiết cho đời sống của
họ trong Giáo Hội và cho sự tham dự
của họ vào sứ vụ của Giáo
Hội.[17]
-
Các
tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ
của giáo dân
Sứ
vụ cứu độ của Giáo Hội trong
thế giới được thực hiện
không những nhờ các thừa tác viên đă
lănh bí tích Truyền Chức Thánh, nhưng c̣n
nhờ tất cả mọi giáo dân : thực
vậy, nhờ đă được chịu phép
thánh tẩy và nhờ ơn gọi chuyên
biệt của ḿnh, các giáo dân, mỗi người
theo mức độ của ḿnh, tham dự vào
chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương
giả của Đức Kitô.
V́
thế, các vị chủ chăn có bổn
phận phải nh́n nhận và cổ vơ các tác
vụ, chức vụ và nhiệm vụ của
giáo dân, những chức vụ và nhiệm
vụ này đặt nền tảng trên bí
tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, hơn nữa,
đối với phần đông trong số
họ, c̣n thêm bí tích Hôn Phối.
Ngoài
ra, khi nhu cầu và lợi ích của Giáo
Hội đ̣i hỏi, các vị chủ chăn
có thể, chiếu theo quy tắc của
luật chung, mà trao phó cho giáo dân một
số chức vụ và nhiệm vụ, dù
vẫn gắn liền với tác vụ riêng
của vị chủ chăn, nhưng không
buộc có ấn tích của bí tích Truyền
Chức Thánh. Giáo luật quy định : “Nơi
nào nhu cầu Giáo Hội đ̣i hỏi, và
thiếu thừa tác viên thánh, th́ các giáo dân,
dù không có tác vụ đọc sách và giúp
lễ, cũng có thể thay thế họ làm
một số công việc : tỉ như thi hành
tác vụ Lời Chúa, chủ tọa buổi
cầu nguyện, ban phép Thánh Tẩy, cho rước
lễ, theo các quy tắc luật định”[18].
Tuy nhiên, việc thi hành một nhiệm
vụ như thế không biến giáo dân thành
một chủ chăn : thực ra, yếu
tố cấu tạo tác vụ không phải do
chính hoạt động nhưng là sự
truyền chức thánh bí tích. Chỉ có bí tích
Truyền Chức Thánh mới ban cho thừa tác
viên được thụ phong được
quyền tham dự đặc biệt vào
chức vụ của Đức Kitô Thủ Lănh
và Mục Tử, cũng như vào chức tư
tế vĩnh cửu của Ngài.[19] Nhiệm
vụ được thi hành với tư cách
thay thế có được sự hợp pháp
cách chính danh và trực tiếp khi được
vị chủ chăn ủy nhiệm chính
thức và, khi thi hành nhiệm vụ này cách
cụ thể, người thay thế phải
tuân theo sự điều khiển của
quyền bính Giáo Hội.[20]
Thượng-hội-đồng
vừa qua đă tŕnh bày một toàn cảnh
rộng lớn và đầy ư nghĩa về t́nh
h́nh Giáo Hội liên quan đến các tác
vụ, chức vụ và nhiệm vụ của
những người đă được thánh
tẩy. Các Nghị Phụ đă nồng
nhiệt biểu lộ ḷng quư mến v́
sự cộng tác quan trọng trong việc tông
đồ của người giáo dân, nam cũng
như nữ, trong đời sống Giáo
Hội bằng các đoàn sủng và mọi
hoạt động của họ để
phục vụ chío việc Phúc-âm-hóa, và đem
tinh thần Kitô-giáo vào các thực tại
trần thế. Đồng thời, các ngài cũng
đánh giá cao sự tận tụy thường
xuyên của họ trong các cộng đồng
giáo hội và sự quảng đại
của họ sẵn sàng thay thế trong
những trường hợp nghiêm trọng hay
nhu cầu kéo dài.[21]
Tiếp
theo sau cuộc canh tân phụng vụ do Công
Đồng cổ vơ, chính giáo dân, v́ đă ư
thức rơ ràng hơn về các công việc
thuộc về họ trong cộng đoàn
phụng vụ hoặc trong việc chuẩn
bị cộng đoàn này, nên rất sẵn sàng
cho cử hành của họ : quả thực,
cử hành phụng vụ là một hành động
thánh của toàn thể cộng đoàn,
chứ không của riêng hàng giáo sĩ mà thôi.
V́ thế, hoàn toàn hợp lư khi những
hoạt động không thuộc riêng các
thừa tác viên có chức thánh lại
được các giáo dân thi hành.[22] Một
khi có được sự tham dự hữu
hiệu của giáo dân vào trong hoạt động
phụng vụ, th́ đương nhiên ta cũng
chấp nhận sự tham gia của họ vào
việc loan báo Lời Chúa và công tác mục
vụ.[23]
Tuy
thế, cũng trong Thượng-hội-đồng
vừa qua, bên cạnh những nhận định
tích cực, cũng không thiếu những phê
phán. Các phê phán này đề cập đến
việc sử dụng không phân biệt từ
ngữ “tác vụ”, sự lẫn lộn và
đôi khi san bằng giữa chức tư
tế cộng đồng và chức tư
tế, việc áp dụng không đúng đắn
một số quy tắc và luật lệ
của Giáo Hội, giải thích tùy tiện
theo quan niệm “thay thế”, khuynh hướng
“giáo sĩ hóa” giáo dân và nguy cơ tạo nên
trong thực tế một cơ cấu phục
vụ trong Giáo Hội song song với cơ
cấu đặt nền tảng trên bí tích
Truyền Chức Thánh.
Hẳn
nhiên, để tránh những nguy cơ ấy,
các Nghị Phụ đă nhấn mạnh đến
nhu cầu phải minh định, bằng
thuật ngữ chính xác hơn,[24] sự duy
nhất về sứ vụ của Giáo
Hội, mà mọi người đă được
thánh tẩy đều tham dự, và sự
khác biệt chính yếu về tác vụ
của các chủ chăn, đặt nền
tảng trên bí tích Truyền Chức Thánh, so
với các tác vụ, chức vụ và
nhiệm vụ khác trong Giáo Hội, đặt
nền tảng trên bí tích Thánh Tẩy và Thêm
Sức.
V́
thế, khi nh́n nhận và trao phó cho giáo dân các
tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ, trước
hết, các vị chủ chăn cần đặc
biệt lưu ư dạy cho họ hiểu
rằng các công việc ấy bắt nguồn
từ bí tích thánh tẩy. Sau nữa các ngài cũng
phải đề pḥng đừng dễ dăi và
lạm dụng tới “những t́nh huống”
được phỏng đoán là “khẩn
cấp” hay “sự thay thế cần
thiết”, khi khách quan không có hoặc khi có
thể tránh được bằng cách sắp
xếp chương tŕnh mục vụ hợp lư
hơn.
Các
chức vụ và nhiệm vụ khác nhau mà người
giáo dân có thể thi hành cách hợp pháp trong
phụng vụ, trong việc chuyển đạt
đức tin và trong những cơ cấu
mục vụ của Giáo Hội, phải
được thi hành phù hợp với
ơn gọi giáo dân đặc biệt của
họ, khác với ơn gọi của các
thừa tác viên có chức thánh. Theo nghĩa này,
tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii nuntiandi)
đă mang lại những hệ quả rất
lớn lao và tốt đẹp để
gợi lên việc cộng tác đa dạng
của giáo dân vào đời sống và sứ
vụ Tin Mừng của Giáo Hội. Tông
huấn nhắc nhở rằng : “Cánh đồng
dành cho hoạt động truyền giáo
của giáo dân là cả một thế giới
bao la và phức tạp của chính trị, xă
hội, kinh tế, và của cả văn hóa,
khoa học, nghệ thuật, đời
sống quốc tế, những phương
tiện truyền thông xă hội, cũng như
một số thực tại khác đang đặc
biệt chờ được Phúc-âm-hóa như
t́nh yêu, gia đ́nh, giáo dục thiếu nhi và
thanh niên, nghề nghiệp, đau khổ. Càng
có nhiều giáo dân được thấm
nhuần tinh thần Tin Mừng, có trách
nhiệm về những thực tại này và
minh nhiên dấn thân vào đó, có khả năng
phát huy chúng và ư thức ḿnh có bổn
phận phát huy tất cả khả năng Kitô-giáo
của ḿnh cho tới lúc đó thường
bị chôn vùi và bị bóp nghẹt, th́
những thực tại này càng góp phần xây
dựng Nước Thiên Chúa và Sự Cứu
Rỗi trong Đức Kitô, mà không đánh
mất hay hy sinh giá trị nhân loại của
chúng, nhưng trái lại c̣n biểu lộ
một chiều kích siêu việt thường
ít được biết đến”[25].
Trong
thời gian Thượng-hội-đồng làm
việc, các Nghị Phụ đă nghiên cứu
rất kỹ về tác vụ Đọc Sách và
Giúp Lễ. Xưa kia, trong Giáo Hội La-tinh, các
tác vụ này chỉ là những giai đoạn
chuẩn bị tinh thần trên con đường
tiến đến các chức thánh ; Tự
Sắc “Một số tác vụ” (Ministeria
quaedam) của Đức Phaolô VI (ngày 15/8/1972)
đă xác định một mức độ
tự trị và vững bền nào đó cho các
tác vụ này và chúng có thể được
trao ban cho giáo dân, nhưng chỉ cho nam giới
mà thôi. Bản Giáo Luật mới cũng theo
chiều hướng này.[26] Các
Nghị Phụ cũng mong muốn duyệt
lại “Tự Sắc”Ministeria quaedam, lưu
ư đến tập tục các Giáo Hội
địa phương và nhất là cần nêu
ra những tiêu chuẩn quy định cách
thức tuyển chọn những ứng viên
cho mỗi tác vụ”[27].
V́
vậy, một Ủy Ban đặc biệt
được thành lập không những để
đáp lại mong muốn rơ ràng của các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng,
nhưng c̣n và nhất là để nghiên
cứu cách sâu xa những vấn đề khác
nhau về thần học, phục vụ, pháp lư
và mục vụ được đặt ra do
hiện nay có nhiều tác vụ được
trao phó cho giáo dân.
Trong
khi chờ đợi Ủy Ban đưa ra
kết luận, để việc thi hành trong
Giáo Hội các tác vụ trao phó cho giáo dân
được trật tự và mang lại
hiệu quả, th́ tất cả mọi Giáo
Hội địa phương phải trung thành
tôn trọng các nguyên tắc thần học
được nhắc tới trên đây,
đặc biệt là sự khác biệt
chủ yếu giữa chức tư tế
thừa tác và chức tư tế cộng
đồng, và do đó, sự khác biệt
giữa các tác vụ do bí tích Truyền
Chức Thánh và các tác vụ do bí tích Thánh
Tẩy và Thêm Sức.
-
Các
đoàn sủng
Khi
trao phó cho Giáo Hội – Hiệp Thông những
tác vụ khác nhau, Chúa Thánh Thần làm cho Giáo
Hội thêm phong phú nhờ những ân huệ và
những thôi thúc đặc biệt khác
nữa, được gọi là các đoàn
sủng. Các đoàn sủng có thể mặc
những h́nh thức rất khác nhau, hoặc như
một cách cho thấy Thánh Thần là Đấng
tự do tuyệt đối trong việc ban phát
các đoàn sủng, hoặc như một cách
đáp lại muôn vàn đ̣i hỏi trong
lịch sử Giáo Hội. Bản mô tả và
xếp loại các ân huệ này trong Tân Ước
là một dấu chỉ về tính đa
dạng của đặc sủng : "Thần
Khí tỏ ḿnh ra nơi mỗi người
một cách, là v́ lợi ích chung. Người
th́ được Thần Khí ban cho ơn khôn
ngoan để giảng dạy, người th́
được Thần Khí ban cho ơn hiểu
biết để tŕnh bày. Kẻ th́ được
Thần Khí ban cho ḷng tin; kẻ th́ cũng
được chính Thần Khí duy nhất
ấy ban cho những đặc sủng để
chữa bệnh. Người th́ được
ơn làm phép lạ, người th́ được
ơn nói tiên tri ; kẻ th́ được
ơn phân định thần khí ; kẻ khác
th́ được ơn nói các thứ
tiếng lạ ; kẻ khác nữa lại
được ơn giải thích các tiếng
lạ" (1 Cr 12,7-10 ; x. 1 Cr 12,4-6. 28-31 ; Rm
12,6-8 ; 1 Pr 4,10-11).
Dù
đặc biệt hay b́nh thường và khiêm
tốn, các đoàn sủng đều là
những ân sủng của Thánh Thần,
trực tiếp hay gián tiếp đem lại một
lợi ích cho Giáo Hội, hướng về
việc xây dựng Giáo Hội, thiện ích
của con người và nhu cầu của
thế giới.
Cả
trong thời đại này, chúng ta có thể
thấy các đoàn sủng khác nhau triển
nở nơi giáo dân, nam cũng như nữ. Các
đoàn sủng được ban cho một người
nhất định, nhưng những người
khác cũng có thể chia sẻ cùng đoàn
sủng đó, đến nỗi qua ḍng
thời gian, các đoàn sủng ấy tồn
tại như một di sản sống động
và quư giá, tạo nên một liên hệ thiêng
liêng đặc biệt giữa các cá nhân. Công
Đồng Vatican II đă tŕnh bày về
việc tông đồ giáo dân như sau : “Để
thể hiện việc tông đồ này, Chúa
Thánh Thần thánh hóa dân Thiên Chúa qua các bí tích
và tác tác vụ. Ngài cũng ban cho các tín
hữu những ơn đặc biệt (x. 1 Cr
12,7), “phân phát những ơn đó cho mọi
người tùy ư Ngài” (x. 1 Cr 12,11), để
tất cả và “mỗi người tùy theo
ơn đă nhận mà giúp đỡ nhau, và chính
họ trở nên như những người
quản lư trung tín giữ mọi thứ ơn
của Thiên Chúa” (1 Pr 4,10), hầu xây dựng
toàn Thân trong đức ái (x. Ep 4,16)”[28].
Các
ân huệ của Thánh Thần, cứ theo lôgíc
của sự năng động làm phát sinh ra
chúng, đ̣i buộc những người đă
lănh nhận phải sử dụng chúng để
làm cho toàn thể Giáo Hội được tăng
trưởng, như Công Đồng nhắc
nhở.[29]
Các
đoàn sủng cần được đón
nhận với ḷng tri ân không những nơi
người lănh nhận, mà cả nơi
mọi phần tử trong Giáo Hội. Thực
vậy, các đoàn sủng là kho tàng kỳ
diệu về ân sủng đem lại sức
sinh động tông đồ và sự thánh
thiện cho toàn Thân Thể Đức Kitô ; tuy
nhiên, với điều kiện là các ân
huệ ấy thực sự xuất phát từ
Thánh Thần và phải được thực
thi sao cho hoàn toàn phù hợp với sự thúc
đẩy đích thực của cùng một
Thánh Thần. Chính trong ư nghĩa này mà luôn
cần phải biện biệt các đoàn
sủng. Trong thực tế, như các Nghị
Phụ Thượng-hội-đồng đă
tuyên bố : “Không phải khi nào cũng
dễ dàng biện biệt rạch ṛi và đón
nhận hoạt động của Chúa Thánh
Thần, Đấng muốn thổi đâu th́
thổi. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa
hoạt động nơi mọi tín hữu
của Chúa Kitô, chúng ta ư thức được
những lợi ích do các đoàn sủng đem
lại cho các nhân cũng như cho tất
cả công đồng Kitô-giáo. tuy nhiên, chúng
ta cũng ư thức được quyền
lực của tội lỗi đang ra sức
khuấy nhiễu, phá rối đời
sống của các tín hữu và các cộng
đoàn”[30].
Chính
v́ thế, mọi đoàn sủng phải liên
hệ và tùy thuộc vào các Chủ Chăn
trong Giáo Hội. Công Đồng đă nói
rất rơ : “Các vị thủ lănh trong Giáo
Hội có quyền phán quyết về tính cách
chân chính và sử dụng hợp lư các ơn
lạ ấy. Các ngài có nhiệm vụ đặc
biệt phải khảo sát tất cả, không
phải để dập tắt Thánh Thần,
nhưng để giữ lại những điều
thiện hảo (x. 1 Tx 5,12. 19-21)”[31],
để mọi ân sủng đều góp
phần vào lợi ích chung, trong sự khác
biệt và bổ túc lẫn nhau.[32]
3.
SỰ THAM DỰ CỦA GIÁO DÂN VÀO ĐỜI
SỐNG GIÁO HỘI
Giáo
dân tham dự vào đời sống của Giáo
Hội không những bằng việc thi hành các
tác vụ và đoàn sủng của họ, nhưng
c̣n bằng nhiều cách nữa.
Sự
tham dự này được thể hiện trước
hết và cần thiết trong đời
sống và sứ vụ của các Giáo Hội
địa phương, trong các Giáo Phận,
trong đó “Giáo Hội duy nhất, thánh
thiện, công giáo và tông truyền của Chúa
Kitô hiện diện và hành động thực
sự”[33].
-
Các
Giáo Hội địa phương và Giáo
Hội phổ quát
Để
tham dự đúng đắn vào đời
sống Giáo Hội, giáo dân cần phải có
một cái nh́n sáng suốt và chính xác về Giáo
Hội địa phương liên hệ
với Giáo Hội phổ quát. Giáo Hội
địa phương không phải là một
mảnh nhỏ của Giáo Hội phổ quát,
và Giáo Hội phổ quát cũng không phải
chỉ là tổng số các Giáo Hội địa
phương ; ngược lại, điều
liên kết các Giáo Hội chính là sợi dây
sống động, cốt yếu và trường
cửu, theo nghĩa Giáo Hội phổ quát
hiện hữu và tỏ lộ ra nơi các Giáo
Hội địa phương. Chính v́ vậy,
Công Đồng quả quyết : các Giáo
Hội địa phương “được
thành lập theo h́nh ảnh Giáo Hội phổ
quát : chính nhờ và trong Giáo Hội ấy mà
có một Giáo Hội Công Giáo, duy nhất”[34].
Công
Đồng c̣n thôi thúc giáo dân tích cực tùy
thuộc vào Giáo Hội địa phương,
trong khi vẫn duy tŕ tinh thần “công giáo”.
Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân
viết : “Giáo dân phải luôn phát huy ư
thức về giáo phận, v́ giáo xứ là
một tế bào của giáo phận. Họ
phải luôn mau mắn đáp lại tiếng
gọi của chủ chăn trong việc tham
gia vào các công cuộc chung của giáo phận.
Hơn nữa, để đáp ứng
những nhu cầu nơi thành thị cũng như
ở thôn quê, họ không chỉ hạn
hẹp sự cộng tác của ḿnh trong
giới hạn giáo xứ hay giáo phận, nhưng
cố gắng mở rộng phạm vi tới
cả các lănh vực liên xứ, liên giáo
phận, quốc gia và quốc tế. Hơn
nữa, việc di dân mỗi ngày một
nhiều, những mối bang giao gia tăng,
việc giao thông dễ dàng đă không để
một thành phần xă hội nào sống đóng
kín cho riêng ḿnh. V́ thế, người giáo dân
phải quan tâm đến những nhu cầu
của Dân Thiên Chúa trên khắp địa
cầu”[35].
Cũng
trong ư hướng đó, Thượng-hội-đồng
vừa qua đă yêu cầu thiết lập các
hội đồng mục vụ giáo phận,
để tham khảo ư kiến khi có nhu
cầu. Trong thực tế, trên b́nh diện giáo
phận, đây là cách thức chính yếu
để cộng tác và đối thoại,
đồng thời để nhận định
nữa. Sự tham gia của giáo dân vào các
Hội Đồng này có thể mở rộng
việc xin ư kiến, và như thế, nguyên
tắc về cộng tác – mà trong một vài
trường hợp, có thể đi đến
chỗ lấy quyết định – sẽ
được áp dụng rộng răi và
chắc chắn hơn.[36]
Giáo
Luật đă trù liệu sự tham gia của
giáo dân vào các hội nghị giáo phận và
các công đồng riêng thuộc giáo
tỉnh hay toàn miền.[37] Sự
tham gia này sẽ cổ vơ cho sự hiệp thông
và trợ giúp cho sứ vụ của Giáo
Hội tại Giáo Hội địa phương,
trong giới hạn riêng cũng như trong
mối liên hệ với các Giáo Hội địa
phương khác thuộc cùng giáo tỉnh hay cùng
một Hội Đồng Giám Mục.
Các
Hội Đồng Giám Mục được
mời gọi nghiên cứu một phương
thức thực tiễn nhất để
mở rộng, trên b́nh diện quốc gia hay
miền, việc tham khảo ư kiến và
cộng tác của giáo dân, nam cũng như
nữ, để ư thức rơ hơn về
những vấn đề chung và bày tỏ
được sự hiệp thông giáo hội
của mọi người.[38]
-
Giáo
xứ
Mặc
dù có chiều kích phổ quát, sự hiệp
thông giáo hội được diễn tả
cách trực tiếp và hữu h́nh nhất nơi giáo
xứ. Giáo xứ là cơ sở cuối cùng
của Giáo Hội ; theo một nghĩa nào
đó, chính Giáo Hội hiện diện
giữa các ngôi nhà của con cái nam nữ
của ḿnh.[39]
Tất
cả chúng ta phải lấy ḷng tin khám phá
lại dung mạo đích thực của giáo
xứ, tức là chính “mầu nhiệm” Giáo
Hội đang hiện diện và hoạt động
trong giáo xứ. Mặc dù đôi khi có
những giáo xứ thiếu nhân sự và phương
tiện, hoặc tản mác trong những khu
vực mênh mông, hay hầu như mất hút
trong những khu phố hiện đại đông
đúc và hỗn độn, th́ giáo xứ tiên
vàn không phải là một cơ cấu,
một lănh địa, một ṭa nhà ; nhưng
trước hết, “giáo xứ là gia đ́nh
của Thiên Chúa, là cộng đoàn huynh đệ
chỉ có một tâm hồn”[40].
Giáo xứ là “mái ấm gia đ́nh, huynh đệ
và niềm nở”[41],
là “cộng đoàn các tín hữu”[42].
Tóm lại, giáo xứ được xây
dựng trên một thực tại thần
học, v́ đó là một cộng đồng
Thánh Thể.[43] Thánh
Thể là nguồn gốc sống động
cho sự thiết lập và phát triển
của giáo xứ, và là mối dây bí tích
để giáo xứ hiệp thông hoàn toàn
với toàn thể Giáo Hội. Tư cách đó
đặt nền tảng trên sự kiện giáo
xứ là một cộng đồng đức
tin và là một cộng đồng
hữu cơ, nghĩa là được cấu
thành do những thừa tác viên có chức thánh,
cùng với các kitô-hữu khác, dưới
quyền hữu trách của một cha xứ,
vừa thay mặt Giám mục giáo phận,[44] vừa
là mối dây phẩm trật để liên
kết với toàn Giáo Hội địa phương.
Chắc
chắn công việc của Giáo Hội trong
thời đại này thật bao la. Để
làm công việc đó, chắc chắn giáo
xứ không thể cáng đáng nổi. V́
thế Giáo Luật đă trù liệu những
h́nh thức cộng tác giữa các giáo xứ
trong cùng một hạt,[45] và
chỉ thị cho Giám mục phải chăm sóc
mọi thành phần tín hữu, kể cả
những người không được hưởng
những sinh hoạt mục vụ thông thường.[46] Thật
vậy, nhiều địa điểm gặp
gỡ cũng như những cách thức
hiện diện và hoạt động khác nhau
là cần thiết để mang Lời Chúa và
hồng ân Tin Mừng đến tận
những hoàn cảnh sống rất khác nhau
của con người thời nay ; nhiều h́nh
thức khác để chiếu rọi tinh
thần đạo đức và hoạt động
tông đồ môi trường, trong các lănh
vực văn hóa, xă hội, giáo dục,
nghề nghiệp, v.v... không thể lấy giáo
xứ làm trung tâm hay khởi điểm. Tuy
vậy, cũng ngày nay, giáo xứ đang
sống trong một giai đoạn mới và
đầy hứa hẹn. Đức Phaolô VI,
khi bắt đầu sứ vụ Giáo Hoàng
của ngài, đă ngỏ lời với hàng giáo
sĩ Rôma nhu sau : “Chúng tôi tin tưởng
một cách rất đơn giản rằng, cơ
chế cổ truyền và đáng kính là giáo
xứ có một sứ vụ cần thiết
rất hiện đại. Chính giáo xứ
phải tạo ra một cộng đồng
đầu tiên của dân kitô-hữu ; chính giáo
xứ phải dướng dẫn bước
đầu cho Dân Chúa làm quen với cách
diễn tả b́nh thường của đời
sống phụng vụ và tập họp để
cử hành phụng vụ ; chính giáo xứ
phải duy tŕ và làm tươi trẻ niềm
tin nơi con người ngày hôm nay ; chính giáo
xứ c̣n phải dạy cho họ giáo lư
của Đức Kitô ; chính giáo xứ cũng
phải hăng say và tận tụy thực thi
đức ái khiêm tốn trong các công cuộc
từ thiện và huynh đệ”[47].
Về
phần ḿnh, các Nghị Phụ rất lưu tâm
nghiên cứu t́nh trạng hiện nay của
nhiều giáo xứ, và đă yêu cầu các
giáo xứ phải tự canh tân một cách
dứt khoát hơn : “Có nhiều giáo xứ,
ở đô thị cũng như ở các
miền truyền giáo, hiện không thể
hoạt động hữu hiệu v́ phương
tiện vật chất eo hẹp hay thiếu
những thừa tác viên có chức thánh,
hoặc v́ lư do địa lư quá rộng
lớn hay điều kiện sống đặc
thù của một số kitô-hữu (chẳng
hạn những người phải sống lưu
đày hay những di dân). Để các giáo
xứ này trở thành những cộng đồng
kitô-hữu thực sự, các vị lănh đạo
tại địa phương phải cổ vơ
: a/ việc thích nghi các cơ cấu
trong giáo xứ một cách uyển chuyển và
linh động như đă được Giáo
Luật chấp thuận, nhất là bằng cách
khuyến khích giáo dân tham gia vào các trách
nhiệm mục vụ của giáo xứ ; b/ những
cộng đồng cơ bản nhỏ, c̣n
được gọi là cộng đồng
sinh hoạt, ở đó các tín hữu có
thể chia sẻ Lời Chúa và sống
phục vụ yêu thương ; những
cộng đồng này là h́nh thức diễn
tả đích thực sự hiệp thông giáo
hội và là trung tâm loan truyền Phúc Âm, trong
sự hiệp thông với các vị Chủ Chăn”[48].
Để canh tân các giáo xứ và để
hoạt động giáo xứ đạt
được thành quả tốt đẹp hơn,
phải khuyến khích các h́nh thức hợp tác
giữa các giáo xứ khác nhau trong cùng một
vùng, ngay cả những h́nh thức thuộc
thể chế.
-
Dấn
thân hoạt động tông đồ trong giáo
xứ
Giờ
đây cần nhận định rơ hơn
sự hiệp thông và tham gia của giáo dân vào
sinh hoạt giáo xứ. Ở đây cần
nhắc cho giáo dân lưu ư đến một
lời rất đúng, đầy ư nghĩa và
khích lệ của Công Đồng. Sắc
lệnh về Tông Đồ giáo dân viết :
“Trong những cộng đồng giáo hội,
hoạt động của họ cần
thiết đến nỗi nếu không có nó,
chính hoạt động tông đồ của
các chủ chăn thường không thể
đạt được kết quả đầy
đủ”[49].
Đó là một khẳng định nền
tảng, và rơ ràng phải được
hiểu dưới ánh sáng của khoa “Giáo-hội-học
hiệp thông” : các thừa tác vụ và các
đoàn sủng, v́ khác biệt và bổ túc
cho nhau, nên theo thể thức của ḿnh, đều
cần thiết cho sự tăng trưởng
của Giáo Hội.
Giáo
dân ngày càng phải xác tín mạnh mẽ hơn
về ư nghĩa của việc dấn thân
hoạt động tông đồ trong giáo
xứ của ḿnh. Công Đồng cũng có lư
khi nhấn mạnh điểm đó : “Giáo
xứ là một h́nh thức tông đồ
cộng đồng kiểu mẫu, v́ đó là
nơi quy tụ mọi hạng người thành
một cộng đoàn và đem họ vào tinh
thần đại đồng của Giáo
Hội. Giáo Hội nên tập thói quen cộng
tác chặt chẽ với các linh mục
của ḿnh trong các hoạt động của
giáo xứ. Họ cũng nên tập quen tŕnh bày
với cộng đoàn giáo hội về
những vấn đề riêng của cộng
đoàn ḿnh hay của cả thế giới,
hoặc những vấn đề liên quan đến
ơn cứu độ con người, để
cùng nhau góp ư kiến, nghiên cứu và giải
quyết. Họ cũng phải tùy khả năng
mà trợ giúp những công cuộc tông đồ
và truyền giáo của gia đ́nh Giáo Hội
địa phương”[50].
Công
Đồng ám chỉ đến việc xem xét
và giải quyết các vấn đề
mục vụ “với sự tham gia của
mọi người”, điều ám chỉ này
phải được triển khai một cách
tương xứng và có hệ thống qua
việc đề cao một cách chân thành
nhất, rộng răi nhất và chắc chắn
nhất, những hội đồng mục
vụ giáo xứ đă được các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
nhấn mạnh rơ ràng và chính đáng.[51]
Trong
t́nh h́nh hiện nay, giáo dân có thể và
phải nỗ lực rất nhiều để
làm cho sự hiệp thông đích thực
trong Giáo Hội được tăng trưởng
ngay trong ḷng giáo xứ của ḿnh và khơi
dậy hứng khởi truyền giáo cho
những người không tin và cho cả
những tín hữu đă từ bỏ hay
hời hợt với đời sống kitô-hữu.
Nếu
giáo xứ là Giáo Hội được
ươm trồng giữa các ngôi nhà của
con người, th́ giáo xứ phải sống
và sinh hoạt gắn bó mật thiết
với xă hội con người và liên đới
sâu xa với những khát vọng cũng như
thảm trạng của họ. Rất nhiều
khi bối cảnh xă hội, nhất là trong
một số nước và một số môi
trường, bị giao động mạnh do
những thế lực làm tan ră và phi nhân hóa
: con người trở nên lầm lạc và
mất hướng, nhưng tự thâm tâm,
họ vẫn luôn luôn ước vọng
được cảm nghiệm và vun đắp
những tương quan huynh đệ và nhân
bản hơn. Giáo xứ có thể đáp
ứng được ước vọng đó
nếu, nhờ sự tham gia tích cực của
giáo dân, giáo xứ trung thành với ơn
gọi và sứ vụ nguyên thủy của ḿnh
: giữa thế gian, là “nơi” hiệp thông
các tín hữu, đồng thời là “dấu
chỉ” và “khí cụ” của lời
mời gọi mọi người sống
hiệp thông ; nói tóm lại, giáo xứ
phải là ngôi nhà rộng mở để
đón nhận mọi người và phục
vụ mọi người, hay như kiểu nói
ưng ư của Đức Gioan XXIII, giáo xứ
là giếng nước đầu xóm, nơi
mọi người đến giải khát.
4.
CÁC H̀NH THỨC THAM GIA TRONG SINH HOẠT CỦA
GIÁO HỘI
Giáo
dân, hiệp nhất với các linh mục và tu
sĩ nam nữ, làm nên một Dân duy nhất
của Thiên Chúa, một Thân Thể duy nhất
của Đức Kitô.
Là
“chi thể” của Giáo Hội, điều
đó không cản trở mỗi người
kitô-hữu vẫn là một “hữu thể
độc nhất và không thể thay thế”
; ngược lại, điều đó làm cho
tính độc nhất bất khả thay
thế của mỗi người có được
ư nghĩa sâu xa nhất, v́ tính độc
nhất này là nguồn gốc của sự
đa dạng và phong phú cho toàn thể Giáo
Hội. Chính theo nghĩa đó mà Thiên Chúa, qua
Đức Giêsu-Kitô, kêu gọi đích danh
từng người trong chúng ta, mà không
thể lẫn lộn. Lời mời gọi
của Chúa Giêsu : “Cả các anh nữa, vào làm
vườn nho cho tôi đi” nói với
từng cá nhân và có nghĩa là “cả anh
nữa, cũng vào làm vườn nho cho tôi
đi !”.
Chính
v́ thế mà mỗi người chúng ta,
với tính cách độc nhất không thể
thay thế của ḿnh, hiến thân làm cho
sự hiệp thông giáo hội được
tăng trưởng, bằng bản thân và hành
động của ḿnh, cũng như đón
nhận và đồng hóa theo cách riêng ḿnh,
sự phong phú của Giáo Hội toàncầu. Chính
đó là sự “Hiệp thông các Thánh” mà chúng
ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính : thiện ích
của mọi người trở thành
thiện ích của mỗi người và
thiện ích của mỗi người trở
thành thiện ích của mọi người. Thánh
Grêgôriô Cả đă viết : “Trong Hội Thánh,
mỗi người nâng đỡ các người
khác và các người khác nâng đỡ
lại họ”[52].
-
Các
h́nh thức tham gia cá nhân
Một
điều tuyệt đối cần thiết
là giáo dân phải luôn ư thức sống
động ḿnh là một “chi thể của
Giáo Hội”, được trao phó một
nhiệm vụ độc đáo, không thể
thay thế và không thể ủy thác cho người
khác, một nhiệm vụ phải hoàn thành v́
lợi ích của mọi người. trong
viễn ảnh đó, quả quyết của Công
Đồng Vatican II về việc mỗi người
nhất thiết phải làm việc tông đồ,
đă nói lên tất cả ư nghĩa :
“Việc tông đồ mà mỗi người
phải thực hiện và là việc luôn luôn
bắt nguồn từ mạch sống Kitô-giáo (x.
Ga 4,14), việc ấy là nguyên lư và điều
kiện của mọi hoạt động tông
đồ giáo dân, kể cả việc tông
đồ giáo dân tập thể, và không ǵ có
thể thay thế được. Việc tông
đồ cá nhân này rất hiệu quả
ở bất cứ nơi nào và thời nào ; hơn
nữa, trong một số hoàn cảnh, chỉ
có nó mới thích hợp và mới có thể
thực hiện được. Mọi người
giáo dân, dù thuộc thành phần nào đi
nữa, dù không có cơ hội hay khả năng
cộng tác trong các phong trào, cũng đều
được kêu gọi và đều có
nhiệm vụ phải thực hành việc tông
đồ cá nhân”[53].
Việc
tông đồ cá nhân chứa đựng kho tàng
phong phú lớn lao cần được khám phá
để gia tăng sức năng động
truyền giáo của mỗi giáo dân. Nhờ h́nh
thức tông đồ này, Tin Mừng có
thể chiếu giăi như hiện tượng
mạo dẫn, đi vào mọi khu vực và môi
trường mà cuộc sống thường
nhật và cụ thể của giáo dân đang
tiếp xúc. Hơn nữa, đây là sự
chiếu giăi trường kỳ, v́ có liên
hệ với sự gắn bó liên lỉ
của đời sống cá nhân với đức
tin, đồng thời đây cũng là sự
chiếu giăi rất sắc bén, v́ khi chia
sẻ hoàn toàn các điều kiện sinh
sống, lao động, những khó khăn và
hy vọng của anh em ḿnh, giáo dân có thể
đánh động tâm hồn những người
lân cận, bạn bè, đồng nghiệp, và
mở rộng tâm hồn họ tới chân
trời toàn diện, tới ư nghĩa đầy
đủ của cuộc sống : tức là
hiệp thông với Thiên Chúa và giữa con người
với nhau.
-
Các
h́nh thức tham gia tập thể
Sự
hiệp thông giáo hội, vốn đă có và
hoạt động trong hành động của
từng cá nhân, lại được diễn
tả một cách đặc biệt qua hành
động tập thể của giáo dân,
tức là một hành động liên đới
được thực hiện trong sự tham
gia có trách nhiệm vào đời sống và
sứ vụ của Giáo Hội.
Trong
thời gian gần đây, hiện tượng
các hiệp hội giáo dân đă mặc
những h́nh thức rất khác nhau và đầy
sức sống. Nếu trong lịch sử Giáo
Hội, các hiệp hội giáo dân đă
tạo nên một đường hướng
liên tục như chúng ta thấy rơ cho tới
ngày nay nơi các hội đoàn, các hội-ḍng-ba
và những huynh đoàn khác nhau, th́ ở
thời đại hiện nay, hiện tượng
này đă có sức vươn mạnh đặc
biệt ; người ta thấy mọc lên và
phát triển những h́nh thức nhóm hội
khác nhau : hiệp hội, nhóm, cộng đoàn,
phong trào. Người ta có thể nói tới
một mùa Xuân của các hiệp hội giáo
dân. Thật vậy, “bên cạnh những nhóm
hội truyền thống, và đôi khi bắt
nguồn từ những nhóm hội đó,
đă nảy sinh những phong trào và nhóm
hội mới, có diện mạo và mục
đích chuyên biệt : sự phong phú và đa
dạng của nguồn ơn Chúa Thánh Thần
nơi Giáo Hội lớn lao thế nào th́
khả năng sáng kiến và ḷng quảng
đại của giáo dân cũng lớn như
thế”[54].
Những
nhóm hội giáo dân thường rất khác
nhau về nhiều phương diện,
chẳng hạn như h́nh thức bên ngoài,
đường lối và cách thức huấn
luyện, phạm vi hoạt động. Tuy nhiên
có thể thấy trong các nhóm hội đó
những đường nét của một sự
hội tụ rộng lớn và sâu xa trong
mục đích đă gợi hứng cho chúng :
đó là tham gia có trách nhiệm vào sứ
vụ của Giáo Hội, sứ vụ Tin
Mừng Đức Kitô như nguồn hy
vọng cho mọi người và như
nguồn mạch canh tân cho xă hội.
Sự
kiện giáo dân quy tụ với nhau v́
những động lực thiêng liêng và tông
đồ, là do nhiều nguồn gốc khác
nhau và đáp ứng những đ̣i hỏi khác
nhau : thật vậy, đó là cách diễn
tả xă hội tính nơi con người, và
đáp lại một nhu cầu muốn có
được hiệu quả lớn hơn và
sắc bén bơn. Trên thực tế, hậu
quả “văn hóa” là nguồn gốc và
động lực, nhưng cũng là kết
quả và dấu chỉ của mọi biến
đổi khác về môi trường và xă
hội, hậu quả đó chỉ có thể
đạt được nhờ công tŕnh
của một “chủ thể xă hội” hơn
là của những cá nhân riêng lẻ, nghĩa
là công tŕnh của một nhóm, một cộng
đồng, một hiệp hội, một phong
trào. Điều đó đặc biệt đúng
trong bối cảnh một xă hội đa nguyên
và cắt vụn – như hiện t́nh trong
nhiều nước trên thế giới – cũng
như trước những vấn đề
đang trở nên cực kỳ phức tạp
và khó khăn. Vả lại, nhất là trong
một thế giới tục hóa, các h́nh
thức quy tụ khác nhau có thể là sự
trợ giúp quư báu cho nhiều người
để có được một đời
sống kitô-hữu trung thành với những
đ̣i hỏi của Tin Mừng và để
họ dấn thân truyền giáo và hoạt
động tông đồ.
Ngoài
những động cơ thúc đẩy trên,
lư do sâu xa nhất biện minh và đ̣i
hỏi sự quy tụ giáo dân thành nhóm là
thuộc lănh vực thần học : đó là
một lư do thuộc Giáo-hội-học, như
Công Đồng Vatican II đă công khai nh́n
nhận. Công Đồng nhận thấy
việc tông đồ của các hiệp
hội là một “dấu chỉ hiệp thông
và hiệp nhất của Giáo Hội trong Đức
Kitô”[55].
Đó
là một “dấu chỉ” phải được
biểu lộ trong những mối tương
quan “hiệp thông” cả bên trong lẫn bên
ngoài các hiệp hội khác nhau, trong bối
cảnh rất rộng lớn của cả
cộng đồng Kitô-giáo. chính lư do
thuộc Giáo-hội-học chúng tôi vừa
nhắc tới ở trên, một mặt, đă
giải thích cho “quyền” có hiệp hội
dành cho giáo dân, và mặt khác, cho thấy
cần phải có những “tiêu chuẩn”
biện biệt để nhận định
xem những h́nh thức hiệp hội nào
thực sự mang tính Giáo Hội.
Trước
tiên, phải nh́n nhận quyền của giáo
dân trong Giáo Hội được
tự do lập hiệp hội. Nói cho đúng,
quyền tự do này là một quyền đích
thực, không phải do một thứ “ban nhượng”
của giáo quyền, nhưng phát xuất
từ bí tích Thánh Tẩy. Là một bí tích, phép
Thánh Tẩy mời gọi giáo dân tham gia tích
cực vào sự hiệp thông và sứ vụ
của Giáo Hội. Về điểm này, Công
Đồng nói rơ : “Giáo dân có quyền
lập hội đoàn, điều khiển
hội đoàn, và ghi tên vào các hội đoàn
đă có sẵn, miễn là phải giữ
mối liên lạc cần thiết với giáo
quyền”[56].
Bộ Giáo Luật mới cũng khẳng định
: “Giáo dân được tự do thành
lập hay điều hành các hội đoàn có
mục đích bác ái và đạo đức,
hay nhằm cổ vơ ơn gọi kitô-hữu
trong thế giới ; họ cũng có quyền
tụ họp để cùng nhau theo đuổi
những mục đích trên”[57].
Đây
là một quyền tự do đă được
giáo quyền nh́n nhận và bảo đảm,
quyền này phải luôn luôn và chỉ
được thực thi trong sự hiệp thông
của Giáo Hội. Theo nghĩa này, quyền
tụ họp của giáo dân thiết yếu
gắn liền với đời sống
hiệp thông và với sứ vụ của Giáo
Hội.
-
Các
tiêu chuẩn có tính Giáo Hội đối
với các hiệp hội giáo dân
Sự
cần thiết phải có những tiêu
chuẩn rơ ràng và chính xác để biện
biệt và nh́n nhận các hiệp hội giáo
dân c̣n được gọi là những “tiêu
chuẩn có tính Giáo Hội” luôn phải
được hiểu trong viễn tượng
về sự hiệp thông và sứ vụ
của Giáo Hội, chứ không đi ngược
với quyền tự do thành lập hiệp
hội.
Để
biện biệt các hiệp hội giáo dân trong
Giáo Hội, có thể lưu ư toàn bộ
những tiêu chuẩn sau đây như tiêu
chuẩn nền tảng :
–Tiêu
chuẩn trước tiên là ơn gọi nên thánh
của mọi người kitô-hữu,
được biểu lộ “qua những hoa
trái ân sủng mà Thánh Thần đă kết
sinh nơi các tín hữu”[58],
như là sự tăng trưởng đến
sự viên măn của đời sống kitô-hữu
và đến sự trọn lành của đức
ái.[59]
Theo
nghĩa này, mọi hiệp hội giáo dân
đều được mời gọi ngày càng
trở nên phương tiện thánh hóa trong Giáo
Hội, một phương tiện cổ vơ và
khuyến khích “sự phối hợp chặt
chẽ giữa đời sống thực
tế của hội viên và đức tin
của họ”[60].
–Dấn
thân tuyên xưng đức tin công giáo qua
việc chấp nhận và công bố chân lư
về Đức Kitô, về Giáo Hội và
về con người, theo đúng giáo huấn
của Giáo Hội, v́ Giáo Hội giải thích
chân lư đó cách chính thức. Mọi hiệp
hội giáo dân đều phải là môi trường
loan báo và tŕnh bày đức tin, cũng là nơi
để giáo dục đức tin đó trong
nội dung toàn vẹn của nó.
–Bằng
sự xác tín của ḿnh, làm chứng về
sự hiệp thông vững chắc và mănh
liệt, trong t́nh con thảo với đức
Giáo hoàng là trung tâm hiệp nhất vĩnh
cửu và hữu h́nh của Giáo Hội
phổ quát,[61] và
với đức Giám mục là “nguyên lư
hữu h́nh và nền tảng của sự
hiệp nhất”[62] trong
Giáo Hội địa phương, và trong
“sự tôn trọng lẫn nhau giữa các
tổ chức tông đồ trong Giáo Hội”[63].
Sự
hiệp thông với đức Giáo hoàng và
đức Giám mục phải được bày
tỏ qua thái độ sẵn sàng thẳng
thắn đón nhận những giáo huấn
về giáo lư và những chỉ dẫn mục
vụ của các ngài. hơn nữa, sự
hiệp thông trong Giáo Hội c̣n đ̣i
phải nh́n nhận sự đa nguyên hợp
pháp của giáo dân trong Giáo Hội, và đồng
thời, phải sẵn sàng cộng tác với
nhau.
–Ḥa
hợp và cộng tác vào mục đích tông
đồ của Giáo Hội, là “loan
truyền Phúc Âm và thánh hóa nhân loại, đào
tạo cho họ một lương tâm Kitô-giáo,
để họ có thể dần dần đem
tinh thần Phúc Âm thấm nhập vào các
cộng đoàn cũng như các môi trường
khác nhau”[64].
Theo
hướng này, mọi h́nh thức hiệp
hội giáo dân, cũng như từng hiệp
hội phải có một hứng khởi
truyền giáo biến các hiệp hội này
trở thành những dụng cụ ngày càng tích
cực hơn của một cuộc phúc-âm-hóa
mới.
–Dấn
thân hiện diện trong xă hội nhân loại để
phục vụ cho phẩm giá toàn vẹn
của con người, phù hợp với
học thuyết xă hội của Giáo Hội.
Trong
ư nghĩa này, các hiệp hội giáo dân
phải trở thành những trào lưu đẩy
mạnh sự tham gia và liên đới, để
kiến tạo những điều kiện
sống công bằng và huynh đệ hơn
giữa ḷng xă hội.
Những
tiêu chuẩn căn bản chúng tôi vừa nêu
lên được chứng thực trong
những hoa trái cụ thể đi kèm
với đời sống và những công tŕnh
của các h́nh thức hiệp hội khác nhau,
đặc biệt là sự ưa thích cầu
nguyện, chiêm niệm, đời sống
phụng vụ và bí tích ; giúp ư thức
về ơn gọi hôn nhân Kitô-giáo, ơn
gọi làm linh mục thừa tác hay đời
sống thánh hiến ; sẵn sàng tham gia vào các
chương tŕnh và hoạt động trên b́nh
diện quốc gia cũng như quốc tế
; dấn thân vào việc giảng dạy giáo lư
và khả năng sư phạm trong việc
huấn luyện các kitô-hữu ; thúc đẩy
sự hiện diện của người kitô-hữu
trong môi trường khác nhau của đời
sống xă hội ; thành lập và linh hoạt
các công tác từ thiện, văn hóa và thiêng
liêng ; tinh thần siêu thoát và thanh bần phúc
âm để thực hiện t́nh bác ái đại
lượng hơn với mọi người ;
hoán cải trở về với đời
sống kitô-hữu hay đối với
những người đă rửa tội nhưng
“ĺa xa” được hiệp thông trở
lại với Giáo Hội.
-
Các
Chủ Chăn phục vụ cho việc
hiệp thông
Cả
trong trường hợp một số h́nh
thức hiệp hội gặp những khó khăn
có thể hiểu được hoặc trường
hợp có những h́nh thức mới muốn
xuất hiện, các vị Chủ Chăn trong
Giáo Hội vẫn không được từ
chối thi hành quyền bính của ḿnh, không
những v́ lợi ích của Giáo Hội, mà c̣n
v́ lợi ích của chính các hiệp hội giáo
dân. Các ngài phải cố gắng hơn trong
sự biện biệt của ḿnh để hướng
dẫn và nhất là khích lệ sự tăng
trưởng của các hiệp hội giáo dân
trong sự hiệp thông và trong sứ vụ
của Giáo Hội.
Điều
rất nên làm là một số hiệp hội
và phong trào mới lập, khi đă phổ
biến trên phạm vi quốc gia và cả trên
thế giới, phải được chính
thức công nhận, được thẩm
quyền của Giáo Hội minh nhiên phê
chuẩn. Công Đồng đă khẳng định
theo hướng đó : “Có nhiều thể
thức liên lạc giữa việc tông đồ
giáo dân với hàng giáo phẩm, tùy theo h́nh
thức và mục tiêu của mỗi hoạt
động tông đồ... Một số h́nh
thức tông đồ đă được giáo
quyền minh nhiên chấp nhận, dưới h́nh
thức này hay h́nh thức khác. Ngoài ra, v́ nhu
cầu ích chung của Giáo Hội, giáo
quyền có thể lựa chọn và cổ vơ
cách đặc biệt một vài hiệp
hội hay các tổ chức tông đồ,
trực tiếp nhằm mục đích thiêng liêng,
giáo quyền cũng có thể nhận một
trách nhiệm đặc biệt đối
vớ những tổ chức đó”[65].
Trong
số những h́nh thức tông đồ giáo
dân khác nhau có quan hệ đặc biệt
với Hàng Giáo Phẩm, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
minh nhiên nhắc đến các phong trào và
hiệp hội khác nhau của Công Giáo
Tiến Hành, trong đó “người giáo dân,
dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh
Thần, tự nguyện liên kết với nhau
một cách hữu cơ và bền vững,
hiệp thông với Giám mục và các linh
mục, để có thể hoạt động,
theo ơn gọi của họ và bằng
một phương pháp riêng biệt, cho
việc mở rộng toàn bộ cộng đồng
Kitô-giáo, cho các chương tŕnh mục vụ
và cho việc làm sinh động mọi môi trường
sống bằng tinh thần phúc âm, một cách
trung thành và hăng say”[66].
Hội
Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân có nhiệm
vụ chuẩn bị một bản danh sách
những hiệp hội được Ṭa Thánh
chính thức phê chuẩn và, cùng với Văn
Pḥng Hiệp Nhất Kitô-Hữu, quy định
những điều kiện để có
thể phê chuẩn một hiệp hội đại
kết trong đó đa số là người công
giáo và một thiểu số không công giáo.
Hội Đồng cũng phải xác định
những trường hợp nào không thể công
nhận được.[67]
Mọi
người chúng ta, Chủ Chăn cũng như
tín hữu, phải cổ vơ và không ngừng
giữ ǵn những mối dây và những tương
quan huynh đệ của sự kính trọng,
thân ái, cộng tác giữa các h́nh thức
hiệp hội giáo dân khác nhau. Chỉ như
thế, nguồn ân huệ và đoàn sủng
dồi dào mà Thiên Chúa ban cho ta mới có
thể góp phần phong phú và có trật tự
vào việc xây dựng ngôi nhà tập thể :
“Để chung xây ngôi nhà tập thể, c̣n
phải từ bỏ đầu óc ḱnh
chống và tranh chấp nhau, đúng hơn,
cần đua tranh trong sự kính trọng
lẫn nhau (x. Rm 12,10), trong sự quan tâm bày
tỏ t́nh cảm cũng như thiện chí
cộng tác, với sự kiên nhẫn, sáng
suốt, sẵn sàng hy sinh có thể hàm
chứa trong tất cả những việc
đó”[68].
Một
lần nữa, chúng ta hăy trở lại
với lời của Đức Giêsu :
“Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,5),
để tạ ơn Thiên Chúa v́ hồng
ân lớn lao là sự hiệp thông giáo
hội, phản ánh trong thời gian sự
hiệp thông vĩnh cửu và khôn tả
của Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi. Ư
thức về hồng ân đó phải đi
đôi với ư thức cao về trách
nhiệm : thật vậy, đó là một
ân huệ như nén bạc trong Phúc Âm,
phải được biến đổi thành
một đời sống hiệp thông
triển nở.
Trách
nhiệm với hồng ân hiệp thông trước
hết có nghĩa là phải chiến thắng
mọi cơn cám dỗ chia rẽ và chống
đối đang đe dọa cuộc sống
và sự dấn thân làm tông đồ của
các kitô-hữu. Thánh Tông Đồ Phaolô đă
phải thốt lên : "Tôi nghe trong anh em có
những luận điệu như : ‘Tôi
thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông
Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc
về Đức Kitô’. Thế ra Đức
Kitô đă bị chia năm xẻ bảy
rồi ư ?" (1 Cr 1,12-13). Tiếng kêu
đau đón và thất vọng đó vẫn
c̣n đang vang lên như một lời trách móc
trước những hiện tượng “chia
năm sẻ bảy Thân Thể Đức Kitô”.
Ngược lại, chớ ǵ những lời
sau đây của Thánh Tông Đồ vọng
lại một lời mời gọi thuyết
phục chúng ta : "Thưa anh em, nhân danh Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả
anh em hăy nhất trí với nhau trong lời
ăn tiếng nói, và đừng để có
sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hăy
sống ḥa thuận, một ḷng một ư
với nhau" (1 Cr 1,10).
Được
vậy, đời sống hiệp thông trong Giáo
Hội trở thành một dấu chỉ cho
thế giới và một sức mạnh lôi
cuốn đưa người ta đến
chỗ tin vào Đức Kitô : "Lạy Cha,
như Cha ở trong con và con ở trong Cha, xin
cho họ cũng được ở trong chúng
ta, để thế gian sẽ tin rằng Cha
đă sai con" (Ga 17,21). Bằng cách đó,
sự hiệp thông hướng đến
truyền giáo, chính nó trở thành truyền giáo.
Tới đầu trang
<<< === >>> Về mục lục
[1] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 4
[2] THĐGM năm
1985, Khóa ngọai lệ lần II, Giáo
Hội dưới quyền Ngôi Lời Thiên Chúa
cử hành mầu nhiệm Đức Kitô để
cứu độ thế giới, Bản phúc tŕnh
tổng kết, II, C, 1
[3] Đức
PHAOLÔ VI, Huấn từ ngày thứ tư
(8/6/1966)
[4] x. CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 6
[5] x. nt.,
s. 7 vv…
[6] nt., s. 9
[7] nt., s. 1
[8] nt., s. 9
[9] nt., s. 7
[10] nt., s. 7
[11] nt., s. 4
[12] Đức GIOAN-PHAOLÔ II,
Bài giảng trong lễ đồng tế
Bế mạc Thượng-hội-đồng
Giám Mục khóa VII, (30/10/1987)
[13] x. CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 4
[14] x. CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền
Giáo của Giáo Hội, s. 5
[15] x. CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về chức vụ và
đời sống Linh Mục, s. 2 ; Hiến
chế tín lư về Giáo Hội, s. 10
[16] x. CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 10
[17] x. Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Thư gửi các linh mục nhân
ngày thứ Năm Tuần Thánh (9/4/1979), 3-4.
[18] Giáo Luật,
can. 230 §3
[19] x. CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về chức vụ và
đời sống Linh Mục, s. 2 và 5
[20] x. CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo
dân, s. 24
[21] Giáo Luật
liệt kê một số nhiệm vụ và
hoạt động dành cho thừa tác viên có
chức thánh, tuy nhiên trong một số trường
hợp đặc biệt và nghiêm trọng,
cụ thể khi không có linh mục và phó
tế, các việc đó có thể do một giáo
dân thi hành trong một thời gian nào đó,
với sự chấp thuận hợp pháp trước
đó và sự ủy nhiệm của thẩm
quyền giáo hội : x. can. 230 §3 ; 517 §2 ; 776 ;
861 §2 ; 910 §2 ; 943 ; 1112 ; v.v…
[22] x. CĐ
Vatican II, Hiến chế về Phụng
Vụ, s. 28 ; Giáo Luật, can. 230 §2 viết
: “Các giáo dân có thể được
chỉ định tạm thời thi hành
chức vụ đọc sách trong các hoạt
động phụng vụ. Cũng thế,
tất cả các giáo dân có thể thi hành công
tác của người dẫn giải, ca trưởng
hoặc những chức năng khác theo
luật định”
[23] Giáo Luật
tŕnh bày các chức năng hay nhiệm vụ
khác nhau mà giáo dân có thể thi hành trong cơ
cấu tổ chức của Giáo Hội “
x. can, 228 ; 317 § 3 ; 436 § 1, 50 và §2 ; 483, 494 ;
537 ; 759 ; 776 ; 784 ; 785 ; 1228 § ; 1435 ; v.v…
[24] x. Đề
nghị 18
[25] Đức
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, 70
[26] Giáo Luật,
can. 230 §1
[27] Đề
nghị 18
[28] CĐ Vatican
II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo
dân, s. 3
[29] “Do sự
đón nhận những đoàn sủng này,
dầu là những đoàn sủng thông thường,
mỗi tín hữu có quyền lợi và bổn
phận sử dụng những ơn
đó trong Giáo Hội cũng như giữa
trần gian, để mưu ích cho mọi người
và xây dựng Giáo Hội, trong sự tự do
của Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn
thổi đâu th́ thổi” (Ga 3,8), và đồng
thời sử dụng trong sự hiệp thông
với anh em trong Chúa Kitô, nhất là với các
vị chủ chăn của ḿnh” (nt.)
[30] Đề
nghị 9
[31] CĐ Vatican
II, Hiến chế tín lư về Giáo Hội,
s. 12
[32] x. nt., s.
30
[33] CĐ Vatican
II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục
vụ của các Giám Mục trong Giáo
Hội, s. 11
[34] CĐ Vatican
II, Hiến chế tín lư về Giáo Hội,
s. 23
[35] CĐ Vatican
II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo
dân, s. 10
[36] x. Đề
nghị 10
[37] x. Giáo
Luật, can. 443 §4 ; 463 §§1-2
[38] x. Đề
nghị 10
[39] CĐ Vatican
II, Hiến chế tín lư về Giáo Hội,
s. 28
[40] CĐ Vatican
II, Hiến chế tín lư về Giáo Hội,
s. 28
[41] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về việc Dạy
Giáo Lư, Catechesi tradende (16/10/1979), s. 67
[42] Giáo
Luật, can. 515 §1
[43] x. Đề
nghị 10
[44] x.
CĐ Vatican II, Hiến chế về Phụng
Vụ, s. 42
[45] x.
can. 555 §1, 1o
[46] x.
can. 383 §1
[47] Đức
PHAOLÔ VI, Diễn từ đọc trước
hàng giáo sĩ Rôma (24/6/1963)
[48] Đề
nghị 11
[49] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 10
[50] nt.
[51] x. Đề
nghị 10
[52] Thánh
GRÊGÔRIÔ CẢ, Bài giảng về Ed II,
I,5
[53] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 16
[54] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Kinh Truyền Tin (23/8/1987)
[55] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 18
[56] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 19 ; x. s. 15 ; Hiến
chế tín lư về Giáo Hội, s. 37
[57] Giáo
Luật, can. 215
[58] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 39
[59] x. nt.,
s. 40
[60] x.
CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt
động Tông Đồ giáo dân, s. 19
[61] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 23
[62] x. nt.
[63] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 23
[64] nt.,
s. 20
[65] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 24
[66] Đề
nghị 13
[67] Đề
nghị 15
[68] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Diễn văn đọc tại
Hội nghị toàn quốc Giáo Hội Italia
(10/4/1985)
|
Comments
|
Sign
in|Recent
Site Activity|Report Abuse|Print
Chương III
THẦY
ĐĂ CẮT CỬ ANH EM ĐỂ ANH EM RA
ĐI, SINH ĐƯỢC HOA TRÁI
Tinh
thần đồng trách nhiệm trong Giáo
Hội - Truyền Giáo
SỰ HIỆP
THÔNG TRUYỀN GIÁO
LOAN BÁO TIN
MỪNG
Đă
đến lúc phải thực hiện một
cuộc Phúc-âm-hóa mới
Hăy
đi khắp tứ phương thiên hạ
SỐNG TIN
MỪNG QUA VIỆC PHỤC VỤ CON NGƯỜI
VÀ XĂ HỘI
Cổ
vơ phẩm giá con người
Tôn
trọng quyền sống, một quyền
bất khả xâm phạm
Tự
do kêu cầu Danh Chúa
Gia
đ́nh, không gian đầu tiên để
dấn thân vào xă hội
Đức
ái, linh hồn và sự nâng đỡ của t́nh
liên đới
Những
người tham gia vào đời sống chính
trị và những người được
hưởng lợi ích của đời
sống đó
Đặt
con người ở trung tâm đời
sống kinh tế – xă hội
Việc
Phúc-âm-hóa văn hóa và các nền văn hóa
của con người
1.
SỰ HIỆP THÔNG TRUYỀN GIÁO
Chúng
ta lấy lại h́nh ảnh cây nho và cành nho
trong Kinh Thánh. Một cách trực tiếp và
tự nhiên, h́nh ảnh này giúp ta nhận định
về khả năng sinh sản và về
sự sống. Được tháp nhập vào
cây nho, nhận sức sống từ cây nho, các
cành nho được kêu gọi trổ sinh hoa
trái : "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai
ở lại trong Thầy và Thầy ở
lại trong người ấy, th́ người
ấy sinh nhiều hoa trái" (Ga 15,5).
Đơm hoa kết trái là một đ̣i
hỏi cốt yếu trong đời sống
kitô-hữu cũng như trong đời
sống Giáo Hội. Ai không sinh hoa trái là không
ở trong sự hiệp thông : "Cành nào
gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái,
th́ Người (Cha tôi) chặt đi" (Ga
15,2).
Sự
hiệp thông với Đức Kitô, và từ
đó phát sinh sự hiệp thông giữa các tín
hữu với nhau, là điều kiện không
thể thiếu để sinh hoa trái : "V́
không có Thầy, anh em chẳng làm ǵ được" (Ga15,5).
Và sự hiệp thông với những người
khác là hoa trái tốt đẹp nhất mà cành
cây có thể trổ sinh được :
thật vậy, đó là ân huệ của
Đức Kitô và của Thần Khí Ngài.
Sự
hiệp thông làm phát sinh sự hiệp thông và
được coi chủ yếu như một
sự hiệp thông truyền giáo. Thật
thế, Đức Giêsu đă nói với các môn
đệ : "Không phải anh em đă
chọn Thầy, nhưng chính Thầy đă
chọn anh em, và cắt cử anh em để
anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa
trái của anh em tồn tại" (Ga
15,16).
Hiệp
thông và truyền giáo liên kết mật
thiết với nhau, cả hai thâm nhập và
bao hàm nhau, đến độ sự hiệp
thông vừa là nguồn mạch vừa là
kết quả của việc truyền giáo: hiệp
thông mang tính truyền giáo và truyền giáo
nhằm mục đích hiệp thông. Luôn luôn cùng
một Thánh Thần duy nhất kêu gọi và
hiệp nhất Giáo Hội, sai Giáo Hội
đi rao giảng Tin Mừng “cho đến
tận cùng trái đất” (Cv 1, 8).
Về phần ḿnh, Giáo Hội ư thức
rằng sự hiệp thông mà Giáo Hội đă
đón nhận như một hồng ân, là
được ban cho hết thảy mọi người.
Như thế, Giáo Hội cảm thấy ḿnh
mắc nợ hết mọi người và
với từng người, về hồng ân
đă lănh nhận từ Chúa Thánh Thần,
Đấng gieo rắc nơi trái tim người
tín hữu t́nh mến của Chúa Giêsu-Kitô, là
sức mạnh nối kết bên trong và cũng
là sức mạnh bành trước bên ng̣ai.
Việc truyền giáo của Giáo Hội phát
xuất từ chính bản tính của Giáo
Hội, như ư định của Đức
Kitô: đó là trở thành “dấu chỉ và
khí cụ... của sự hiệp nhất toàn
thể nhân loại”[1]. Sứ vụ này nhằm giúp
mọi người biết và sống sự
hiệp thông “mới”, sự hiệp thông
đă đến trong lịch sử nhân
loại qua Con Thiên Chúa làm người. Chính
theo nghĩa đó, chứng từ của thánh
Gioan Tông Đồ đă xác định
một cách dứt khoát đích điểm
“hồng phúc” mà tất cả sứ vụ
của Giáo Hội hướng tới : "Điều
chúng tôi đă thấy và đă nghe, chúng tôi
loan báo cho cả anh em nữa, để chính
anh em cũng được hiệp thông
với chúng tôi, mà chúng tôi th́ hiệp thông
với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô,
Con của Người" (1 Ga 1,3).
Trong
bối cảnh sứ vụ của Giáo Hội, Chúa
trao phó một phần lớn trách nhiệm cho
giáo dân, hiệp thông với các thành phần
khác của Dân Thiên Chúa. Các Nghị Phụ Công
Đồng Vatican II đă ư thức
rất rơ về điều đó : “Các
chủ chăn nhận thấy rơ sự đóng
góp lớn lao của giáo dân cho lợi ích Giáo
Hội. Các ngài biết rằng Đức Kitô
đă không đặt các ngài lên để
một ḿnh lănh lấy tất cả sứ
vụ cứu độ của Giáo Hội
đối với thế giới ; nhưng
nhiệm vụ cao cả của các ngài là chăn
dắt các tín hữu và nhận biết các
phận sự và đoàn sủng nơi họ,
để mọi người cùng góp phần vào
công cuộc chung, tùy theo cách thức của ḿnh”[2].
Xác tín này c̣n được lặp lại
một cách minh bạch và mạnh mẽ, trong
suốt Thượng-hội-đồng.
2.
LOAN BÁO TIN MỪNG
Chính
v́ là thành phần của Giáo Hội, nên giáo
dân có ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin
Mừng : họ có tư năng và dấn thân
vào hoạt động này nhờ các bí tích
khai tâm Kitô-giáo và các ân huệ Chúa Thánh
Thần.
Trong
một đoạn văn rơ ràng và súc tích
của Công Đồng Vatican II, chúng ta đọc
thấy : “Giáo dân góp phần tích cực vào
đời sống và hoạt động
của Giáo Hội, nhờ được tham
dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư
tế, tiên tri và vua ... V́ được nuôi dưỡng
nhờ tham dự cách tích cực vào đời
sống phụng vụ của cộng đoàn,
chính họ nhiệt thành góp phần vào
những công cuộc tông đồ của chính
cộng đoàn đó ; họ đem những
người có lẽ đang xa lạc trở
về với Giáo Hội ; họ cộng tác
đắc lực vào việc rao truyền
Lời Chúa, nhất là bằng việc dạy
giáo lư ; họ đem khả năng của ḿnh
làm cho việc coi sóc các linh hồn và cả
việc quản trị tài sản của Giáo
Hội sinh hiệu quả hơn”[3].
Thế
mà toàn bộ sứ vụ của Giáo Hội
tập trung và trải ra trong việc Phúc-âm-hóa ;
con đường lịch sử của sứ
vụ này được mở ra với ân
sủng và lệnh truyền của Đức
Giêsu-Kitô : "Anh em hăy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài
thụ tạo" (Mc 16,15). "Và đây
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế" (Mt 28,20). Đức giáo
hoàng Phaolô VI đă nói : “Loan báo Tin Mừng là
hồng ân và là ơn gọi riêng của Giáo
Hội, là căn tính sâu xa nhất của Giáo
Hội”[4].
Nhờ
loan báo Tin Mừng, Giáo Hội tự kiến
thiết và h́nh thành như một cộng
đồng đức tin, chính xác hơn, như
cộng đồng của một đức
tin được tuyên xưng qua
việc gắn bó với Lời Chúa, được
cử hành trong các bí tích, và được
sống trong đức ái là linh hồn
của đời sống luân lư Kitô-giáo.
Thực vậy, “Tin Mừng” nhằm thức
tỉnh nơi tâm hồn và đời sống
con người sự hoán cải và gắn bó
cá nhân với Đức Giêsu-Kitô, Đấng
Cứu Độ và là Chúa ; Tin Mừng
chuẩn bị cho người ta đón
nhận bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thể, và
được củng cố trong quyết tâm
và thực hiện đời sống mới
theo Thần Khí.
Chắc
chắn rằng mệnh lệnh của Đức
Giêsu “Hăy đi rao giảng Tin Mừng”
vẫn luôn mang giá trị trường tồn
và buộc phải thi hành cấp bách. Tuy nhiên,
t́nh h́nh hiện nay không những trên thế
giới mà cả trong nhiều lănh vực
của Giáo Hội đang tuyệt đối
đ̣i hỏi lời của Đức Kitô
phải được tuân theo một cách mau
lẹ và quảng đại hơn. Mỗi người
môn đệ được gọi đích
danh, không ai có thể từ chối lời
đáp trả của riêng ḿnh : “Khốn thân
tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1
Cr 9,16).
-
Đă
đến lúc phải thực hiện một
cuộc Phúc-âm-hóa mới
Có
những nước và quốc gia mà trước
đây Kitô-giáo cũng như đời
sống kitô-hữu rất phồn thịnh và
có khả năng làm phát sinh những cộng
đồng sống đức tin một cách
sống động và tích cực, th́ nay đang
gặp những thử thách nặng nề và
đôi khi biến đổi thậm chí
tận gốc rễ, do sự dửng dưng tôn
giáo, sự tục hóa và chủ nghĩa vô
thần không ngừng được phổ
biến. Đặc biệt đây là những
nước hay những quốc gia được
gọi là Thế-giới-thứ-nhất, nơi
mà sự sung túc kinh tế và cuộc chạy
đua tiêu thụ, mặc dù bên cạnh là t́nh
trạng nghèo đói và khốn khổ ghê
gớm, vẫn hà hơi tiếp sức cho
một đời sống “như thể không
có Thiên Chúa”. Hiện nay, trước
những vấn đề trầm trọng
của cuộc sống, sự dửng dưng tôn
giáo, sự vắng bóng hoàn toàn ư nghĩa
được gán cho Thiên Chúa, cũng nguy
hại và đáng lo ngại không kém so với
chủ nghĩa vô thần công khai. Niềm tin
Kitô-giáo, mặc dù vẫn c̣n sót lại nơi
một vài cách biểu lộ cổ truyền và
có tính nghi thức, đang có nguy cơ bị
loại ra khỏi những giây phút trọng
đại nhất của cuộc đời,
như lúc chào đời, lúc đau khổ và
lúc ly trần. Từ đó mà có những
vấn nạn và những bí ẩn ghê gớm
nhất thiết được đặt ra.
Chúng không có lời giải đáp, nên con người
ngày nay cảm thấy chán nản tuyệt
vọng hoặc bị cám dỗ hủy
diệt chính sự sống con người, v́
sự sống đặt ra những vấn
đề như thế.
Ngược
lại, tại những nước hay những
quốc gia khác, người ta vẫn bảo
tồn được nhiều truyền
thống rất sống động về ḷng
đạo đức và về t́nh cảm Kitô-giáo
; nhưng gia sản tinh thần và thiêng liêng này
cũng đang có nguy cơ biến mất dưới
sức ép của nhiều ảnh hưởng,
nhất là ảnh hưởng của sự
tục hóa và sự lan tràn các giáo phái.
Chỉ có một công cuộc Phúc-âm-hóa
mới mới có thể bảo đảm
sự tăng trưởng của một đức
tin trong sáng và sâu xa, đủ sức biến
các truyền thống kia thành một sức
mạnh của sự tự do thực sự.
Chắc
chắn tổ chức lại cơ cấu Kitô-giáo
trong xă hội con người là việc
cấp bách ở mọi nơi, với điều
kiện là phải tổ chức lại cơ
cấu Kitô-giáo trong chính các cộng đồng
giáo hội tại các nước hay các
quốc gia này.
Thế
nên, giáo dân hôm nay, do được tham gia vào
nhiệm vụ tiên tri của Đức Kitô,
phải hoàn toàn dấn thân vào công tác này
của Giáo Hội. Đặc biệt họ
phải làm chứng rằng niềm tin là câu
trả lời duy nhất và hoàn toàn, mà
với ít nhiều ư thức, họ thoáng
nhận ra và viện dẫn, để giải
đáp cho những vấn đề và
những niềm hy vọng do cuộc sống
của mỗi người cũng như
của cả xă hội đang gợi lên. Có
thể thực hiện được điều
đó một khi người giáo dân biết vượt
thắng nơi chính ḿnh sự phân cách
giữa Tin Mừng và cuộc sống, bằng
cách biết tạo nên trong sinh hoạt thường
nhật, trong gia đ́nh, khi làm việc, trong xă
hội, sự thống nhất của một
đời sống được Tin Mừng
gợi hứng và giúp sức thể hiện
đầy đủ.
Với
nhân loại ngày nay, một lần nữa tôi
lặp lại tiếng kêu tha thiết khi
bắt đầu công tác mục vụ của
tôi : “Đừng sợ, hăy mở ra, hăy
mở rộng cửa cho Đức Kitô ! Hăy
mở các biên giới Quốc Gia, các hệ
thống kinh tế cũng như chính trị,
những lănh vực rộng lớn của văn
hóa, văn minh, của sự phát triển, cho
quyền năng cứu độ của Ngài.
Đừng sợ ! Đức Kitô biết “điều
ǵ đang có nơi con người”. Duy ḿnh Ngài
biết điều ấy. Ngày nay, rất
nhiều khi con người không biết
những ǵ họ đang mang nơi ḿnh, nơi
đáy ḷng ḿnh, nơi thâm sâu tâm hồn ḿnh.
Do đó người ta thường không
nắm được ư nghĩa cuộc
sống trên trần thế. Họ bị nghi
ngờ ám ảnh rồi đâm ra thất
vọng. Tôi xin anh chị em, hết ḷng khiêm
tốn và tin tưởng nài xin anh chị em, hăy
để cho Đức Kitô nói với nhân
loại. Chỉ ḿnh Ngài mới có những
lời ban sự sống, vâng, sự sống
đời đời”[5].
Mở
rộng cửa cho Đức Kitô, đón
nhận Ngài vào trong cuộc sống riêng
của ḿnh, điều này không đe dọa
con người chút nào ; trái lại, đó là
lối đi duy nhất phải theo nếu người
ta muốn nhận ra con người trong sự
thật toàn vẹn của nó, và đề cao
con người trong những giá trị của
nó.
Một
tổng hợp cốt tử mà người giáo
dân có thể thực hiện, giữa Tin
Mừng và các bổn phận thường
nhật của cuộc sống, sẽ là
chứng từ tốt đẹp nhất và có
sức thuyết phục nhất để cho
thấy rằng chính sự t́m kiếm Đức
Kitô và gắn bó với bản thân Ngài,
chứ không phải sự sợ hăi, mới là
yếu tố quyết định đễ con
người sống và lớn lên, và để
phát sinh những mẫu sống mới phù
hợp hơn với phẩm giá con người.
Con
người được Thiên Chúa yêu thương
! Đó là lời loan báo thật giản
dị mà cũng thật xúc động mà Giáo
Hội phải nói cho con người. ngôn
từ và cuộc sống của mỗi người
kitô-hữu có thể và phải làm vang lên
sứ điệp này : Thiên Chúa yêu thương
anh, chị. Đức Kitô đă đến v́
anh, chị. Ngài là “Đường, là Sự
Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6) cho
anh, chị.
Công
cuộc Phúc-âm-hóa mới này không những
nhắm tới từng cá nhân, nhưng c̣n
nhắm tới toàn bộ các dân tộc trong
sự khác biệt về những hoàn cảnh,
môi trường, văn hóa của họ, công
cuộc ấy nhằm đào tạo
những sự hiệp thông trưởng thành
trong Giáo Hội, nghĩa là ở đó đức
tin gieo rắc và thực hiện hết ư nghĩa
nguyên thủy của nó là gắn bó với
bản thân Đức Kitô và với Tin
Mừng của Ngài, là gặp gỡ và
hiệp thông với Ngài qua Bí Tích, là sống
trong t́nh bác ái và phục vụ.
Giáo
dân có vai tṛ của ḿnh trong việc h́nh thành
những cộng đồng giáo hội, không
những bằng việc tham gia tích cực và có
trách nhiệm vào đời sống cộng
đồng, và như vậy, bằng chứng
từ không thể thay thế của họ, nhưng
c̣n bằng sự nhiệt t́nh và hoạt động
truyền giáo cho tất cả những ai chưa
tin hay không sống đức tin đă lănh
nhận khi chịu phép Thánh Tẩy.
Đối
với những thế hệ mới, giáo dân
phải góp một phần quư giá, cần
thiết hơn bao giờ hết, bằng một
nỗ lực triệt để dạy giáo lư.
Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă bày tỏ ḷng biết ơn đối
với công việc của các giáo lư viên, công
nhận họ có “một công tác rất quan
trọng trong việc làm sinh động các
cộng đồng giáo hội”[6]. Hiển nhiên các kitô-hữu làm
cha mẹ là những giáo lư viên đầu tiên
cho con cái ḿnh, không ai thay thế được
; nhờ bí tích Hôn Phối mà họ có tư năng
để làm công tác đó. Nhưng đồng
thời, tất cả chúng ta phải xác tín
rằng mọi người đă lănh nhận
bí tích thánh tẩy đều có “quyền”
được hướng dẫn, giáo dục
và được theo dơi trong đức tin cũng
như trong cuộc sống kitô-hữu.
-
Hăy
đi khắp tứ phương thiên hạ
Giáo
Hội nhận thấy và đang sống t́nh
trạng cấp bách hiện nay là phải có
một công cuộc Phúc-âm-hóa mới, nên không
thể tránh né sứ vụ trường
kỳ là mang Tin Mừng đến cho hàng
triệu triệu người, nam cũng như
nữ, chưa nhận biết Đức
Kitô là Đấng Cứu Chuộc con người.
Đây là công tác truyền giáo đặc trưng
nhất mà Đức Giêsu đă và đang
mỗi ngày trao phó cho Giáo Hội của Ngài.
Công
việc của giáo dân, vả lại đă không
bao giờ thiếu trong lănh vực này, hiện
nay luôn được coi là cần thiết và
quư giá hơn cả. Thực vậy, lệnh
truyền của Đức Kitô : “Hăy đi
khắp tứ phương thiên hạ”
vẫn được rất nhiều giáo dân
quảng đại hưởng ứng, sẵn
sàng từ giă môi trường sống, công
việc, quê hương xứ sở của ḿnh,
để đi đến những xứ
truyền giáo, ít là trong một thời gian
nhất định. Có những đôi vợ
chồng kitô-hữu, noi gương Aquila và
Priscilla (x. Cv 18 ; Rm 16,3 tt.), đang cống
hiến một chứng từ đầy an
ủi về t́nh yêu tha thiết đối
với Đức Kitô và Giáo Hội bằng
sự hiện diện tích cực của
họ tại các xứ truyền giáo. C̣n có
một sự hiện diện truyền giáo
đích thực khác của những người
kitô-hữu, do những động lực khác
nhau đang sống trong những nước hay
những nơi mà Giáo Hội chưa được
thiết lập, làm chứng niềm tin riêng
của ḿnh.
Nhưng
ngày nay, Giáo Hội nhận thấy vấn
đề truyền giáo có một tầm vóc
lớn lao và nghiêm trọng đến nỗi
chỉ có sự đảm nhận trách
nhiệm thực sự liên đới giữa
các thành phần trong Giáo Hội, cá nhân cũng
như từng nhóm, mới hy vọng có
được một giải đáp hiệu
quả hơn.
Lời
mời gọi của Công Đồng Vatican II
gửi tới các Giáo Hội địa phương
vẫn giữ nguyên giá trị của nó ; ngay
cả hiện nay, lời mời gọi đó
vẫn cần được đón nhận
một cách rộng răi và dứt khoát hơn :
“V́ Giáo Hội địa phương có
nhiệm vụ phản ánh Giáo Hội toàn
cầu một cách hết sức hoàn hảo, nên
cũng phải thành thực nhận định
rằng ḿnh cũng được sai tới
những kẻ chưa tin Chúa Kitô”[7].
Ngày
nay, Giáo Hội phải tiến một bước
dài trong công cuộc Phúc-âm-hóa, phải
đi vào một giai đoạn lịch
sử mới của sự năng động
truyền giáo của ḿnh. Trong một thế
giới không c̣n khoảng cách và đang
trở nên nhỏ bé hơn, các cộng đồng
giáo hội phải đoàn kết với nhau,
trao đổi các năng lực và phương
tiện, cùng nhau dấn thân vào sứ vụ
chung độc nhất là loan báo và sống Tin
Mừng. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă tuyên bố : “Các Giáo Hội được
gọi là Giáo Hội trẻ cần sức
mạnh của các Giáo Hội kỳ cựu,
đồng thời các Giáo Hội này lại
cần những chứng từ và sự thúc
đẩy nơi các Giáo Hội trẻ, đến
nỗi mỗi Giáo Hội hưởng nhờ
kho tàng phong phú của các Giáo Hội khác”[8].
Trong
giai đoạn mới này, việc huấn
luyện không những hàng giáo sĩ địa
phương mà cả bậc giáo dân trưởng
thành và có trách nhiệm, trong các Giáo Hội
trẻ, được coi như một yếu
tố cốt yếu và cần thiết cho
việc thiết lập Giáo Hội.[9] Như
thế, chính các cộng đồng đă
được Phúc-âm-hóa lại lao ḿnh vào
những miền đất mới để,
đến lượt họ, đáp lại
sứ vụ loan báo Tin Mừng Đức Kitô
và làm chứng cho Tin Mừng đó.
Nhờ
gương sống và hoạt động
của ḿnh, giáo dân có thể cải thiện
những mối liên hệ giữa các tín đồ
thuộc các tôn giáo khác nhau, như các Nghị
Phụ Thượng-hội-đồng đă
ghi nhận thật đúng lúc : “Ngày nay Giáo
Hội đang sống giữa những người
theo các tôn giáo khác nhau ... Mọi người tín
hữu, đặc biệt là những giáo dân
sống giữa những người thuộc các
tôn giáo khác, dù ở trong nước ḿnh hay
tại một nước ḿnh di cư đến,
đều phải trở thành dấu chỉ
về Chúa và Giáo Hội của Ngài cho người
dân các nước ấy, theo một cách thích
nghi với hoàn cảnh sống của mỗi nước.
Đối thoại giữa các tôn giáo là điểm
quan trọng hàng đầu, v́ giúp người
ta biết yêu thương và kính trọng
lẫn nhau, xóa tan hay ít ra làm giảm bớt
những thành kiến giữa tín đồ
thuộc các tôn giáo khác, cổ vơ sự
hiệp nhất và tinh thần bằng hữu
giữa các dân tộc”[10].
Muốn
Phúc-âm-hóa các dân tộc, trước tiên
cần có các tông đồ. Để
được như vậy, mọi người
chúng ta, bắt đầu từ những gia
đ́nh Kitô-giáo, phải nhận ra trách
nhiệm của ḿnh là cổ vơ sự phát
triển và trưởng thành của các
ơn gọi linh mục, tu sĩ hay giáo dân, đặc
biệt hướng tới việc truyền giáo,
sử dụng mọi phương tiện, nhưng
không bao giờ được quên phương
tiện ưu đăi là cầu nguyện, như
lời Chúa đă phán : “Lúa chín đầy
đồng, mà thợ gặt lại ít.
Vậy anh em hăy xin Chủ ruộng sai thợ ra
gặt lúa về” (Mt 9,37-38).
3.
SỐNG TIN MỪNG QUA VIỆC PHỤC VỤ CON
NGƯỜI VÀ XĂ HỘI
Khi
đón nhận và loan báo Tin Mừng trong
sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo
Hội trở thành một cộng đồng
được Phúc-âm-hóa và ra đi Phúc-âm-hóa,
do đó Giáo Hội trở thành đầy
tớ của mọi người. Trong ḷng Giáo
Hội, người giáo dân tham gia vào sứ
vụ phục vụ con người và xă
hội. Chắc chắn mục đích cuối
cùng của Giáo Hội là Nước Thiên Chúa,
“Giáo Hội là mầm mống và khai nguyên Nước
ấy trên trần gian”[11], v́ thế Giáo Hội hoàn toàn
được dành để làm vinh danh Chúa
Cha. Nhưng Nước Thiên Chúa là nguồn
mạch của sự giải phóng hoàn toàn và
ơn cứu độ trọn vẹn cho con người
: Giáo Hội tiến bước với con người,
liên đới toàn diện và mật thiết
với lịch sử của con người.
Giáo
Hội đă lănh nhận trọng trách bày
tỏ cho thế giới mầu nhiệm Thiên
Chúa được chiếu tỏa nơi Đức
Giêsu-Kitô, th́ đồng thời cũng bày
tỏ con người cho chính con người ;
Giáo Hội dạy cho con người biết ư
nghĩa cuộc đời của họ, cho
họ biết sự thật toàn diện
về chính họ cũng như về định
mệnh của ho.[12] Trong
viễn tượng đó, Giáo Hội
được mời gọi phục vụ con
người, ngay cả do sứ vụ Phúc-âm-hóa
của ḿnh. Sự phục vụ này bén
rễ tiên vàn trong biến cố kỳ
diệu và chấn động là : “Con Thiên Chúa,
khi Nhập Thể, một cách nào đó đă
kết hiệp chính ḿnh với tất cả
con người”[13].
V́
thế con người “là con đường
đầu tiên Giáo Hội phải theo để
hoàn tất sứ vụ của ḿnh. Con người
là con đường căn bản đầu
tiên của Giáo Hội, con người đă
được Đức Kitô vạch ra, con
đường đi qua mầu nhiệm
Nhập Thể và Cứu Chuộc”[14].
Chính
trong ư nghĩa này mà Công Đồng Vatican II
đă nhiều lần nói về Giáo Hội cách
rất rơ ràng và mạnh mẽ trong nhiều văn
kiện khác nhau. Chúng ta hăy đọc lại
bản văn có tính cách soi sáng đặc
biệt trong Hiến chế Vui Mừng và Hy
Vọng: “Trong khi theo đuổi mục đích
cứu rỗi cá biệt của ḿnh, Giáo
Hội không phải chỉ truyền thông
sự sống Thiên Chúa cho con người, nhưng
c̣n chiếu giăi ánh sáng của đời
sống ấy cách nào đó trên toàn thế
giới. Giáo Hội làm công việc này, trước
hết bằng cách chữa trị và nâng cao
phẩm giá nhân vị, củng cố cơ
cấu của xă hội nhân lọai và
thấm nhuần cho hoạt động thường
nhật của con người một chiều
hướng và một ư nghĩa sâu xa hơn.
Như thế, nhờ từng phần tử và
tất cả cộng đoàn, Giáo Hội tin tưởng
có thể đóng góp nhiều vào việc
biến đổi gia đ́nh và lịch sử
loài người trở nên nhân đạo hơn”[15].
Trong
việc góp phần này cho gia đ́nh nhân
loại mà Giáo Hội có trách nhiệm, người
giáo dân có một chỗ đứng đặc
biệt, do “đặc tính trần thế”
của họ, là đặc tính đ̣i họ
dấn thân “đem đạo vào đời”,
theo những thể thức riêng và không
thể thay thế.
-
Cổ
vơ phẩm giá con người
Khám
phá và giúp khám phá phẩm giá bất khả xâm
phạm của mọi nhân vị là nhiệm
vụ chủ yếu và thậm chí, theo một
nghĩa nào đó, là nhiệm vụ trung tâm và
liên kết của sự phục vụ mà Giáo
Hội và giáo dân trong Giáo Hội được
mời gọi đem đến cho gia đ́nh
nhân loại.
Trong
các thụ tạo trần thế, chỉ có
con người là một “nhân vị, là
chủ thể có ư thức và tự do”, và do
đó, là “trung tâm và tột đỉnh”
của mọi thụ tạo trên trái đất.[16]
Phẩm
giá nhân vị của con người là tài
sản quư giá nhất mà con người có
được, nhờ đó con người có
một giá trị vượt trên tất
cả thế giới vật chất. Câu nói
của Đức Giêsu – “Được
cả thế giới mà phải thiệt thân,
th́ người ta nào có lợi ǵ ?” (Mc
8,36) – bao hàm một khẳng định rơ
ràng và đầy khích lệ về con người
: con người có giá trị không phải do
những ǵ họ “có” – ngay cả khi
họ chiếm được cả thế
giới ! – nhưng do những ǵ họ “là”.
Tài sản của thế gian không đáng giá
bằng tài sản của nhân vị, là chính
nhân vị.
Nếu
ta nh́n phẩm giá con người từ
nguồn gốc và vận mệnh của nó, ta
mới thấy được nét rực
rỡ của nó : được Thiên Chúa
tạo dựng theo h́nh ảnh giống Thiên Chúa
và được cứu chuộc bằng Máu
châu báu của Đức Kitô, con người
được kêu gọi làm “con trong người
Con” và là đền thờ sống động
của Chúa Thánh Thần, để được
hưởng đời sống vĩnh cửu
hiệp thông hồng phúc với Thiên Chúa. Do
đó, mọi xúc phạm đến nhân
phẩm của mỗi người đều
bị trừng phạt trước mặt Thiên
Chúa, và là sự xúc phạm đến Đấng
Sáng Tạo con người.
Nhờ
có nhân phẩm, con người luôn luôn là
một giá trị nơi chính ḿnh và cho ḿnh, và
con người phải được nh́n
nhận và đối xử đúng với giá
trị đó ; không được nh́n
nhận hay đối xử với con người
như một đồ vật để
sử dụng, như một dụng cụ,
một món đồ.
Nhân
phẩm là nền tảng của sự
b́nh đẳng giữa mọi người
với nhau. Do đó tuyệt đối
phải loại bỏ mọi h́nh thức
kỳ thị khác nhau. Thật đáng buồn
là sự kỳ thị này vẫn đang chia
rẽ và làm sỉ nhục cho gia đ́nh nhân
loại : đó là sự kỳ thị
chủng tộc, kinh tế, xă hội, văn hóa,
chính trị, địa lư, v.v... Mọi h́nh
thức kỳ thị đều là một
sự bất công tuyêt đối không thể
chấp nhận được, lư do không
phải ở những căng thẳng và tranh
chấp do sự kỳ thị gây ra trong
cuộc sống xă hội, cho bằng sự
hạ giá nhân phẩm ; và không chỉ nhân
phẩm của nạn nhân chịu sự
bất công, nhưng, hơn thế nữa, nhân
phẩm của người gây nên bất công
đó.
Là
nền tảng của sự b́nh đẳng
giữa mọi người, nhân phẩm c̣n là nền
tảng của sự tham gia và liên đới
giữa con người với nhau. Cuối cùng
th́ sự đối thoại và hiệp thông bám
rễ nơi những ǵ con người “là”,
hơn là nơi những ǵ con người “có”.
Nhân
phẩm là một sở hữu không thể
hủy diệt của mọi người.
Căn bản là phải ghi nhận sức
mạnh bùng nổ của khẳng định
dựa trên tính độc nhất không
thể thay thế của mọi nhân vị. Do
đó mỗi cá nhân chống lại một cách
tuyệt đối không khoan nhượng
mọi mưu toan đè bẹp hay hủy
diệt muốn biến họ trở thành
những người vô danh trong tập thể,
định chế, cơ cấu hay hệ
thống. Nhân vị, trong tính cá thể của
ḿnh, không phải là một con số, không
phải là một mắt xích, cũng không
phải là một bánh xe trong một hệ
thống. Quả quyết triệt để
nhất và cao quư nhất về giá trị
của mọi người đă được
Con Thiên Chúa tuyên bố, khi Ngài nhập thể
trong cung ḷng một người nữ. Lễ
Giáng Sinh Kitô-giáo vẫn hằng nhắc
nhở chúng ta về lời quả quyết
đó.[17]
-
Tôn
trọng quyền sống, một quyền
bất khả xâm phạm
Việc
nh́n nhận thực sự nhân phẩm của
tất cả mọi người đ̣i
phải tôn trọng, bảo vệ và cổ
vơ những quyền của con người.
Đây là những quyền tự nhiên, phổ
quát và bất khả xâm phạm : bất
kỳ ai, dù là cá nhân hay tập thể, dù
quyền bính hay Nhà Nước, cũng không
thể sửa đổi các quyền đó, càng
không thể hủy bỏ chúng, v́ những
quyền này bắt nguồn từ chính Thiên Chúa.
Tính
bất khả xâm phạm của ngôi vị
phản ánh tính tuyệt đối bất
khả xâm phạm của chính Thiên Chúa,
được biểu lộ trước tiên
và căn bản nơi tính bất khả xâm
phạm của sự sống con người.
Chắc chắn nói đến những
quyền của con người, chẳng
hạn quyền có sức khỏe, có chỗ
ở, có việc làm, quyền lập gia đ́nh,
học hành ... là điều chính đáng ; nhưng
nói đến những quyền đó, như
người ta thường làm, mà lại không
cương quyết bảo vệ quyền
được sống như là quyền
đầu tiên, là nguồn gốc và điều
kiện của mọi quyền khác của con
người, th́ chính là gieo rắc sự sai
lầm và ảo tưởng.
Giáo
Hội đă không bao giờ thú nhận ḿnh
thua cuộc trước mọi h́nh thức vi
phạm mà quyền được sống,
quyền của mọi người, đă và
đang phải chịu do tư nhân hay chính
quyền. Chủ thể của quyền này là
con người, trong suốt quá tŕnh phát
triển của nó, từ khi h́nh thành trong bào
thai cho đến khi chết theo tự nhiên, và trong
mọi t́nh trạng, dù mạnh khỏe hay
đau yếu, lành lặn hay thương
tật, giầu có hay nghèo khổ. công Đồng
Vatican II đă nhấn mạnh : “Tất
cả những ǵ đi ngược với chính
sự sống, như giết người dưới
bất cứ h́nh thức nào, diệt chủng,
phá thai, giết chết cách êm dịu hoặc
tự tử cố ư ; tất cả những ǵ
xâm phạm sự toàn vẹn của con người,
như cắt bỏ một phần thân xác, hành
hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm
lư ; tất cả những ǵ xúc phạm đến
nhân phẩm, như những cảnh sống
thấp kém dưới mức độ
phải có của con người, giam cầm vô
cớ, lưu đày, nô lệ, măi dâm, buôn bán
phụ nữ và trẻ con ; kể cả
những t́nh trạng làm việc nhục nhă
khiến cho công nhân hoàn toàn trở thành
dụng cụ cho lợi lộc, chứ không
được coi như con người tự
do và có trách nhiệm : tất cả những
điều nói trên và những điều tương
tự đều thực sự ô nhục. Và
trong khi làm thối nát nền văn minh nhân
loại, th́ tất cả những điều
trên lại càng bôi nhọ chính những kẻ
chủ động hơn là bôi nhọ
những kẻ phải chịu sự nhục
nhă, đồng thời cũng xúc phạm
nặng nề đến danh dự của
Đấng Tạo Hóa”[18].
Nếu
mỗi người đều có sứ vụ
và trách nhiệm nh́n nhận nhân phẩm
của mọi người và bảo vệ
quyền được sống của họ,
th́ một số giáo dân lại được
mời gọi thực hiện điều đó
với một danh nghĩa đặc biệt : những
bậc cha mẹ, những nhà giáo dục, nhân
viên y tế và y tá, và tất cả những
ai đang nắm quyền kinh tế và chính
trị.
Khi
ưu ái và quảng đại đón nhận
sự sống con người, nhất là khi
sự sống đó yếu ớt và bệnh
tật, Giáo Hội hôm nay đang sống
một thời điểm trọng đại
trong sứ vụ của ḿnh, một sứ
vụ càng cần thiết khi nền “văn hóa
sự chết” đang càng được
khẳng định. Thật vậy, “Giáo
Hội tin tưởng mạnh mẽ rằng:
sự sống con người, dù có yếu
ớt và đầy đau khổ, vẫn luôn
luôn là một hồng ân tuyệt vời
của Thiên Chúa tốt lành. Chống lại
sự bi quan và ích kỷ đang làm lu mờ
thế giới, Giáo Hội đứng về
phía sự sống, và trong mỗi sự
sống con người, Giáo Hội biết khám
phá lại nét cao đẹp của tiếng
‘Thưa Vâng’, của tiếng ‘Amen’ là
Đức Kitô (x. 2 Cr 1,19 ; Kh 3,14). Đối
ngược với tiếng ‘không’ đang tràn
ngập và làm cho thế giới ảm đạm,
Giáo Hội đưa ra tiếng ‘thưa vâng’
sống động, bênh vực con người
và thế giới chống lại những
kẻ đang đe dọa sự sống và làm
tổn thương nó”[19].
Người giáo dân, do ơn gọi hoặc do
nghề nghiệp có trách nhiệm trực
tiếp hơn phải đón nhận sự
sống, phải cụ thể hóa và hữu
hiệu hóa lời “Thưa Vâng” của Giáo
Hội đối với cuộc sống con người.
Những
khả năng và trách nhiệm mới đă
mở ra nơi biên cương cuộc sống
con người, nhờ sự phát triển vượt
bậc của khoa sinh học và y học,
song song với những tiến bộ lạ lùng
của công nghiệp học : con người ngày
nay có đủ khả năng để không
những “quan sát” mà c̣n “thao tác”
được sự sống con người
ngay từ giây phút đầu tiên của nó và
trong những giai đoạn phát triển đầu
tiên của nó.
Lương
tâm của nhân loại không thể xa
lạ hoặc dửng dưng trước
những bước tiến khổng lồ
được thực hiện do một
khả năng công nghệ học có một
ảnh hưởng càng ngày càng lớn lao và sâu
đậm trên những năng động làm
chủ sự sinh sản và những giai đọan
phát triển đầu tiên của con người.
có lẽ chưa bao giờ như ngày nay và
trong lănh vực này, sự Khôn Ngoan là
chiếc neo cứu thóat duy nhất, để
khi nghiên cứu khoa học và t́m cách ứng
dụng, con người có thể luôn hành
động theo lư trí và t́nh yêu, nghĩa là
biết tôn trọng, hoặc hơn nữa,
biết kính trọng nhân phẩm bất
khả xâm phạm của mọi người,
ngay từ giây phút đầu tiên của
cuộc sống con người. Muốn
được như vậy th́ khoa học và
kỹ thuật, bằng những phương
tiện hợp pháp, phải dấn thân bảo
vệ sự sống và chữa chạy tật
bệnh ngay từ đầu, và, nhân danh chính
phẩm giá của sự nghiên cứu, từ
chối những can thiệp có thể hủy
hoại gia sản truyền sinh của một cá
nhân và của một giống ṇi.[20]
Giáo
dân dấn thân trong ngành khoa học và kỹ
thuật, với những danh nghĩa và trên
những b́nh diện khác nhau, cũng như
những ai có trách nhiệm trong ngành y học,
xă hội, luật pháp hay kinh tế, phải can
đảm chấp nhận “những thách
đố” do những vấn đề
mới của đạo đức sinh học
gây ra. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă khẳng định : “Các kitô-hữu
phải thi hành trách nhiệm như những
chủ nhân của khoa học và công nghệ
học chứ không được làm nô
lệ cho chúng ... Trước viễn tượng
về những “thách đố” gây hiểm
họa, không những cho các quyền căn
bản của con người, nhưng c̣n cho
cả yếu tính sinh học của nhân
lọai, trước viễn tượng đó,
điều hết sức quan trọng là người
giáo dân, với sự trợ giúp của toàn
thể Giáo Hội, phải đảm nhận
trọng trách nhắc cho văn hóa những nguyên
tắc của một nền nhân bản đích
thực để công việc cổ vơ và
bảo vệ các quyền của con người
có thể t́m thấy nền tảng năng
động và cững chắc trong chính yếu
tính của nó, yếu tính đă được
lời rao giảng Tin Mừng mạc khải
cho con người”[21].
Ngày
nay, mọi người phải cảnh giác cao
độ trước hiện tượng
tập trung quyền lực, mà trước
hết là quyền lực của công nghệ
học. Thật vậy, sự tập trung này hướng
tới chỗ thao tác không những vào yếu
tính sinh học, mà c̣n vào chính bên trong ư
thức và cách sống của con người,
và như vậy, làm tăng thêm sự kỳ
thị và làm cho toàn thể nhiều dân
tộc phải sống bên lề.
-
Tự
do kêu cầu Danh Chúa
chiều
kích tôn giáo của con người. Đây không
phải là một đ̣i hỏi đơn
thuần “tuyên tín”, nhưng là một đ̣i
hỏi có căn rễ không thể hủy
diệt trong thực tại con người.
Thật vậy, tương quan với Thiên Chúa
là một yếu tố cấu thành “hữu
thể” và “hiện hữu” của con người
: chính do Thiên Chúa mà “chúng ta sống, chúng ta
cử động và chúng ta có” (Cv 17,28).
Nếu không phải mọi người đều
chấp nhận chân lư này, th́ những ai
thấm nhuần chân lư này đều có
quyền được người khác tôn
trọng niềm tin của họ và tôn
trọng sự lựa chọn cách sống theo
niềm tin đó, từng cá nhân hay cả
cộng đồng. Chính đó là quyền
tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Nh́n
nhận thực sự những quyền này chính
là một trong những thiện ích cao quư
nhất và là một trong những bổn
phận gắt gao nhất của mỗi dân
tộc, nếu muốn thực sự bảo
đảm thiện ích của con người và
xă hội : “Tự do tôn giáo, một đ̣i
hỏi không thể bị hủy diệt
của phẩm giá mọi người, là viên
đá góc trong ṭa nhà các quyền của con người,
và do đó, la yếu tố không thể thay
thế của thiện ích con người và toàn
thể xă hội, cũng như của sự
triển nở cá nhân mỗi người.
bởi đó sự tự do xưng đạo
và hành đạo của cá nhân hay tập
thể là yếu tố chính yếu để
con người sống chung ḥa b́nh... Luật dân
sự và xă hội về quyền tự do tôn
giáo, v́ đụng chạm tới phần sâu
kín nhất của tinh thần, nên là điểm
tham chiếu, và, theo một nghĩa nào đó,
trở nên thước đo của những
quyền căn bản khác”[22].
Thượng-hội-đồng
đă không quên nhiều anh chị em chưa
được hưởng quyền đó, là
những người đang phải
đương đầu với biết bao khó
khăn, bị gạt bên lề, khổ đau,
bách hại và có khi cả cái chết, v́ tuyên
xưng đức tin của ḿnh. Một số
đông trong những người đó là anh
chị em giáo dân. Việc loan báo Tin Mừng và
làm chứng một đời sống kitô-hữu
trong những khổ đau và tử đạo
chính là đỉnh cao trong sứ vụ tông
đồ của người môn đệ
Đức Kitô, như t́nh yêu của Chúa Giêsu
đạt tới chỗ trao hiến chính
mạng sống Ngài tạo thành một
nguồn mạch phong phú lạ thường
để xây dựng Giáo Hội. Như
thế, cây nho huyền nhiệm đă chứng
tỏ được sức mạnh của nó,
như thánh Augustinô đă ghi nhận : “Cây nho
này, như các Tiên Tri và chính Chúa đă báo trước,
đă tỏa ra trên khắp thế giới
những cành đầy hoa trái, và càng sống
mạnh khi càng được tưới
bằng rất nhiều máu của các thánh
tử đạo”[23].
Toàn
thể Giáo Hội biết ơn sâu xa tấm gương
và hồng ân này : nơi những kitô-hữu
quảng đại này, Giáo Hội t́m thấy
một động lực để canh tân
sự vươn lên của ḿnh trong đời
sống thánh thiện và tông đồ. Trong
chiều hướng đó, các Nghị Phụ
Thượng-hội-đồng đă nghĩ ḿnh
có bổn phận phải “cảm ơn
những giáo dân đă làm chứng không
mỏi mệt cho đức tin, trung thành
hiệp nhất với Ṭa Thánh, cho dù có
những hạn chế áp đặt trên
sự tự do của họ, cho dù thiếu
thừa tác viên có chức thánh nơi họ
ở. Họ liều bỏ mọi sự, ngay
cả tính mạng. Như vậy, giáo dân minh
chứng cho một đặc tính chủ
yếu của Giáo Hội, đó là : Giáo
Hội của Thiên Chúa sinh ra do ân sủng Thiên
Chúa. Chúng ta thấy điều này được
diễn tả một cách tuyệt vời
nhất trong sự tử đạo”[24].
Cho
tới đây, tất cả những ǵ chúng tôi
nói về việc tôn trọng phẩm giá con người
và nh́n nhận các quyền của con người
chắc chắn có liên hệ đến trách
nhiệm của mỗi kitô-hữu và của
mỗi người. Nhưng chúng tôi phải
ghi nhận ngay rằng vấn đề này có
một chiều kích toàn cầu :
thực vậy, đây là một vấn đề
ảnh hưởng tới toàn thể những
nhóm người, thậm chí toàn thể
những dân tộc đang bị xúc phạm
nặng nề trong những quyền căn
bản. Các h́nh thức bất b́nh đẳng
này trong sự phát triển giữa các
Thế-giới khác nhau đă bị tố giác
rất rơ trong Thông điệp Quan tâm đến
vấn đề xă hội mới
được ban hành.
Sự
tôn trọng nhân vị vượt trên đ̣i
hỏi của một nền luân lư cá nhân và
được coi như một tiêu chuẩn
nền tảng, có thể nói, như cột
trụ cho việc cấu trúc chính xă hội, v́
cùng đích của toàn thể xă hội là con
người.
Như
vậy, trách nhiệm phục vụ xă
hội liên hệ chặt chẽ với trách
nhiệm phục vụ con người.
Bằng cách này, người ta cũng có
thể định nghĩa cách tổng quát
sứ vụ đem đạo vào đời, mà
người tín hữu được mời
gọi chu toàn theo những thể thức riêng
biệt và đặc thù của ḿnh.
-
Gia
đ́nh, không gian đầu tiên để
dấn thân vào xă hội
Trong
cơ cấu tự nhiên của ḿnh, con người
có một chiều kích xă hội, v́ tự thâm
tâm, con người được mời
gọi để sống hiệp thông với
tha nhân, và để hiến thân cho người
khác : “Thiên Chúa, vời ḷng từ phụ
hằng chăm sóc mọi người, đă
muốn rằng mọi người họp thành
một gia đ́nh và đối xử với
nhau như anh chị em”[25].
Như thế, xă hội, là kết quả
và dấu chỉ của tính hợp quần của
con người, biểu lộ thực tại
đầy đủ nhất của ḿnh khi nó
là một cộng đồng các nhân
vị.
Có
sự tương thuộc và hỗ tương
giữa con người và xă hội : tất
cả những ǵ giúp ích cho con người cũng
là để phục vụ xă hội, và
tất cả những ǵ làm cho xă hội cũng
là để giúp ích cho con người. V́
thế, sự dấn thân hoạt động tông
đồ của giáo dân trong lănh vực
trần thế luôn luôn gắn liền với
ư nghĩa phục vụ từng cá nhân, trong tính
độc nhất không thể thay thế
của cá nhân đó, và với ư nghĩa
phục vụ tất cả mọi người.
Cách
diễn tả đầu tiên và nguyên thủy
của chiều kích xă hội nơi con người,
chính là đôi vợ chồng và gia đ́nh :
“Nhưng Thiên Chúa đă không dựng nên người
đàn ông một ḿnh : ngay từ đầu,
‘Ngài đă sáng tạo nên con người có
nam có nữ’ (St 1,27). Xă hội gồm người
nam và người nữ này là sự diễn
tả đầu tiên của sự hiệp thông
giữa các con người”[26]. Đức Giêsu đă quan tâm
phục hồi tất cả phẩm giá cho
đôi vợ chồng và sự vững
chắc cho gia đ́nh (x. Mt 19,3-9). Thánh Phaolô
đă cho thấy tương quan sâu xa của hôn
nhân với mầu nhiệm Đức Kitô và
Giáo Hội (x. Ep 5,22 ; 6,4 ; Cl 3,18-21 ; 1 Pr
3,1-7).
Vợ
chồng và gia đ́nh là không gian đầu
tiên để giáo dân dấn thân vào xă
hội. Sự dấn thân này chỉ có thể
thực hiện hữu hiệu khi xác tín
về giá trị duy nhất và không thể thay
thế của gia đ́nh trong việc phát
triển xă hội và chính Giáo Hội.
Gia
đ́nh là chiếc nôi của sự sống và
t́nh yêu, trong đó con người “sinh ra” và
“lớn lên”, nên là tế bào nền
tảng của xă hội. Cần phải quan tâm
đặc biệt đến cộng đồng
này, nhất là khi tính ích kỷ của con người,
các chiến dịch chống lại việc
sinh sản, và cả những t́nh trạng nghèo
khổ và khốn cùng về thể lư, văn
hóa và luân lư, rồi năo trạng t́m kiếm
khoái lạc, việc chạy đua tiêu thụ
đang làm cạn đi các nguồn mạch
sự sống, trong khi đó, các ư thức
hệ và hệ thống khác nhau cũng như
những h́nh thức vô tâm và thiếu t́nh thương
đang tấn công chức năng giáo dục dành
riêng cho gia đ́nh.
Trong
những điều kiện như thế,
cần phải cấp bách mở ra một
hoạt động rộng lớn, sâu xa và có
hệ thống, được nâng đỡ
không những nhờ văn hóa nhưng c̣n
nhờ những phương tiện kinh tế
và các định chế luật pháp, nhằm
mục đích bảo đảm cho gia đ́nh
địa vị là nơi đầu tiên
“nhân bản hóa” con người và xă
hội.
Việc
người giáo dân dấn thân hoạt động
tông đồ trong gia đ́nh trước
hết là làm cho gia đ́nh ư thức về căn
tính của ḿnh, là hạt nhân nền tảng
đầu tiên của xă hội, cũng như
về vai tṛ độc đáo của ḿnh trong
xă hội, để rồi chính gia đ́nh ngày
càng trở thành người chủ
chốt tích cực và có trách nhiệm về
sự tiến triển của riêng ḿnh và
sự tham gia của ḿnh vào đời sống
xă hội. Theo cách này, gia đ́nh sẽ có
thể và phải đ̣i hỏi tất cả
mọi người, trước tiên là chính
quyền, phải tôn trọng các quyền
của gia đ́nh, v́ những quyền này, khi
bảo vệ gia đ́nh, th́ cũng bảo
vệ chính xă hội.
Điều
mà tất cả mọi người có thể
đọc được trong Tông huấn
về Gia Đ́nh khi bàn về sự
đóng góp của gia đ́nh vào việc phát
triển xă hội,[27] và
điều mà Ṭa Thánh, dựa theo lời kêu
gọi của Thượng-hội-đồng
Giám-mục năm 1980, đă thảo ra trong
“Hiến Chương các Quyền của Gia
Đ́nh”, những điều ấy tạo nên
một chương tŕnh hoạt động hoàn
chỉnh và hữu cơ cho tất cả
mọi giáo dân, là những người,
với nhiều danh nghĩa khác nhau, quan tâm
đến việc thăng tiến các giá
trị và các đ̣i hỏi của gia đ́nh
: một chương tŕnh cần được
thực hiện thật mau mắn và dứt khoát,
v́ những đe dọa càng lúc càng quyết
liệt nhằm đả phá tính bền
vững và phong phú của gia đ́nh, cũng như
v́ khuynh hướng ngày càng mạnh mẽ và
có hệ thống nhằm gạt gia đ́nh
sang bên lề và triệt tiêu tầm quan
trọng của gia đ́nh trong xă hội.
Kinh
nghiệm cho thấy rằng nền văn minh và
sự vững bền của các dân tộc tùy
thuộc trước tiên vào phẩm chất
con người trong các gia đ́nh. Như
thế, việc dấn thân hoạt động
tông đồ trong môi trường gia đ́nh
có một giá trị xă hội không ǵ so sánh
được. Giáo Hội xác tín sâu xa vào
điều đó ; Giáo Hội biết rơ “tương
lai của nhân loại phải đi qua gia đ́nh”[28].
-
Đức
ái, linh hồn và sự nâng đỡ của t́nh
liên đới
Việc
phục vụ xă hội được
diễn tả và thể hiện theo nhiều cách
thế rất khác nhau : từ những h́nh
thức tự do và không chính thức đến
những h́nh thức có tính cách cơ chế,
từ sự trợ giúp cách riêng các cá nhân
đến sự trợ giúp những nhóm khác
nhau và các cộng đồng.
Toàn
thể Giáo Hội được trực
tiếp mời gọi phục vụ đức
ái : “Giáo Hội đặt bữa ‘agapè’ đi
liền với bữa Tiệc Thánh Thể
để biệu lộ sự hiệp nhất
hoàn toàn trong t́nh yêu thương chung quanh Chúa
Kitô ; như vậy, bất cứ thời đại
nào, người ta cũng nhận ra Giáo
Hội nhờ dấu chỉ t́nh yêu này, và Giáo
Hội đă tự đảm nhận
những công cuộc bác ái như là nhiệm
vụ và quyền lợi bất khả di nhượng
của ḿnh. V́ thế Giáo Hội đặc
biệt đề cao ḷng thương xót đối
với người nghèo đói, bệnh
tật, cũng như những công cuộc
mệnh danh là từ thiện và tương
trợ để xoa dịu mọi nỗi
thống khổ của nhân lọai”[29]. Đức ái đối
với người thân cận, dưới h́nh
thức cổ xưa và luôn mới mẻ
của các công việc từ thiện nhằm
giúp đỡ thể xác lẫn tinh thần,
đức ái ấy luôn bày tỏ nội dung
trực tiếp nhất, phổ biến và thông
thường nhất của việc đem
đạo vào đời, là hoạt động
tạo nên sự dấn thân chuyên biệt
của giáo dân.
Khi
bác ái với người thân cận, giáo dân
sống và bày tỏ sự quan tâm của ḿnh
vào vương quyền của Đức Giêsu-Kitô,
tức là vào quyền năng của Con Người,
Đấng “đă đến không phải
để được kẻ hầu người
hạ, nhưng là để hầu hạ” (Mc
10,45) : họ sống và bày tỏ vương
quyền này theo cách thức đơn giản
nhất, trong tầm tay của mọi người
cũng như của mọi thời đại,
đồng thời cũng theo cách thức
đáng biểu dương nhất, bởi v́
đức ái là ân huệ cao trọng nhất
do Thánh Thần ban để xây dựng Giáo
Hội (x. 1 Cr 13,13) và v́ thiện ích
của nhân loại : Đức ái làm sinh
động và nâng đỡ một mối liên
đới tích cực, đầy qyan tâm
tới mọi nhu cầu của con người.
Một
đức ái như thế, được thi
hành không những do riêng tư một số người,
nhưng cả trong sự liên đới
giữa các nhóm và cộng đồng, đang
và sẽ măi măi cần thiết: không điều
ǵ và không một ai có thể thay thế đức
ái đó, kể cả nhiều định
chế và những sáng kiến của tập
thể, tuy rằng những h́nh thức này
nỗ lực đáp ứng những nhu cầu
của một dân cư – những nhu cầu
thường cần thiết và lớn lao
hiện nay –. Một cách nghịch lư, đức
ái này lại càng cần thiết hơn, v́
những cơ chế trở nên cồng
kềnh trong tổ chức và có tham vọng
điều hành mọi lănh vực có sẵn,
cuối cùng lại không kiến hiệu do
chế độ công chức không người
chịu trách nhiệm, do hệ thống bàn
giấy thái quá, do lợi lộc riêng tư quá
đáng, và do một sự thờ ơ dễ
dăi và phổ biến.
Chính
trong bối cảnh này mà nhiều h́nh
thức thiện nguyện khác nhau, với vô
số dịch vụ và công tác, không ngừng
xuất hiện và lan rộng, đặc
biệt trong những xă hội có tổ
chức. Nếu việc thiện nguyện này
được thực hiện đúng với
bản chất của nó là phục vụ con
người cách vô vị lợi, đặc
biệt những người thiếu thốn
nhất và những người bị quên lăng
nhất trong chính các dịch vụ xă hội,
th́ nó phải được coi như một
cách biểu lộ quan trọng của hoạt
động tông đồ, trong đó, các giáo
dân, nam cũng như nữ, có một vai tṛ hàng
đầu.
-
Những
người tham gia vào đời sống chính
trị và những người được
hưởng lợi ích của đời
sống đó
Đức
ái yêu mến và phục vụ con người,
không được tách rời khỏi đức
công b́nh : cả hai, mỗi bên theo cách của
ḿnh, đều đ̣i hỏi sự nh́n
nhận toàn diện và hữu hiệu các
quyền của con người, đối tượng
mà xă hội với tất cả những cơ
cấu và định chế của nó hướng
tới.[30] Để
đem đạo vào đời, theo ư nghĩa
chúng ta vẫn nói, là phục vụ con người
và xă hội, giáo dân tuyệt đối không
thể từ chối tham gia vào “chính trị”,
tức là những hoạt động đa
dạng về kinh tế, xă hội, luật pháp,
hành chánh, văn hóa, một chính trị có
mục đích cổ vơ công ích một
cách có tổ chức và qua các định
chế. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă nhiều lần khẳng định
điều đó : tất cả và từng người
đều có quyền và bổn phận tham gia
vào chính trị ; sự tham gia này có thể
rất khác nhau và bổ túc cho nhau về h́nh
thức, về mức độ, về công tác
và trách nhiệm. Những lời tố cáo
về óc địa vị, tệ sùng bái
quyền hành, tính ích kỷ và sự tham nhũng
thường được đưa ra để
chống lại các người của chính
quyền, của quốc hội, của giai
cấp thống trị, của các đảng
phái chính trị, cũng như ư kiến khá
phổ biến cho rằng chính trị nhất
thiết là lănh vực nguy hiểm về luân lư,
tất cả những điều ấy không
biện minh tư nào cho thái độ hoài nghi cũng
như chủ trương không tham gia của người
kitô-hữu đối với vấn đề
chính trị.
Ngược
lại, Công Đồng Vatican II đă
đưa ra những lời đầy ư nghĩa
: “ Giáo Hội ca ngợi và quư trọng
việc làm của những người v́
lợi ích quốc gia mà dấn thân phục
vụ con người cùng nhận lănh gánh
nặng của trách nhiệm này”[31].
Một
chính trị v́ con người và v́ xă hội
đặt tiêu chuẩn nền tảng trên
chủ trương theo đuổi công ích,
tức là lợi ích của tất cả
mọi người cũng như của con người
toàn diện, lợi ích được trao
tặng và bảo đảm để con người,
cá nhân cũng như tập thể, có thể
đón nhận cách tự do và có trách
nhiệm : “Cộng đồng chính trị
chỉ hiện hữu là v́ công ích ; chính công
ích là lư do tồn tại, là ư nghĩa và là căn
bản pháp lư cho cộng đồng chính
trị. Công ích nói đây bao gồm tất
cả những điều kiện của đời
sống xă hội ; nhờ những điều
kiện này, cá nhân, gia đ́nh và đoàn
thể có thể triển nở cách trọn
vẹn và dễ dàng hơn”[32].
Hơn
nữa, một chính trị v́ con người và
v́ xă hội phải có định hướng
trường kỳ là bảo vệ và cổ
vơ sự công b́nh, hiểu như là một “đức
tính” cần được huấn luyện
cho mọi người, và như một
“sức mạnh” luân lư nâng đỡ
những ai nỗ lực ủng hộ các
quyền và bổn phận của tất
cả và từng người, dựa trên
nền tảng là nhân phẩm của con người.
Việc
thi hành quyền bính chính trị phải đặt
nền trên tinh thần phục vụ ;
tinh thần này, cùng với khả năng chuyên
môn và hiệu năng cần có, là điều
kiện thiết yếu để làm cho
hoạt động của các chính trị gia
được “trong sáng” và “liêm khiết”,
hơn nữa đây cũng là đ̣i hỏi
rất chính đáng của dân chúng. Muốn
vậy, cần có sự đấu tranh công
khai và cần chiến thắng một số cám
dỗ, chẳng hạn như sử dụng
những cách xoay xở bất chính, gian dối,
biển thủ công quỹ nhằm lợi ích
của một số người hay v́
những mục đích của các “thân
chủ”, sử dụng những phương
thế mờ ám và bất hợp pháp để,
bằng mọi giá, chiếm đọat, duy tŕ
và bành trướng quyền hành.
Chắc
chắn rằng người giáo dân dấn thân
vào công việc chính trị phải tôn
trọng tính độc lập của các
thực tại trần thế, hiểu theo nghĩa
đă được Hiến chế Vui
Mừng và Hy Vọng xác định : “...
Điều rất quan trọng là cần
nhận thức chính xác về mối tương
quan giữa cộng đoàn chính trị và Giáo
Hội. Cũng cần phải phân biệt minh
bạch giữa những hành động
của các tín hữu, hoặc cá nhân hoặc
đoàn thể, với danh nghĩa công dân, dưới
sự hướng dẫn của lương tâm
Kitô-giáo, và những hành động của các
tín hữu khi họ nhân danh Giáo Hội và
hợp nhất với các chủ chăn
của họ. V́ lư do chức vụ và
thẩm quyền của ḿnh, Giáo Hội không cách
nào bị đồng hóa với một
cộng đồng chính trị và cũng không
hề cấu kết với bất cứ
hệ thống chính trị nào, v́ Giáo Hội
vừa là dấu chỉ vừa là đảm
bảo cho tính cách siêu việt của con người”[33].
Đồng thời – và điều này ngày
nay được coi như một sự
cấp bách và như một trách nhiệm – giáo
dân phải làm chứng về những giá
trị của con người và Tin Mừng, là
những giá trị có liên hệ mật
thiết đến hoạt động chính
trị, chẳng hạn như tự do và công
lư, t́nh liên đới, sự tận tụy
trung thành và vô vị lợi đối với
thiện ích của mọi người, cách
sống giản dị, t́nh thương ưu
tiên dành cho người nghèo khổ và người
bé mọn nhất. Điều này đ̣i
hỏi giáo dân phải ngày càng t́m thấy
hứng khởi tinh thần nhờ tham gia
thực sự vào đời sống Giáo
Hội, và được học thuyết xă
hội của Giáo Hội soi sáng. Trong công
việc này, họ có thể được các
cộng đồng Kitô-giáo, các chủ chăn
theo dơi giúp đỡ.[34]
T́nh
liên đới là kiểu cách và phương
thế để thực hiện một
đường lối chính trị nhằm phát
triển đích thực con người : t́nh
liên đới này đ̣i hỏi mọi người tham
dự tích cực và có trách nhiệm vào
đời sống chính trị, từ mỗi công
dân đến các nhóm khác nhau nhất, từ các
nghiệp đoàn đến các đảng phái
; mọi người và từng người,
tất cả chúng ta vừa là những người
được hưởng lợi từ chính
trị vừa là những người tham
dự chủ động vào chính trị. Trong
những h́nh thức phối hợp như
thế, như tôi đă viết trong Thông điệp Quan
tâm tới vấn đề xă hội, sự
liên đới “không phải là mối đồng
cảm mơ hồ hay xúc động hời
hợt trước những đau khổ
của bao nhiêu người xa gần. Ngược
lại, đó là quyết tâm mạnh
mẽ và bền vững dấn thân cho công
ích, nói khác đi, cho ích lợi của mọi
người và từng người, v́ tất
cả chúng ta đều thực sự có trách
nhiệm về mọi người”[35].
Ngày
nay, sự liên đới chính trị phải
được thể hiện ngang tầm
với đường chân trời, vượt
khỏi mỗi quốc gia hoặc khối
quốc gia, đạt tới tầm mức
lục địa hay thế giới.
Kết
quả của hoạt động chính trị
liên đới, kết quả mà mọi người
đều rất mong ước, nhưng cho
đến nay vẫn chưa đạt tới
chín muồi, đó là ḥa b́nh. Giáo dân không
thể dửng dưng, xa lạ hay biếng nhác
trước tất cả những ǵ chối
bỏ và gây phương hại đến ḥa
b́nh, như : bạo lực và chiến tranh, hành
hạ và khủng bố, trại tập trung,
quân sự hóa chính trị, chạy đua vũ
trang, hiểm họa hạt nhân. Ngược
lại, với tư cách là những môn đệ
của Đức Giêsu-Kitô, Đấng là “Hoàng
Tử b́nh an” (Is 9,5) và “B́nh An
của chúng ta” (Ep 2,14), giáo dân phải
đảm nhận công việc của những
người “xây dựng ḥa b́nh” (Mt 5,9),
bằng việc hoán cải tâm hồn cũng
như bằng hành động cổ vơ cho chân
lư, cho tự do, công b́nh và bác ái, là những
nền tảng không thể tước bỏ
của ḥa b́nh”[36].
Khi
cộng tác với tất cả những ai
thực sự t́m kiếm ḥa b́nh và khi sử
dụng những cơ quan chuyên biệt và các
thể chế quốc gia cũng như quốc
tế, giáo dân phải cổ vơ một công
cuộc giáo dục tế vi, nhằm chế
ngự thứ văn hóa nổi trội về
sự ích kỷ, hận ghét, báo thù, hiềm
khích, và phát triển một thứ văn hóa
liên đới ở mọi cấp độ.
Thực vậy, sự liên đới “là con
đường đi tới ḥa b́nh, đi
tới phát triển”[37]. Trong nhăn giới đó, các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă kêu mời các kitô-hữu đẩy lùi
mọi h́nh thức bạo lực không thể
chấp nhận, cổ vơ những thái đọ
đối thoại và ḥa b́nh, đồng
thời dấn thân xây dựng một trật
tự xă hội và quốc tế trong công b́nh.[38]
-
Đặt
con người ở trung tâm đời
sống kinh tế – xă hội
Điểm
hành động chủ yếu của sự
phục vụ xă hội từ phía giáo dân
tập trung vào vấn đề kinh tế
– xă hội, mà ch́a khóa giải quyết là
việc tổ chức lao động.
Mức
độ nghiệm trọng hiện nay của
những vấn đề này, nh́n trong toàn
cảnh của sự phát triển và theo đề
nghị giải quyết do học thuyết xă
hội của Giáo Hội đưa ra, mới
được nhắc tới trong Thông điệp Quan
tâm tới vấn đề xă hội ; tôi
rất mong muốn tất cả anh chị em,
đặc biệt là giáo dân, đọc
lại văn kiện đó.
Trong
số những điểm chính của học
thuyết xă hội của Giáo Hội, có nguyên
tắc của cái thuộc về tất
cả mọi người : trong ư định
của Thiên Chúa, của cải trên trái đất
được ban tặng cho mọi người
và từng người, như một phương
thế để phát triển một đời
sống đích thực của con người. Quyền
tư hữu nhằm thực hiện nguyên
tắc đó, và chính v́ mục đích này,
quyền tư hữu có một chức năng
xă hội ngay trong nội tại. Một cách
cụ thể, việc lao động của
người nam và người nữ cho
thấy phương tiện phổ biến và
trực tiếp nhất để phát triển
đời sống kinh tế, phương
tiện này làm thành một quyền lợi và
cũng là một bổn phận của mỗi
người.
Tất
cả những điều đó đều
thuộc phạm vi sứ vụ của người
giáo dân cách đặc biệt. Mục đích
và tiêu chuẩn cho sự hiện diện và hành
động của họ được Công
Đồng Vatican II tŕnh bày bằng những
từ ngữ tổng quát như sau : “Ngày
trong đời sống kinh tế – xă hội,
phẩm giá cũng như ơn gọi toàn
diện của con người và lợi ích
của toàn thể xă hội phải được
tôn trọng và thăng tiến. V́ con người
là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh
của tất cả đời sống kinh
tế – xă hội”[39].
Trước
bối cảnh những biến chuyển đang
diễn ra trong thế giới lao động và
kinh tế, và làm đảo lộn nó, ước
ǵ giáo dân thuộc vào số những người
tiên phong t́m mọi cách giải quyết
những vấn đề rất nghiêm
trọng của nạn thất nghiệp đang
gia tăng ; ước ǵ họ đấu tranh
đến cùng để chống lại vô vàn
bất công phát sinh từ những tổ
chức sai trái về lao động ; ước
ǵ họ nỗ lực biến nơi làm
việc thành môi trường sống của
một cộng đồng gồm những con
người mà nét đặc thù và quyền
tham gia của họ được tôn
trọng ; ước ǵ họ cố gắng phát
triển những mối liên đới mới
mẻ giữa những người cùng làm
việc chung với nhau, gợi ra những h́nh
thức kinh doanh mới và kêu gọi xét
lại những hệ thống thương
mại, tài chánh cũng như trao đổi công
nghệ học.
Trong
mục đích này, giáo dân phải chu toàn công
việc của ḿnh với khả năng
nghề nghiệp chuyên môn, với tính liêm
khiết của con người, với tinh
thần Kitô-giáo, như là phương tiện
thánh hóa chính ḿnh,[40] theo
lời kêu gọi của Công Đồng :
“Nhờ việc làm, con người theo lệ
thường nuôi sống ḿnh và gia đ́nh, liên
kết với anh em và phục vụ họ, có
thể thực thi bác ái đích thực và góp
công vào việc kiện toàn công cuộc sáng
tạo của Thiên Chúa. Hơn nữa, chúng tôi
cho rằng nhờ việc làm của ḿnh, con người
cộng tác vào chính công cuộc cứu
chuộc của Chúa Giêsu-Kitô, Đấng đă
nâng cao giá trị của việc làm khi Người
làm việc với chính hai bàn tay của ḿnh
tại Nadarét”[41].
Liên
hệ đến đời sống kinh tế
– xă hội và lao động, ngày nay vấn
đề được gọi là “sinh-thái-học”,
đang được đặt ra càng ngày càng
nhức nhối. Chắc chắn, con người
được Thiên Chúa trao phó công việc
“thống trị” các ḷai thụ tạo và
“chăm sóc thửa vườn” trần gian
; thế nhưng, con người phải chu toàn
công việc này với ḷng tôn trọng h́nh
ảnh Thiên Chúa mà họ đă lănh nhận, và
do đó, chu toàn trong hiểu biết và yêu
mến : họ phải cảm thấy có trách
nhiệm về những ân huệ Thiên Chúa
đă rộng ban và không ngừng rộng ban
cho họ. Con người sử dụng một
ân huệ mà họ phải chuyển giao cho các
thế hệ tương lai – và nếu có
thể, phải làm cho nó tốt hơn –, v́
chính các thế hệ này cũng là những người
được thừa hưởng hồng ân
của Chúa : “Quyền thống trị do Đấng
Sáng Tạo ban cho con người... không
phải là một quyền tuyệt đối,
và người ta không thể nói về một
thứ tự do ‘sử dụng và lạm
dụng’, hay định đoạt sự
vật như ḿnh muốn. Giới hạn
được đặt ra cách tượng trưng
bằng lệnh cấm ‘ăn trái cấm’ (x.
St 2,16-17), cho thấy một cách đủ rơ là,
trong khuôn khổ của thiên nhiên hữu h́nh,
... chúng ta lệ thuộc vào những quy
luật cả sinh học lẫn luân lư, và người
ta không thể vi phạm mà không bị
trừng phạt. Một quan niệm đúng
đắn về phát triển không thể không
kể đến những suy tư trên – liên
quan đến việc sử dụng các
yếu tố thiên nhiên, đến việc tái
tạo các tài nguyên cũng như đến
những hậu quả của việc kỹ
nghệ hóa vô trật tự – ; những suy tư
đó, một lần nữa, đặt trước
lương tâm chúng ta chiều kích luân lư là
chiều kích phải ghi dấu sự phát
triển”[42].
-
Việc
Phúc-âm-hóa văn hóa và các nền văn hóa
của con người
Việc
phục vụ con người và xă hội nhân
loại được diễn tả và
thực hiện qua việc sáng tạo và
truyền đạt văn hóa, điều này,
đặc biệt ngày nay, là một trong
những công việc nặng nề nhất
trong sự chung sống của con người và
sự tiến hóa của xă hội. Theo ánh sáng
Công Đồng, chúng ta hiểu “văn hóa”
là “tất cả những ǵ con người dùng
để trau dồi và phát triển các năng
khiếu đa dạng của tâm hồn và
thể xác ; cố gắng chế ngự
cả trái đất bằng tri thức và lao
động ; làm cho đời sống xă
hội, đời sống gia đ́nh cũng như
đời sống chính trị trở thành nhân
bản hơn, nhờ sự tiến bộ trong
các tập tục và định chế ; sau
hết, diễn tả, thông truyền và
bảo tồn trong các công tŕnh của ḿnh,
những kinh nghiệm tinh thần và hoài băo
lớn lao của các thời đại, để
giúp cho nhiều người và ṭan thể nhân
lọai tiến bộ hơn”[43].
Theo nghĩa này, văn hóa phải được
coi như tài sản chung của mỗi dân
tộc, là sự diễn tả phẩm giá,
tự do và óc sáng tạo của họ, là
chứng từ về quá tŕnh lịch sử
của họ. Đặc biệt, chỉ trong và
nhờ văn hóa mà niềm tin Kitô-giáo có tính
cách lịch sử và sáng tạo lịch
sử.
Trước
một văn hóa như xa rời không những
niềm tin Kitô-giáo mà cả những giá
trị nhân bản,[44] cũng như trước
mộ văn hóa khoa học và kỹ thuật nào
đó không có khả năng giải đáp cho
đ̣i hỏi về sự thật và sự
thiện đang thiêu đốt tâm hồn con
người, Giáo Hội ư thức đầy
đủ rằng, về phương diện
mục vụ, phải cấp bách dành cho văn
hóa một sự quan tâm rất đặc
biệt.
Chính
v́ thế, Giáo Hội yêu cầu giáo dân
hiện diện cách can đảm và với óc
sáng tạo tri thức tại những môi trường
ưu đăi của văn hóa, như nhà trường
và đại học, các trung tâm nghiên cứu
khoa học – kỹ thuật, các môi trường
sáng tác nghệ thuật và suy tư nhân
bản. Sự hiện diện này không chỉ
có mục đích nh́n nhận và tùy t́nh h́nh mà
thanh tẩy các yếu tố của văn hóa
hóa đó, bằng cách khôn khéo phê b́nh chúng,
nhưng c̣n nhằm làm tăng trưởng các
giá trị của chúng, nhờ sự phong phú
độc đáo của Tin Mừng và đức
tin Kitô-giáo. Giáo huấn của Công Đồng
Vatican II về mối liên hệ giữa Tin
Mừng và văn hóa đáp ứng với
một thực tại vốn có trong lịch
sử, đồng thời đưa ra một
lư tưởng hành động mang tính thời
sự và thúc bách đặc biệt ; đó là
một chương tŕnh quan trọng được
đề ra cho trách nhiệm mục vụ
của toàn thể Giáo Hội, và đó là cho
trách nhiệm riêng biệt của người
giáo dân : “Tin Mừng của Chúa Kitô không
ngừng đổi mới cuộc sống và văn
hóa của con người đă sa ngă ;
chống đối và khử trừ các sai
lầm và tai họa phát sinh từ sức
quyến rũ thường xuyên của tội
lỗi luôn đe dọa. Phúc Âm không ngừng
tinh luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc.
Những đức tính của mọi thời
đại như được Phúc Âm làm cho
phong phú từ bên trong, bổ túc và tái tạo
trong Chúa Kitô nhờ những ân huệ bởi
trời. Như thế, trong khi chu toàn bổn
phận riêng, Giáo Hội cũng đồng
thời thúc đẩy và góp phần vào công
cuộc phát triển văn hóa nhân loại, và
nhờ hoạt động của ḿnh, ngay
cả trong nghi lễ phụng vụ, Giáo
Hội giáo dục con người đạt
tới tự do nội tâm”[45].
Ở
đây nên đọc lại một số
diễn tả rất có ư nghĩa trong Tông
huấn Loan báo Tin Mừng của Đức
Phaolô VI : “Giáo Hội thực thi công việc
phúc-ân-hóa khi, chỉ nhờ sức mạnh
thần linh của Sứ Điệp mà Giáo
Hội công bố (x. Rm 1,16 ; 1 Cr 1,18 ; 2,4), Giáo
Hội t́m cách hoán cải lương tâm cá nhân
cũng như tập thể, hoán cải sinh
hoạt mà họ đang dấn thân, hoán
cải đời sống và môi trường
cụ thể của họ. Những cảnh
vực sống của con người đang
biến đổi : đối với Giáo
Hội, vấn đề không chỉ là rao
giảng Tin Mừng nơi những vùng đất
càng ngày càng đông, nhưng là tác động
đến, và nhờ sức mạnh của Tin
Mừng, như làm đảo lộn những
tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị
quyết định, những trọng tâm sinh
hoạt, những đường hướng tư
tưởng, những nguồn cảm hứng,
những kiểu mẫu sống của nhân
loại, khi những điều ấy đi ngược
với Lời Chúa và chương tŕnh cứu
độ. Chúng ta có thể diễn tả
tất cả những điều ấy như
sau : điều quan trọng là phúc-âm-hóa văn
hóa và những nền văn hóa của con người
một cách sống động sâu xa cho tới
tận gốc rễ chứ không theo cách trang
trí như lớp sơn bóng ng̣ai mặt...
Sự ly khai giữa Tin Mừng và văn hóa
quả là một thảm trạng của
thời đại chúng ta cũng như của
các thời đại trước. V́ vậy,
phải dồn mọi nỗ lực để
phúc-âm-hóa văn hóa, đúng hơn, các văn
hóa”[46].
Các
phương tiện truyền thông xă hội là
con đường hiện nay thuận lợi
nhất để tạo lập và chuyển
đạt văn hóa.[47] Tiếp
theo sự phát triển mau lẹ của
những phát minh, và ảnh hưởng của
chúng vừa có tính toàn cầu vừa có tính
tế vi trong việc tạo thanh năo trạng và
tập tục, thế giới các phương
tiện truyền thông làm nên một ranh
giới mới trong sứ vụ của Giáo
Hội. Cách riêng, trách nhiệm nghề
nghiệp của giáo dân trong lănh vực này, dù
được thi hành với danh nghĩa cá nhân
hay qua những sáng kiến và định
chế cộng đồng, vẫn phải
được nh́n nhận với đầy
đủ giá trị của nó và được
nâng đỡ bằng những nguồn lực
vật chất, tinh thần và mục vụ thích
hợp nhất.
Liên
quan đến việc sử dụng các phương
tiện truyền thông, dù là sản xuất hay
tiếp nhận các chương tŕnh, điều
cấp bách là thực hiện một công tác
giáo dục óc phê b́nh, được ḷng say mê
chân lư thúc đẩy, đàng khác, thực
hiện một hoạt động nhằm
bảo vệ sự tự do và sự tôn
trọng phẩm giá con người, cổ vơ văn
hóa đích thực của các dân tộc qua
việc kiên quyết và can đảm khước
từ mọi h́nh thức độc quyền và
mánh lới.
Trách
nhiệm tông đồ giáo dân không chỉ
dừng lại ở công việc bảo vệ
trên đây : Tin Mừng cứu độ chúng
ta phải được loan báo trên mọi
nẻo đường của thế giới,
kể cả trên những con đường
lớn như báo chí, phim ảnh, truyền thanh,
truyền h́nh, kịch nghệ.
Tới đầu trang
<<< === >>> Về mục lục
[1] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 1
[2] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 30
[3] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 10
[4] Đức
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, Evangelii
nuntiandi (8/12/1975), s. 14
[5] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Bài giảng khởi đầu
thừa tác vụ Mục Tử Tối Cao
(22/10/1978)
[6] Đề
nghị 10
[7] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền
Giáo của Giáo Hội, s. 20 ; xt. s. 37
[8] Đề
nghị 29
[9] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền
Giáo của Giáo Hội, s. 21
[10] Đề
nghị 30 bis
[11] CĐ Vatican
II, Hiến chế tín lư về Giáo Hội,
s. 5
[12] x. CĐ
Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 22
[13] nt.
[14] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp Đấng
Cứu Chuộc con người, Redemptor
hominis (4/3/1979), s. 14
[15] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 40
[16] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 12
[17] “Nếu chúng
ta cử hành trọng thể cuộc giáng sinh
của Chúa Giêsu, chính là để chứng
tỏ rằng mỗi người có tính độc
nhất và bất khả thay thế. Các
bản thống kê, xếp lọai, các hệ
thống chính trị, kinh tế và xă hội cũng
như những khả năng của con người
mà thôi không đủ để bảo đảm
rằng con người có thể sinh ra, tồn
tại và hành động như một hữu
thể độc nhất và bất khả thay
thế, chỉ có Thiên Chúa là Đấng
bảo đảm cho con người điều
đó. Đối với Thiên Chúa, con người
luôn luôn là hữu thể độc nhất và
bất khả thay thế ; là người đă
được nghĩ đến từ đời
đời, đă được tuyển
chọn từ đời đời ; là người
được mời gọi đích danh” (Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Sứ điệp Giáng Sinh
gửi thế giới 1979)
[18] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 27
[19] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về Gia Đ́nh, Familiaris
consortio (22/11/1981), s. 30
[20] x. Thánh
Bộ Giáo Lư Đức Tin, Huấn thị Hồng
ân sự sống (22/2/1987)
[21] Đề
nghị 36
[22] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Sứ điệp Ngày quốc
tế ḥa b́nh lần thứ XXI (8/12/1987)
[23] Thánh AUGUSTINÔ, Về
Giáo lư vỡ ḷng XXIV, 44
[24] Đề
nghị 32
[25] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 24
[26] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 12
[27] x. Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về Gia Đ́nh,
ss. 42–48
[28] x. Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về Gia Đ́nh,
s. 85
[29] CĐ Vatican
II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 8
[30] Về
mối tương quan giữa công lư và nhân
từ, x. Thông điệp Thiên Chúa giầu
ḷng thương xót, Dives in misericordia (30/11/1980),
s. 12
[31] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 75
[32] nt., s. 74
[33] nt., s. 76
[34] x. Đề
nghị 28
[35] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về xă
hội, Sollicitudo rei socialis (30/12/1987), s.
38
[36] x. Đức
GIOAN XXIII, Thông điệp Ḥa b́nh trên trái
đất
[37] x. Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về xă
hội, s. 39
[38] x. Đề
nghị 26
[39] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 63
[40] x. Đề
nghị 24
[41] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 67 ; x.
Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về Lao
động, Laborem exercens (14/9/1981), ss. 24–27
[42] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về xă
hội, s. 34
[43] CĐ Vatican
II, Hiên chế Mục Vụ về Giáo
Hội trong thế giới hôm nay, s. 53
[44] x. Đề
nghị 35
[45] CĐ Vatican
II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 58
[46] Đức
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, ss.
18–20
[47] x. Đề
nghị 37
|
|
Chương IV
CHƯƠNG
BỐN
NHỮNG NGƯỜI
THỢ LÀM VƯỜN NHO CỦA CHÚA
Những nhà quản lư
tuyệt vời ân sủng đa dạng
của Thiên Chúa
1.
SỰ
KHÁC NHAU GIỮA CÁC ƠN GỌI
2.
THANH
NIÊN, THIẾU NHI, NGƯỜI CAO NIÊN
o
Thanh
niên hay giới trẻ, niềm hy vọng
của Giáo Hội
o
Thiếu
nhi và Nước Trời
o
Người
cao niên và ơn khôn ngoan
3.
NỮ
GIỚI VÀ NAM GIỚI
o
Những
nền tảng nhân học và thần học
o
Sứ
vụ trong Giáo Hội và trong thế giới
o
Người
nam và người nữ, cùng hiện diện và
cộng tác với nhau
4.
CÁC
BỆNH NHÂN VÀ NGƯỜI ĐAU KHỔ
o
Canh
tân hoạt động mục vụ
5.
CÁC
BẬC SỐNG VÀ CÁC ƠN GỌI
o
Các
ơn gọi khác nhau của giáo dân
1.
SỰ KHÁC NHAU GIỮA CÁC ƠN GỌI
Theo dụ ngôn Tin
Mừng, “gia chủ” mướn thợ làm vườn
nho vào những giờ khác nhau trong ngày :
có người lúc tảng sáng, người khác
khỏang 9 giờ sáng, một số khác
nữa độ 12 giờ trưa và 3 giờ
chiều, những người cuối cùng vào
lúc 5 giờ chiều (x. Mt 20,1 tt.). Chú
giải đoạn dụ ngôn ngày, thánh Grêgôriô
Cả giải thích việc mời gọi vào
những giờ khác nhau bằng cách nối
kết với những giai đoạn khác
nhau trong cuộc đời: “Ta có thể áp
dụng những giờ giấc khác nhau với
những tuổi tác khác nhau của con người.
Theo cách giải thích của chúng tôi, tảng sáng
rơ ràng tượng trưng cho thời thơ
ấu. Ba giờ sau đó tượng trưng
cho thời thiếu niên : mặt trời lên cao
có nghĩa là sự hăng say của tuổi
trẻ tăng dần lên. Giớ thứ sáu,
đó là tuổi thanh niên : mặt trời
ở giữa bầu trời, vào tuổi này,
sức mạnh đạt tới mức toàn
vẹn. Tuổi già tượng trưng cho
giờ thứ chín, bởi v́ cũng như
mặt trời từ đỉnh cao hạ
thấp dần, th́ vào tuổi này, ḷng hăng
say của tuổi trẻ bắt đầu
giảm bớt. Giờ thứ mười
một ám chỉ những người lớn
tuổi... Vậy, các thợ làm vườn nho
được kêu gọi vào những giờ
khác nhau có nghĩa là người này được
kêu gọi nên thánh vào thời thơ ấu, người
khác vào tuổi thanh thiếu niên, người
vào tuổi trưởng thành, và người
khác nữa vào lúc tuổi đă xế
chiều”[1].
Chúng ta có thể lấy
lại phần chú giải của Thánh Grêgôriô
Cả và mở rộng hơn nữa vào
sự khác nhau lạ lùng của những người
đang sống trong Giáo Hội, tất cả và
từng người đều được
mời gọi làm việc để Nước
Thiên Chúa được hoàn thành, tùy theo
sự khác biệt về ơn gọi và hoàn
cảnh, về đoàn sủng và tác vụ.
Đó là sự khác biệt không những
về tuổi tác, nhưng c̣n về giới tính
và khả năng, cũng như về ơn
gọi và điều kiện sống : đó là
sự khác biệt làm cho kho tàng phong phú
của Giáo Hội thêm sống động và
cụ thể hơn.
2.
THANH NIÊN, THIẾU NHI, NGƯỜI CAO NIÊN
- Thanh
niên hay giới trẻ, niềm hy vọng
của Giáo Hội
Thượng-hội-đồng
đă muốn lưu tâm đặc
biệt đến giới trẻ. Điều
này thật đúng. Tại nhiều nước
trên thế giới, giới trẻ chiếm
một nửa trên tổng số dân, và thường
chiếm một nửa số người
thuộc dân Chúa đang sống tại
những nước này. Theo khía cạnh này,
giới trẻ tạo nên một lực lượng
đặc biệt và là một thách
đố lớn đối với tương
lai Giáo Hội. Quả thực, Giáo Hội
nh́n thấy nơi giới trẻ con đường
hướng về tương lai đang đợi
ḿnh, và Giáo Hội nhận ra nơi giới
trẻ h́nh ảnh và lời nhắc nhủ
về sự tươi trẻ mà Thần Khí
của Đức Kitô dùng để không
ngừng làm phong phú Giáo Hội. Chính trong ư nghĩa
này mà Công Đồng đă định nghĩa
giới trẻ là “niềm hy vọng của
Giáo Hội”[2].
Trong Thư gửi
giới trẻ nam nữ toàn thế giới ngày
31/3/1985, chúng ta đọc thấy : “Giáo
Hội nh́n về giới trẻ, hay nói đúng
hơn, một cách đặc biệt, Giáo Hội
tự soi ḿnh trong giới trẻ, nơi
tất cả chúng con và đồng thời nơi
từng người chúng con. Ngay từ thời
các tông đồ, Giáo Hội đă làm như
thế. Những lời trong Thư
thứ nhất của Thánh Gioan làm
chứng đặc biệt về điều
đó : "Hỡi các bạn trẻ,
tôi viết cho anh em : Anh em đă thắng
Ác thần. Hỡi anh em là những người
con thơ bé, tôi đă viết cho anh em : Anh
em biết Chúa Cha. ... Hỡi các bạn
trẻ, tôi đă viết cho anh em : Anh em
là những người mạnh mẽ ;
lời Thiên Chúa ở lại trong anh em" (1
Ga 2,13 tt.). Trong thời đại chúng ta, vào
cuối thiên niên kỷ thứ hai sau Đức
Giêsu-Kitô, Giáo Hội cũng tự soi ḿnh trong
giới trẻ”[3].
Đừng coi giới
trẻ chỉ như đối tượng
của mối quan tâm mục vụ của Giáo
Hội mà thôi : thực sự, giới trẻ
đang được và phải được
khuyến khích “trở thành những chủ
thể tích cực, tham gia vào việc Phúc-âm-hóa
và đổi mới xă hội”[4].
Tuổi trẻ là thời gian để khám
phá đặc biệt sâu xa về “cái
tôi” và về “dự phóng của cuộc
đời” ; đó là thời gian của
một sự tăng trưởng phải
được thực hiện trong “khôn ngoan,
tuổi tác và ân sủng trước mặt
Thiên Chúa và trước mặt người ta” (Lc
2,52).
Như các Nghị
Phụ Thượng-hội-đồng đă
nhận định : “Giới trẻ có
một cảm quan bén nhạy để
nhận ra một cách sâu sắc những giá
trị như công lư, bật bạo động
và ḥa b́nh. Tâm hồn họ hướng
tới t́nh huynh đệ, bằng hữu và liên
đới. Họ nhiệt t́nh hết ḿnh cho
những vấn đề liên hệ đến
chất lượng cuộc sống và bảo
vệ thiên nhiên. Tuy nhiên, ḷng họ vẫn
mang nặng những băn khoăn lo lắng,
chán chường, thất vọng và sợ hăi
trước thế giới, nhất là
những cám dỗ của tuổi thanh xuân”[5].
Giáo Hội phải làm
sống lại ḷng quư mến mà Đức Giêsu
đă tỏ bày với người thanh niên :
“Ngài đưa mắt nh́n anh ta và đem ḷng
yêu mến” (Mc 10,21). Chính v́ thế, Giáo
Hội không ngừng loan báo Đức Giêsu-Kitô
; Giáo Hội công bố Tin Mừng của Ngài
như câu trả lời duy nhất và sung măn
cho những khát vọng cơ bản nhất
của giới trẻ, như một đề
nghị đầy phấn khởi từng người
gắn bó với Ngài : “Hăy đến theo tôi” (Mc
10,21), một đề nghị bao gồm
việc chia sẻ t́nh con thảo của Đức
Giêsu đối với Chúa Cha và việc tham
gia vào sứ vụ cứu độ nhân
loại của Ngài.
Giáo Hội có rất
nhiều điều để nói với
giới trẻ và giới trẻ có rất
nhiều điều để nói với Giáo
Hội.
Cuộc đối thoại hỗ tương này
phải được thực hiện một
cách thật thân t́nh, trong sáng và can đảm,
nó sẽ cổ vơ việc gặp gỡ và trao
đổi giữa các thế hệ, sẽ là
nguồn mạch phát sinh sự phong phú và tươi
trẻ cho Giáo Hội cũng như cho xă
hội. Trong sứ điệp gửi giới
trẻ, Công Đồng tuyên bố : “Giáo
Hội nh́n về các bạn với ḷng tín
cẩn và yêu thương ... Giáo Hội là
sự trẻ trung đích thực của
thế giới ... Xin hăy nh́n Giáo Hội và các
bạn sẽ khám phá ra khuôn mặt của Chúa
Kitô”[6].
- Thiếu
nhi và Nước Trời
Chắc chắn thiếu
nhi là h́nh ảnh nói lên ḷng yêu thương
tinh tế và quảng đại của Chúa Giêsu
: Ngài đă chúc lành cho chúng và hơn nữa,
bảo đảm chúng sẽ được vào
Nước Trời (x. Mt 19,13-15 ; Mc 10,14).
Đặc biệt, Chúa Giêsu ca tụng vai tṛ tích
cực của các trẻ nhỏ trong Nước Thiên
Chúa : chúng là biểu tượng hùng hồn và
h́nh ảnh sáng ngời về những điều
kiện luân lư và thiêng liêng cần phải có
để được gia nhập Nước
Thiên Chúa và để sống phó thác hoàn toàn
cho Chúa : "Thầy bảo thật anh em :
nếu anh em không trở lại mà nên như
trẻ nhỏ, th́ sẽ chẳng được
vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ,
coi ḿnh như em nhỏ này, người ấy
sẽ là người lớn nhất Nước
Trời. C̣n ai tiếp đón một em nhỏ
như em này v́ Danh Thầy, là tiếp đón
chính Thầy" (Mt 18,3-5 ; x. Lc 9,48).
Các thiếu nhi nhắc
nhở cho chúng ta rằng hiệu quả phong phú
trong việc truyền giáo của Giáo Hội có
cội rễ tràn đầy sức sống
chứ không phải nơi các phương
tiện hay công trạng của con người,
nhưng nơi ân huệ hoàn toàn tặng-không
của Thiên Chúa. Đời sống trong
sạch và duyên dáng của trẻ thơ,
kể cả những đau khổ của chúng
do bị hành hạ bất công, trở nên
nguồn mạch đem lại sự phong phú
thiêng liêng cho chúng và cho toàn thể Giáo
Hội, nhờ Thánh Giá Đức Kitô :
tất cả chúng ta phải có một ư
thức rất sống động và tràn đầy
tâm t́nh biết ơn về điều đó.
Hơn nữa, phải nh́n
nhận rằng có những khả năng
hoạt động quư giá đang được
mở ra cho các thiếu nhi, nhằm xây dựng
Giáo Hội cũng như nhân bản hóa xă
hội. Khi nói về sự hiện diện
hồng phúc của các trẻ em trong gia đ́nh,
“Giáo Hội tại gia”, Công Đồng
đă khẳng định : “Con cái là
những phần tử sống động trong
gia đ́nh, nên cũng góp phần riêng vào
việc thánh hóa cha mẹ”[7].
Khẳng định của Công Đồng cũng
có thể áp dụng về các trẻ em trong tương
quan với Giáo Hội địa phương và
phổ quát. Jean Gerson, nhà thần học và giáo
dục thế kỷ XV đă ghi nhận điều
đó qua những lời sau : “Các trẻ em và
thanh niên không phải là thành phần không
đáng kể trong Giáo Hội”[8].
- Người
cao niên và ơn khôn ngoan
Đối với
những người cao niên, mà người ta
thường sai lầm coi như là những người
vô ích, nếu không coi như một gánh
nặng không chịu đựng nổi, tôi xin
nhắc lại rằng Giáo Hội đ̣i
hỏi và trông chờ họ theo đuổi
sứ vụ tông đồ và truyền giáo
của họ, sứ vụ mà ngay cả vào
tuổi này, không những là một công
việc có thể thi hành và là một nghĩa
vụ, nhưng chính trong tuổi này, nó c̣n có
những h́nh thức riêng biệt và độc
đáo nữa.
Kinh Thánh cho chúng ta
thấy người cao tuổi như là
biểu tượng của người đầy
khôn ngoan và kính sợ Thiên Chúa (x. Hc 25,4-6).
Theo nghĩa này, “ân huệ” của người
cao tuổi có thể được hiểu như
ân huệ của người làm chứng cho
truyền thống đức tin (x. Tv 44,2 ;
Xh 12,26-27), thầy dạy cách sống (x. Hc
6,34 ; 8,11-12), người xây dựng đức
ái, trong Giáo Hội cũng như trong xă
hội.
Ngày nay, số người
cao tuổi gia tăng trong nhiều nước
trên thế giới và t́nh trạng về hưu
sớm mở ra một chân trời mới cho công
việc tông đồ của những người
cao tuổi : đó là một nhiệm vụ mà
họ phải can đảm đón nhận
bằng cách cương quyết vượt
thắng cám dỗ muốn thu ḿnh lại,
luyến tiếc một quá khứ không bao
giờ trở lại nữa, và từ chối
dấn thân trong hiện tại, v́ gặp
những khó khăn trong một thế giới
không ngừng đổi mới ; ngược
lại, họ phải luôn ư thức rơ hơn
về vai tṛ cá nhân của ḿnh trong Giáo
Hội và trong xă hội, bởi v́ vai tṛ này
không mất đi do tuổi tác, nhưng
chỉ mang những khía cạnh mới, như
lời tác giả thánh vịnh : "Già
cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn
đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn,
để loan truyền rằng : Chúa thực là
ngay thẳng" (Tv 92,15-16). Tôi nhắc
lại điều đó trong dịp cử hành
Ngày Năm Thánh cho những Người Cao
Tuổi : “Đi vào giai đoạn thứ ba
của cuộc đời phải được
coi là một đặc ân : không những v́ không
phải ai cũng may mắn sống tới
tuổi này, nhưng c̣n và nhất là v́ đây
là quăng thời gian cụ thể có thể giúp
người ta xem xét lại quá khứ một
cách kỹ lưỡng hơn và sống mănh
liệt hơn mầu nhiệm vượt qua,
trở thành gương mẫu cho toàn thể dân
Chúa trong Giáo Hội ... Mặc dù có nhiều
vấn đề phức tạp phải
giải quyết, sức lực mỗi ngày
mỗi suy giảm, mặc dù thiếu các
tổ chức xă hội, sự tŕ trệ
của pháp chế chính thức, thái độ
thiếu thông cảm trong một xă hội ích
kỷ, dầu vậy, anh chị em vẫn không
và không thể tin rằng ở bên lề
cuộc sống của Giáo Hội, coi ḿnh là
những thành phần thụ động
của một thế giới đầy
tốc độ, nhưng phải tin rằng ḿnh
như những chủ thể hoạt động
của một giai đoạn rất phong phú
về nhân bản và thiêng liêng trong cuộc
sống của nhân lọai. Anh chị em c̣n có
một sứ vụ phải chu toàn, một
sự đóng góp phải thực hiện. Theo
ư định của Thiên Chúa, mỗi người
là một sự sống luôn tăng trưởng,
từ lúc đầu tiên cuộc sống h́nh
thành cho đến ngày thở hơi cuối cùng”[9].
3.
NỮ GIỚI VÀ NAM GIỚI
Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă chú ư đặc biệt đến hoàn
cảnh và vai tṛ của phụ nữ, với
hai ư hướng : nh́n nhận và, một
lần nữa, mời gọi mỗi người
nh́n nhận sự đóng góp không thể
thiếu của phụ nữ trong việc xây
dựng Giáo Hội và phát triển xă hội ;
hơn nữa, phân tích đặc biệt hơn
sự tham gia của phụ nữ vào đời
sống và sứ vụ của Giáo Hội.
Dựa vào giáo huấn
của Đức Gioan XXIII, người đă
nh́n thấy việc phụ nữ ư thức
về phẩm giá riêng của họ và gia
nhập vào đời sống công cộng như
một dấu chỉ thời đại,[10] các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng,
đứng trước t́nh trạng phân
biệt đối xử và gạt ra ngoài
lề bằng nhiều h́nh thức rất khác
nhau mà phụ nữ phải chịu chỉ v́
họ là phụ nữ, đă nhiều lần
mạnh mẽ xác quyết phải bảo
vệ và thăng tiến nhân phẩm
của nữ giới cũng như
sự b́nh đẳng của họ đối
với nam giới.
Nếu đó là nghĩa
vụ của mọi người trong Giáo
Hội và trong xă hội, th́ cách riêng, đó là
nghĩa vụ của chính phụ nữ ;
họ phải tự cảm thấy cần
dấn thân như những người đấu
tranh hàng đầu cho điều đó.
Cần có nhiều nỗ lực phải
thực hiện ở nhiều nơi trên
thế giới và trong các môi trường khác
nhau, nhằm loại bỏ năo trạng bất
công và độc hại coi con người như
một đồ vật, một món hàng,
một dụng cụ phục vụ cho lợi
lộc ích kỷ và cho việc t́m kiếm khóai
lạc ; càng phải nỗ lực, v́ với năo
trạng như thế, chính phụ nữ là
nạn nhân đầu tiên. Việc chân thành và
rơ ràng nh́n nhận nhân phẩm của phụ
nữ là bước đầu phải làm
để cổ vơ sự tham gia trọn
vẹn của họ vào đồi sống Giáo
Hội cũng như đời sống xă
hội và cộng đồng. Cần phải có
sự đáp ứng cương quyết hơn
cho đ̣i hỏi đă được nhắc
đến trong Tông Huấn về Gia
Đ́nh về nhiều h́nh thức phân
biệt đối xử mà phụ nữ là
nạn nhân : “Vậy tôi yêu cầu mọi người
dấn thân vào mọi hoạt động
mục vụ chuyên biệt mạnh mẽ và
sắc bén hơn, để dứt khoát
loại trừ tệ trạng kỳ thị này
và để đi đến chỗ hoàn toàn
quư trọng h́nh ảnh của Thiên Chúa
rạng rỡ nơi mọi người, không
trừ ai”[11]. Trong cùng
hướng suy tư đó, các Nghị Phụ
Thượng-hội-đồng đă khẳng
định : “Khi thể hiện sứ vụ
của ḿnh, Giáo Hội phải mạnh mẽ
chống lại mọi h́nh thức kỳ
thị và lạm dụng mà người
phụ nữ là nạn nhân”[12]. Và :
“Phẩm giá của phụ nữ đă
bị xúc phạm nặng nề trong dư
luận quần chúng, nên phải khôi phục
lại phẩm giá đó bằng cách tôn
trọng thực sự các quyền con người
và thực thi giáo huấn của Giáo Hội”[13].
Đặc biệt, trong
những điều liên quan đến sự
tham gia tích cực và có trách nhiệm vào đời
sống và sứ vụ của Giáo Hội,
cần phải ghi nhận lời mời
gọi rơ ràng của Công Đồng Vatican II :
“Ngày nay, phụ nữ càng ngày càng góp
phần tích cực vào tất cả đời
sống xă hội, cho nên điều quan
trọng là làm sao cho họ cũng tham gia
nhiều hơn vào những lănh vực tông
đồ của Giáo Hội”[14].
Ư thức về
những ân huệ và trách nhiệm riêng
biệt của phụ nữ, cũng như ơn
gọi đặc biệt của họ,
đă được phát triển và được
đào sâu trong thời kỳ sau Công Đồng
; ư thức đó được gợi
hứng từ nền tảng căn bản
nhất trong Tin Mừng và trong lịch sử Giáo
Hội. Thực vậy, đối với người
có đức tin, Tin Mừng, nghĩa là lời
nói và gương mẫu của Đức Giêsu-Kitô,
vẫn luôn là điểm quy chiếu thiết
yếu và có tính cách quyết định,
một điểm quy chiếu phong phú nhất
và có sức canh tân nhất trong giai đoạn
lịch sử chúng ta đang sống.
Dù không được kêu
gọi vào tông-đồ-vụ của riêng Nhóm
Mười Hai, và như vậy cũng không
được kêu gọi vào chức linh
mục thừa tác, nhiều phụ nữ đă
theo Chúa Giêsu khi Ngài thi hành sứ vụ và
đă phụ giúp các Tông Đồ (x. Lc
8,2-3) ; các bà đă hiện diện gần
bên Thập Giá Chúa (x. Lc 23,49) ; các bà
tham dự vào việc chôn táng Chúa (x. Lc
23,55) và vào buổi sáng Phục Sinh, các bà
đă đón nhận rồi truyền lại
lời loan báo Chúa Phục Sinh (x. Lc 24,1-10) ;
các bà đă cầu nguyện cùng với các Tông
Đồ trong Nhà Tiệc Ly khi chờ đợi
Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 1,14).
Theo dấu chân của
Tin Mừng, Giáo Hội thời sơ khai đă
tách khỏi văn hóa thời đại, và
đă kêu gọi phụ nữ lănh nhận
những trách vụ gắn liền với
việc loan báo Tin Mừng. Trong các thư
của ḿnh, thánh Phaolô đă kể tên một
số phụ nữ v́ họ giữ một
số nhiệm vụ khác nhau trong ḷng những
cộng đồng giáo hội tiên khởi và
phục vụ những cộng đồng này (x.
Rm 16,1-15 ; Pl 4,2-3 ; Cl 4,15 ; 1 Cr 11,5 ; 1 Tm 5,16). Đức
Phaolô VI đă nói : “Nếu chứng tá
của các Tông Đồ làm nên Giáo Hội, th́
chứng tá của các phụ nữ đă góp
phần lớn lao vào việc nuôi dưỡng
đức tin của các cộng đồng kitô-hữu”[15].
Cũng như thời
khai sinh, trong tiến tŕnh phát triển tiếp
theo, Giáo Hội vẫn luôn có – dĩ nhiên
với những khía cạnh và những điểm
nhấn mạnh khác nhau – những phụ
nữ đă chu toàn những vai tṛ đôi khi có
tính cách quyết định, và đă đảm
nhận những trách vụ có tầm quan
trọng đáng kể cho chính Giáo Hội.
Đó là lịch sử của một hoạt
động bao la, thường là khiêm tốn và
âm thầm, nhưng không kém phần quyết
định cho sự tăng trưởng và thánh
thiện của Giáo Hội. Lịch sử
đó cần phải được tiếp
tục, và hơn nữa, cần phải
được mở rộng, được tăng
cường sức mạnh, đi đôi
với ư thức lớn rộng và phổ quát
về nhân phẩm cũng như ơn gọi
của phụ nữ và, mặt khác, cũng
đi đôi với hiện t́nh khẩn
cấp cần có một cuộc “Phúc-âm-hóa
mới”, một sự “nhân-bản-hóa”
rộng lớn hơn trong các tương quan xă
hội.
Nhắc lại mệnh
lệnh của Công Đồng Vatican II là
mệnh lệnh phản ánh sứ điệp
Tin Mừng cũng như lịch sử Giáo
Hội, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă đưa ra một “khuyến
dụ” rơ ràng, trong số nhiều
khuyến dụ khác, như sau : “Qua đời
sống và sứ mạng của ḿnh, Giáo
Hội phải nh́n nhận tất cả
những ân huệ của nữ giới cũng
như của nam giới và đưa vào lănh
vực thực hành”[16].
Lại nữa : “Thượng-hội-đồng
này tuyên bố rằng Giáo Hội đ̣i
phải công nhận và sử dụng tất
cả những ân huệ, những kinh
nghiệm và khả năng của nam giới cũng
như nữ giới, để sứ vụ
của Giáo Hội đạt được
hữu hiệu hơn” (x. TB. Giáo Lư Đức
Tin, Huấn thị về tự do Kitô-giáo
và giải phóng, 72)[17].
- Những
nền tảng nhân học và thần học
Muốn bảo đảm
chỗ đứng cho phụ nữ mà họ có
quyền có trong Giáo Hội và xă hội,
cần một điều kiện là : nghiên
cứu nghiêm túc và sâu xa những nền
tảng nhân học về thân phận nam –
nữ, nhằm xác định căn tính ngôi
vị riêng của phụ nữ trong mối tương
quan khác biệt và bổ túc của họ
đối với người nam. Việc nghiên
cứu đó không chỉ nhằm những ǵ
liên hệ đến những vai tṛ phải
thi hành, những chức năng phải đảm
nhận, nhưng sâu xa hơn, c̣n nhằm
những ǵ liên hệ đến cơ cấu
ngôi vị và ư nghĩa của nó. Các Nghị
Phụ Thượng-hội-đồng đă
cảm nhận mạnh mẽ nhu cầu này nên
đă xác định rằng : “Phải nghiên
cứu sâu xa hơn những nền tảng nhân
học và thần học, nhằm giải
quyết những vấn đề liên quan
đến ư nghĩa đích thực cũng như
phẩm giá của cả hai phái”[18].
Khi suy tư về
những nền tảng nhân học và thần
học của thân phận nữ giới, Giáo
Hội bảo đảm sự hiện
diện của ḿnh trong tiến tŕnh lịch
sử của các phong trào khác nhau nhằm thăng
tiến cho phụ nữ, và khi đi vào
tận gốc rễ con người của
phụ nữ, Giáo Hội đem vào đó
phần đóng góp quư báu nhất của ḿnh.
Tuy nhiên, trước nhất và đặc
biệt nhất là, Giáo Hội biết tuân
phục Thiên Chúa là Đấng, khi sáng tạo
nên con người “theo h́nh ảnh của Ngài”,
“đă sáng tạo họ có nam có nữ” (St
1,27) ; Giáo Hội biết đón nhận
lời Thiên Chúa mời gọi nhận ra, thán
phục và sống ư định của Ngài là
Đấng Tạo Hóa. Đó là một ư định
đă được ghi khắc một cách không
thể xóa nḥa ngay “từ lúc khởi đầu”
vào trong chính hữu thể con người,
cả nam lẫn nữ, và như vậy, trong
cấu trúc đầy ư nghĩa của họ
cũng như trong những năng động sâu
xa của họ. Quả thực, ư định
đầy khôn ngoan và yêu thưong này đ̣i
phải được phát triển trong
tất cả nét phong phú của nó. Nét phong phú
này ngay từ “lúc khởi đầu” đă
được bày tỏ dần dần,
được thể hiện trong suốt ḍng
lịch sử, và đạt đến cao
điểm khi “thời gian tới hồi viên
măn”, khi “Thiên Chúa sai Con ḿnh tới, sinh làm
con một người đàn bà” (Gl 4,4).
Sự “viên măn” đó vẫn tiếp
tục trong lịch sử : việc nhận ra
ư định của Thiên Chúa được
tiếp tục và phải được
tiếp tục không ngừng trong niềm tin
của Giáo Hội, và cũng nhờ đời
sống của bao nhiêu phụ nữ kitô-hữu.
Không được coi thường sự
đóng góp của các ngành khoa học nhân văn
và các văn hóa khác nhau ; với sự
biện phân sáng suốt, sự đóng góp này
có thể giúp đón nhận và xác định
các giá trị, các đ̣i hỏi thuộc
về chính yếu tính vững bền của
người nữ, cũng như những giá
trị và đ̣i hỏi gắn liền với
sự tiến triển lịch sử của các
văn hóa, như Công Đồng đă
nhắc nhở chúng ta về điều đó
: “Giáo Hội xác nhận rằng, qua mọi
đổi thay, có nhiều điều vẫn
không thay đổi v́ nền tảng cuối cùng
của những điều không thay đổi
là Chúa Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và măi măi
vẫn thế (x. Dt 13,8)”[19].
Những nền tảng
nhân học và thần học về nhân
phẩm của phụ nữ đă được
bàn đến trong Tông Thư về phẩm giá
và ơn gọi phụ nữ. C̣n văn
kiện này chỉ lấy lại, triển khai
và chuyên biệt hóa những suy tư trong
huấn giáo các ngày thứ tư, bàn đến
một “nền thần học về thân xác”
trong một thời gian dài. Văn kiện này
muốn thực hiện lời hứa nói trong
Thông điệp Mẹ Đấng
Cứu Thế,[20] đồng
thời đáp lại lời yêu cầu
của các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng.
Việc đọc
lại Tông Thư về phẩm giá và
ơn gọi phụ nữ, ngay cả do
đặc tính suy niệm thần học – thánh
kinh của nó, có thể là một việc
gợi hứng cho mọi người, nam cũng
như nữ, và cách riêng kích thích các đại
diện của các ngành khoa học nhân văn và
các bộ môn thần học theo đuổi
những nghiên cứu phê b́nh của họ,
để, dựa trên nền tảng nhân
phẩm của người nam và người
nữ, và tương quan hỗ tương
của họ, càng ngày càng đào sâu những
giá trị và ân huệ riêng biệt của
nữ tính và nam tính, không phải chỉ trong
lănh vực đời sống xă hội, nhưng
c̣n và nhất là c̣n trong lănh vực đời
sống kitô-hữu và đời sống Giáo
Hội.
Suy tư về những
nền tảng nhân học và thần học
về nữ tính phải soi sáng và hướng
dẫn cho câu giải đáp Kitô-giáo đối
với câu hỏi rất hay được
đặt ra, đôi khi một cách rất gay
gắt, về “vị trí” mà người
phụ nữ có thể và phải có trong Giáo
Hội và trong xă hội.
Từ lời nói và thái
độ của Đức Kitô, là những
chuẩn mực cho Giáo Hội, rơ ràng là không
hề có một sự kỳ thị nào cả
trên b́nh diện tương quan với Đức
Kitô, nơi Ngài “không c̣n chuyện phân
biệt đàn ông hay đàn bà, nhưng
tất cả anh em chỉ là một trong Đức
Kitô Giêsu” (Gl 3,28), lẫn trên b́nh diện
tham dự vào đời sống và sự thánh
thiện của Giáo Hội, được
thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần,
như lời tiên tri Gioel chứng thực cách
kỳ diệu : “Ta sẽ đổ Thần Khí
của Ta trên mọi người phàm, con trai
con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn
sứ” (Ge 3,1 ; x. Cv 2,17 tt.). Người ta
cũng đọc được điều
ấy trong Tông Thư về phẩm giá và
ơn gọi phụ nữ : “Cả hai, nam cũng
như nữ, ... có khả năng được
hưởng chân lư của Thiên Chúa và t́nh yêu
của Chúa Thánh Thần với cùng một danh
nghĩa. Cả hai tiếp đón Ngài “đến”
cứu độ và thánh hóa”[21].
- Sứ
vụ trong Giáo Hội và trong thế giới
Về việc tham dự
vào sứ vụ tông đồ của Giáo
Hội, chắc chắn rằng nhờ bí tích
Thánh Tẩy và Thêm Sức, phụ nữ – cũng
như người nam – được tham
dự vào ba chức vụ của Đức Giêsu-Kitô
Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Giả,
do đó, họ có tư cách và được
tham gia vào sứ vụ nền tảng của
Giáo Hội : Phúc-âm-hóa. Mặt khác,
chính qua việc chu toàn sứ mạng tông đồ
đó mà người phụ nữ được
mời gọi sử dụng “các ân huệ”
riêng của ḿnh : trước tiên, ân huệ
đó là chính nhân phẩm của họ,
lời nói, chứng tá đời sống,
rồi đến những ân huệ gắn
liền với ơn gọi của nữ
giới.
Khi tham dự vào đời
sống và sứ vụ của Giáo Hội,
phụ nữ không được lănh bí tích
Truyền Chức Thánh, và như vậy không
thể thi hành những nhiệm vụ riêng
của chức tư tế thừa tác. Đó
là một quy định mà Giáo Hội vẫn
luôn nhận ra trong ư muốn rơ ràng, hoàn toàn
tự do và tối thượng của Đức
Giêsu-Kitô, Đấng đă chỉ kêu gọi
những người nam làm Tông Đồ
của Ngài [22] ;
quy định đó có thể được
sáng tỏ qua mối tương quan giữa
Đức Kitô Phu Quân và Giáo Hội Hiền Thê
của Ngài.[23] Chúng
ta đang nói đến khái niệm về chức
năng, chứ không phải khái niệm
về phẩm giá và sự thánh
thiện. Thực ra, phải xác quyết
rằng : “Mặc dù Giáo Hội có một cơ
cấu ‘phẩm trật’, tuy nhiên cơ
cấu này hoàn toàn quy hướng về
sự thánh thiện của các chi thể Đức
Kitô”[24].
Tuy nhiên, như Đức
Phaolô VI đă nói, nếu “chúng ta không
thể thay đổi được thái độ
của Đấng Cứu Thế cũng như
lời kêu mời của Ngài đối
với các phụ nữ, chúng ta vẫn có
thể nh́n nhận và cổ vơ vai tṛ của
phụ nữ trong sứ vụ loan báo Tin
Mừng và trong đời sống của
cộng đồng kitô-hữu”[25].
Chúng ta cần phải
đi từ sự nh́n nhận có tính cách
lư thuyết về sự hiện
diện tích cực và có trách nhiệm của
phụ nữ trong Giáo Hội, đến
việc thể hiện nó trong thực hành.
Chúng ta phải đọc Tông Huấn gửi
cho giáo dân này trong ư nghĩa rất chính xác
đó, khi Tông Huấn chủ ư lặp lại
điệp ngữ “những người nam và
người nữ”. Hơn nữa, Giáo
Luật cũng chứa đựng nhiều quy
định về sự tham gia của phụ
nữ vào đời sống và sứ vụ
của Giáo Hội : đó là những quy định
cần được quảng bá rộng răi hơn,
được thực hiện thích đáng và
rơ nét hơn , mà vẫn tôn trọng những
dị biệt về cảm thức văn hóa
và các nhu cầu mục vụ.
Chẳng hạn, người
ta phải nghĩ đến sự tham gia
của phụ nữ vào Hội Đồng
mục vụ của giáo phận và các giáo
xứ, cũng như vào những Công Nghị
giáo phận và các Công Đồng địa
phương. Chính theo nghĩa đó, các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă viết : “Ước mong các phụ
nữ cũng được tham gia vào đời
sống Giáo Hội, không có một sự
kỳ thị nào, ngay cả trong việc tư
vấn và soạn thảo các quyết nghị”[26]. Hơn
nữa, “Phụ nữ đă có một vị
trí quan trọng trong việc truyền đạt
đức tin và chu ṭan những dịch vụ
đủ loại trong đời sống Giáo
Hội, họ phải được góp
phần soạn thảo các văn kiện
mục vụ và những sáng kiến truyền
giáo ; họ phải được công
nhận như những người cộng tác
vào sứ vụ của Giáo Hội trong gia
đ́nh, nghề nghiệp và xă hội”[27].
Trong lănh vực đặc
biệt hơn của việc phúc-âm-hóa và
huấn giáo, cần phải cổ vơ mạnh
mẽ hơn trách vụ bổ túc của
nữ giới trong việc truyền đạt
đức tin, không chỉ trong gia đ́nh, nhưng
cả trong những môi trường giáo
dục khác nhau và, một cách tổng quát hơn,
ở bất cứ nơi nào đón nhận,
hiểu biết và thông truyền Lời Chúa,
kể cả bằng phương tiện nghiên
cứu, t́m ṭi và giảng dạy thần
học.
Càng dấn thân nhiều
hơn trong công việc phúc-âm-hóa, phụ
nữ sẽ càng cảm thấy sâu sắc hơn
nhu cầu chính ḿnh được phúc-âm-hóa.
như thế, nhờ được đức
tin soi sáng, phụ nữ sẽ có thể
biện phân được điều ǵ
thực sự phù hợp với nhân phẩm và
ơn gọi của ḿnh, khác với những ǵ,
dưới chiêu bài “phẩm giá”, hoặc nhân
danh “tự do” và “tiến bộ”, lôi kéo
phụ nữ tới chỗ không c̣n ủng
hộ cho việc củng cố những giá
trị đích thực, ngược lại,
đưa họ tới chỗ chịu trách
nhiệm về sự sa sút luân lư của
nhiều người, nhiều nơi và của
xă hội. Thực hiện một sự
“biện phân” như vậy là một
vấn đề cấp bách có tầm mức
lịch sử và không thể tŕ hoãn, đồng
thời đó cũng là khả năng và đ̣i
hỏi phát xuất từ sự tham dự
của phụ nữ kitô-hữu vào sứ
vụ ngôn sứ của Đức Kitô và
của Giáo Hội. Sự “biện phân” mà Tông
Đồ Phaolô đă nhiều lần nói đến
không phải chỉ là đáng giá các thực
tại và những biến cố dưới ánh
sáng đức tin ; nhưng c̣n là một
quyết định cụ thể và dấn thân
tích cực, không chỉ trong Giáo Hội mà
cả trong xă hội nhân loại.
Người ta có thể
xác quyết rằng tất cả những
vấn đề của thời đại chúng
ta, mà Hiến chế Vui Mừng và Hy
Vọng đă đề cập ở
phần II, những vấn đề mà
thời gian trôi qua từ đó tới nay chưa
hề giải quyết hay làm giảm bớt
được, những vấn đề đó
cần đến sự hiện diện tích
cực của phụ nữ, nói rơ hơn,
cần đến sự đóng góp tiêu
biểu và bất khả thay thế của
họ.
Đặc biệt, có
hai trách vụ lớn lớn được
giao cho phụ nữ đáng được
mọi người lưu ư,
Trước hết,
đó là việc thực hiện tất
cả phẩm giá của ḿnh trong đời
sống làm vợ và làm mẹ. Ngày nay
phụ nữ có nhiều điều kiện
mới mẻ để hiểu biết và
thực hiện phong phú hơn những giá
trị nhân bản và Kitô-giáo trong đời
sống phu thê và trong kinh nghiệm làm mẹ ;
c̣n người đàn ông, là chồng và là
cha, có thể đi tới chỗ sửa
chữa những h́nh thức vắng nhà
hoặc hiện diện thất thường
hay không đủ, hơn nữa, có thể
đi tới chỗ thắt chặt những tương
giao hiệp thông liên vị mới mẻ và có
ư nghĩa, tất cả chính là nhờ sự
can thiệp thông minh, âu yếm và quả
quyết của người vợ.
Một trách vụ khác
của phụ nữ là bảo đảm
chiều kích luân lư của văn hóa, nghĩa
là chiều kích nhân bản thực sự, phù
hợp với phẩm giá con người trong
đời sống cá nhân và xă hội. Công
Đồng Vatican II dường như đă
nối kết chiều kích luân lư và văn hóa
với sự tham dự của người giáo
dân vào chức vụ vương giả
của Đức Kitô : “Khi các thể chế
và cảnh sống của thế giới gây nên
dịp tội, giáo dân phải góp sức làm
cho các thể chế và cảnh sống đó
trở nên lành mạnh, để chúng phù
hợp với các tiêu chuẩn của đức
công b́nh và giúp phát huy việc luyện tập
các nhân đức hơn là ngăn trở chúng.
Hành động như thế, giáo dân sẽ làm
cho những giá trị luân lư thấm nhập vào
văn hóa và các công tŕnh của loài người”[28].
Trong mức độ người
phụ nữ tham gia tích cực và có trách
nhiệm vào việc điều hành các thể
chế có ảnh hưởng tới việc
bảo vệ tính ưu tiên phải được
dành cho các giá trị nhân bàn trong sinh họat
của các cộng đồng chính trị, th́
những lời Công Đồng mà chúng ta
vừa nhắc lại, xác định một lănh
vực tông-đồ-vụ quan trọng
của phụ nữ : trong mọi chiều kích
của đời sống của các cộng
đồng đó, từ chiều kích kinh
tế – xă hội đến chiều kích chính
trị – xă hội, phải tôn trọng và
cổ vơ nhân phẩm của phụ nữ và
ơn gọi riêng biệt của họ : không
chỉ trong lănh vực cá nhân, nhưng cả
trong lănh vực cộng đồng, không
chỉ trong những h́nh thức để con
người được tự do có trách
nhiệm, nhưng cả trong những h́nh
thức được luật phát dân sự
chính đáng bảo đảm.
“Con người ở
một ḿnh th́ không tốt ; Ta sẽ làm cho nó
một trợ tá tương xứng với nó” (St
2,18). Đấng Tạo Hóa đă trao phó người
nam cho người nữ. Chắc chắn người
nam đă được trao phó cho mọi người,
nhưng đă được trao phó một cách
đặc biệt cho người nữ,
bởi v́ chính người phụ nữ,
nhờ có kinh nghiệm đặc biệt
về t́nh mẫu tử, dường như
được phú bẩm một sự
nhạy cảm đặc biệt đối
với con người và đối
với những ǵ làm nên thiện hảo đích
thực của con người, khởi từ
giá trị nền tảng của cuộc
sống. Khả năng và trách nhiệm của
phụ nữ lớn lao biết bao trong lănh
vực này, vào một thời đại mà
sự phát triển khoa học và kỹ
thuật không phải lúc nào cũng dựa vào
sự Khôn Ngoan đích thực và được
đánh giá theo sự Khôn Ngoan này, với nguy cơ
không trách được là “phi nhân hóa”
cuộc sống con người, nhất là khi
cuộc sống này cần tới một t́nh yêu
mănh liệt hơn và một sự đón
nhận quảng đại hơn.
Khi đem những thiên
khiếu của ḿnh phục vụ Giáo Hội
và xă hội, người phụ nữ t́m
được sự triển nở nhân
vị đích thực của ḿnh – điều
mà ngày nay người ta đang hết sức
nhấn mạnh – và góp phần độc
đáo vào sự hiệp thông giáo hội cũng
như vào tính năng động tông đồ
của dân Chúa.
Trong
viễn tượng đó, cũng cần nói
về người nam, chứ không chỉ nói
về người nữ.
- Người
nam và người nữ, cùng hiện diện và
cộng tác với nhau
Khi
Thượng-hội-đồng đang nhóm
họp, nhiều phát biểu đă tỏ ư lo
ngại rằng việc quá nhấn mạnh
đến điều kiện sống và vai tṛ
của phụ nữ có thể đưa đến
một sự quên lăng không thể chấp
nhận được : bỏ quên nam
giới. Quả thực, trong nhiều t́nh
huống của Giáo Hội, người ta
đă phàn nàn về sự vắng mặt
hoặc hiện diện không đủ của
nam giới, một số người nam đă
trốn tránh trách nhiệm riêng của ḿnh
trong Giáo Hội, đến nỗi chỉ c̣n
phụ nữ phải ra sức gánh vác :
chẳng hạn, về việc tham dự kinh
nguyện phụng vụ ở thánh đường,
việc giáo dục, nhất là việc dạy
giáo lư cho trẻ em, về sự hiện
diện trong những buổi gặp gỡ có tính
cách tôn giáo và văn hóa, về sự cộng
tác vào những sáng kiến từ thiện và
những công tác truyền giáo.
Như
vậy, cần phải có một nỗ lực
mục vụ nhằm có được một
sự hiện diện phối hợp của người
nam và người nữ, để việc tham
gia của giáo dân vào sứ vụ cứu độ
của Giáo Hội trở nên trọn vẹn hơn,
hài ḥa hơn và phong phú hơn.
Lư
do nền tảng đ̣i buộc và giải thích
sự hiện diện phối hợp và sự
cộng tác nam – nữ không chỉ là để
bảo đảm, như chúng ta vừa nói, ư
nghĩa và hiệu năng lớn hơn cho công
việc mục vụ của Giáo Hội ; càng
không phải chỉ để đáp ứng
một khía cạnh xă hội học về
sự chung sống của nhân loại
được thực hiện một cách
tự nhiên, nhờ cả người nam và người
nữ. Trước tiên, chính như thế mà
ư định nguyên thủy của Đấng
Tạo Hóa được thực hiện ,
Đấng mà ngay “từ lúc khởi đầu”,
đă muốn con người phải là “như
sự hiệp nhất của cả hai” và Ngài
đă sáng tạo người nam – người
nữ như một cộng đồng đầu
tiên của con người, nguồn gốc
của mọi cộng đồng khác, đồng
thời như là “dấu chỉ” của
cộng đồng liên vị yêu thương
làm nên mầu nhiệm đời sống thâm
sâu của Thiên Chúa Duy Nhất – Ba Ngôi.
Đặc
biệt chính v́ vậy mà cách thức thông thường
nhất, tế vi nhất và cũng nền
tảng nhất để bảo đảm
sự hiện diện phối hợp, hài ḥa này
của người nam – người nữ
trong đời sống và trong sứ vụ
của Giáo Hội, chính là việc chu toàn các
trách vụ và thực thi những trách
nhiệm của đôi vợ chồng và
của gia đ́nh Kitô-giáo. Trong cách
thức đó, nhiều h́nh thức khác nhau
của t́nh yêu và đời sống được
tỏ hiện và truyền thông cho nhau : h́nh
thức vợ chồng, cha mẹ – con cái, anh
chị em. như Tông Huấn về Gia
Đ́nh đă nói : “Nếu gia đ́nh
Kitô-giáo là một cộng đồng mà các
mối dây liên hệ được đổi
mới nhờ Đức Kitô, qua đức tin
và các bí tích, th́ sự tham dự của gia
đ́nh vào sứ vụ của Giáo Hội cũng
phải được thể hiện một cách
cộng đồng ; như vậy, người
chồng và người vợ, với tư
cách là đôi lứa, cha mẹ và con cái, với
tư cách là gia đ́nh, phải cùng
với nhau phục vụ Giáo Hội và thế
giới ... Vả lại, gia đ́nh Kitô-giáo xây
dựng Nước Thiên Chúa trong lịch
sử xuyên qua những thực tại của
cuộc sống hằng ngày, những thực
tại có liên hệ với điều
kiện sống của gia đ́nh và làm
nên đặc tính của nó. Từ đó,
sự tham dự của gia đ́nh Kitô-giáo vào
sứ vụ ngôn sứ, tư tế và vương
giả của Đức Giêsu-Kitô và của Giáo
Hội được diễn tả và
thực hiện trong t́nh yêu phu thê và gia
đ́nh, một t́nh yêu được
sống trong sự phong phú lạ lùng về các
giá trị của nó với những đ̣i
hỏi của nó là trọn vẹn, trung tín và
sinh sản con cái”[29].
Đi
theo viễn tượng này, các Nghị Phụ
Thượng-hội-đồng đă nhắc
lại ư nghĩa của bí tích Hôn Phối
trong Giáo Hội và trong xă hội phải
thực hiện, để soi sáng và gợi
hứng cho tất cả những mối tương
giao giữa người nam và người
nữ. Chính trong ư nghĩa đó, các ngài đă
nhấn mạnh đến “những cầu
khẩn cấp là mỗi người kitô-hữu
phải sống và loan báo sứ điệp hy
vọng hàm chứa trong mối tương giao
giữa người nam và người nữ. Bí
tích Hôn Phối thánh hóa mối tương giao
này dưới h́nh thức vợ chồng và
mặc khải nó như dấu chỉ của
mối tương giao giữa Đức Kitô và
Giáo Hội, bí tích ấy chứa đựng
một giáo huấn hết sức quan trọng
đối với đời sống Giáo
Hội : giáo huấn này phải được
truyền đạt cho thế giới hôm nay,
qua trung gian của Giáo Hội ; tất cả
những mối tương giao giữa người
nam và người nữ phải dựa vào giáo
huấn đó. Giáo Hội phải sử
dụng rộng răi hơn nữa nét phong phú
đó”[30].
Các Nghị Phụ c̣n nêu lên một cách chính
đáng rằng : “Phải khôi phục giá
trị của việc quư mến sự trinh
khiết và tôn trọng thiên chức làm mẹ”[31], để
một lần nữa, cổ vơ việc phát
triển các ơn gọi khác nhau và bổ túc
cho nhau trong bối cảnh sống động
của sự hiệp thông và phục vụ cho
sự tăng trưởng không ngừng
của sự hiệp thông này.
4.
CÁC BỆNH NHÂN VÀ NGƯỜI ĐAU KHỔ
Con
người được kêu gọi để
hưởng niềm vui, nhưng, mỗi ngày,
con người lại trải qua rất
nhiều h́nh thức đau khổ và đau
đớn. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng,
trong sứ Điệp kết thúc, đă
gửi tới những người nam và người
nữ đang phải chĩu nhiều h́nh
thức đau khổ và đau đớn
những lời như sau : “Hỡi anh chị
em là những người bị bỏ rơi,
những người bị xă hội tiêu
thụ của chúng ta ruồng rẫy, những
bệnh nhân, những người tàn tật,
những người nghèo, những người
đói, những người di cư, những
người bị lưu đày, những tù nhân,
những người thất nghiệp,
những người lớn tuổi, những
trẻ em bị bỏ rơi, những người
cô độc ; hỡi anh chị em là những
nạn nhân của chiến tranh và của
mọi h́nh thức bạo hành, hậu quả
của xă hội quá tự do của chúng ta :
Giáo Hội chia sẻ nỗi đau khổ
của anh chị em, nỗi đau khổ
đưa anh chị em đến với Chúa,
Đấng liên kết anh chị em với
cuộc Khổ Nạn cứu độ của
Ngài và làm cho anh chi em được sống
trong ánh sáng Cứu Độ của Ngài. chúng
tôi tin cậy vào anh chị em để
giảng dạy cho toàn thế giới biết
t́nh yêu là ǵ. Chúng tôi sẽ làm tất cả
những ǵ có thể để anh chị em t́m
được chỗ đứng mà anh chị
em có quyền có trong xă hội và trong Giáo
Hội”[32].
Trong
bối cảnh một thế giới không biên
giới như thế giới khổ đau
của con người, chúng ta hăy hướng
về tất cả những người đang
mắc phải bệnh tật dưới
nhiều h́nh thức khác nhau : quả thực,
bệnh nhân là sự diễn tả phổ
biến nhất và thông thường nhất
của con người đau khổ.
Lời
kêu gọi của Chúa được gửi
đến mọi người và mỗi người
: các bệnh nhân cũng là những người
được kêu gọi làm thợ trong vườn
nho. Gánh nặng làm cho tứ chi mỏi
mệt, làm cho tâm hồn không c̣n được
thanh thản, nhưng không ngăn cản họ
đi làm việc trong vườn nho, trái
lại, mời gọi họ sống ơn
gọi làm người và làm kitô-hữu
của họ, tham gia vào sự phát triển Nước
Thiên Chúa dưới nhiều thể
thức mới, và thậm chí quư báu hơn.
Những lời của Tông Đồ Phaolô
phải trở thành chương tŕnh của
họ và, trước tiên, chúng là ánh sáng soi
chiếu cho họ thấy ư nghĩa của ân
sủng từ chính t́nh trạng của họ
: "Những gian nan thử thách Đức Kitô
c̣n phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân
cho đủ mức, v́ lợi ích cho thân
thể Người là Hội Thánh" (Cl
1,24). Chính khi khám phá ra điều đó, Thánh
Tông Đồ đă tỏ ra vui mừng : "Giờ
đây, tôi vui mừng được chịu
đau khổ v́ anh em" (Cl 1,24). Tương
tự như thế, nhiều bệnh nhân có
thể trở thành những người người
mang lại “niềm vui do Thánh Thần giữa
bao gian truân” (1 Tx 1,6) và trở nên
chứng nhân cho sự Phục Sinh của Chúa
Giêsu. Một anh em tàn tật đă phát
biểu trong một buổi họp của Thượng-hội-đồng
như sau : “Điều quan trọng là làm sáng
tỏ sự kiện này là : những kitô-hữu
đang sống trong bệnh tật, đau
khổ, già nua, được Thiên Chúa kêu
mời không những để kết hợp
nỗi đau đớn riêng của ḿnh
với cuộc Khổ Nạn của Đức
Kitô, nhưng c̣n để ngay từ bây
giờ đón nhận nơi ḿnh và chuyền
đạt cho người khác sức mạnh
canh tân và niềm vui của Đức Kitô
phục sinh (x. 2 Cr 4,10-11 ; 1 Pr 4,13 ; Rm 8,18 tt.)”[33].
Về
phần ḿnh, như đă nói trong Tông Thư Đau
Khổ cứu độ, Giáo Hội “được
sinh ra từ mầu nhiệm cứu độ
trong Thánh Giá của Đức Kitô, nên có nghĩa
vụ phải t́m gặp con người
một cách đặc biệt trên con đường
đau khổ. trong cuộc gặp gỡ này,
con người ‘trở nên con đường
của Giáo Hội’ và đây là một trong
những con đường quan trọng
nhất”[34]. Con người
đau khổ chính là con đường
của Giáo Hội, bởi v́, trước
hết, đó là con đường của chính
Đức Kitô, là người samaritanô nhân
hậu, đă “không tránh qua một bên mà
đi”, nhưng “động ḷng thương...,
lại gần..., băng bó vết thương...,
săn sóc người ấy” (Lc 10,32-34).
Cộng
đồng Kitô-giáo, từ thế kỷ này
sang thế kỷ khác, giữa vô vàn người
bệnh tật và đau khổ, đă ghi
lại dụ ngôn người Samaritanô nhân
hậu, để mặc khải và thông
truyền t́nh yêu chữa lành và an ủi
của Đức Kitô. điều đó
thực hiện được là nhờ
chứng tá đời sống tu tŕ đă
xả thân phục vụ bệnh nhân, và
nhờ sự dấn thân không mỏi mệt
của tất cả những người chăm
lo các dịch vụ y tế. Ngày nay, ngay cả
trong những bệnh viện và bệnh xá công
giáo, người ta thấy sự hiện
diện của nhiều giáo dân nam – nữ gia
tăng, đôi khi đến độ chỉ
có họ hiện diện và hiện diện hoàn
toàn : chính họ, những bác sĩ, nam nữ
y tá, toàn bộ nhân viên y tế và những người
trợ tá từ tâm, được kêu gọi
để trở thành h́nh ảnh sống động
của Đức Kitô và của Giáo Hội Ngài,
thể hiện t́nh yêu đối với các
bệnh nhân và những người đau
khổ.
- Canh
tân hoạt động mục vụ
Gia
tài rất quư giá đó, mà Giáo Hội
nhận được nơi Đức Giêsu-Kitô,
“vị lương y của thể xác và tâm
hồn”[35],
không được để suy giảm, nhưng
ngày càng phải được làm nổi
bật và phong phú, nhờ một sự
phục hồi và một nhiệt khí mới
trong hoạt động mục vụ dành
cho bệnh nhân và những người đau
khổ cũng như cùng với những người
này. Đó phải là một hoạt động
có khả năng nâng đỡ và cổ vũ
sự chú tâm, hiện diện, lắng nghe,
đối thoại, chia sẻ và giúp đỡ
con người trong mọi lúc mà do bệnh
tật và đau khổ, không những ḷng tin
của họ vào cuộc sống, nhưng
cả ḷng tin của họ vào Thiên Chúa và vào
t́nh yêu phụ tử của Ngài bị thử
thách nặng nề. Sự canh tân mục
vụ thể hiện một cách có ư nghĩa
nhất trong việc cử hành bí tích với và
cho các bệnh nhân, như sức mạnh trong
đau khổ và yếu đuối, như hy
vọng trong thất vọng, như nơi
gặp gỡ và lễ hội.
V́
hoạt động mục vụ được
canh tân và tăng cường đó phải
phối hợp để bao gồm được
tất cả những thành phần trong
cọng đồng giáo hội, nên một trong
những mục tiêu căn bản của
hoạt động đó là coi các bệnh nhân,
những người tàn tật, những người
chịu đau khổ, không chỉ đơn
giản là những người được
hưởng t́nh yêu và sự phục vụ
của Giáo Hội, nhưng c̣n phải coi
họ là chủ thể hoạt động
và có trách nhiệm về công việc phúc-âm-hóa
và về ơn cứu độ.
Trong
viễn tượng đó, Giáo Hội phải
công bố Tin Mừng trong ḷng xă hội và các
văn hóa đang mất cảm thức về
sự đau khổ của nhân loại, nên
đă “hạn chế” những thảo
luận về thực tại này của
cuộc sống. Tin Mừng chính là loan báo
rằng đau khổ có thể có một ư nghĩa
tích cực cho con người và cho chính xă
hội, bởi v́ đau khổ được
hướng tới chỗ trở thành một
h́nh thức tham dự vào nỗi đau khổ
cứu độ của Đức Kitô, vào
niềm vui của Đấng Phục Sinh, và
bởi v́ như vậy, đau khổ chính là
một sức mạnh thánh hóa và xây dựng
Giáo Hội.
Việc
loan báo Tin Mừng này trở nên khả tín khi
nó khôg phải chỉ là một diễn văn
nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng
thể hiện qua chứng tá đời
sống, không phải của những người
chăm lo cức khỏe cho bệnh nhân, cho
những người tàn tật và đau
khổ, mà c̣n của chính những bệnh nhân
đă ư thức hơn và có trách nhiệm hơn
về chỗ đứng và trách vụ của
ḿnh trong Giáo Hội.
Để
cho “văn minh t́nh yêu” có thể đơm bông
kết trái trong thế giới bao la đầy
đau khổ của nhân loại, chúng ta nên
đọc lại và suy gẫm một lần
nữa bức Tông Thư Đau Khổ
Cứu Độ. Ở đây tôi chỉ
nhắc lại phần kết luận : “V́
vậy, tất cả những ai đau khổ
và những ai tin vào Đức Kitô, đặc
biệt những ai đau khổ v́ tin vào Ngài,
Đấng đă chịu đóng đinh và
đă sống lại, cần kết hợp
với nhau bằng tâm trí dưới chân
Thập Giá trên đồi Canvê, để cho
việc dâng hiến những đau khổ
của họ sẽ làm cho lời cầu xin
của chính Đấng Cứu Thế –
lời cầu xin cho mọi người
hiệp nhất – được mau chóng
thực hiện. Ước mong tất cả
những người thiện tâm cũng quy
tụ lại ở đấy, bởi v́ treo trên
Thánh Giá là “Đấng Cứu Chuộc con người”,
là Con Người đau khổ đă mang nơi
ḿnh những đau khổ thể lư và tinh
thần của nhân lọai trong mọi thời
đại, để cho nhân lọai có thể
t́m thấy, trong t́nh yêu, ư nghĩa cứu
độ nơi những đau khổ của
họ và t́m thấy những giải đáp có
cơ sở cho những thắc mắc của
họ. Cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa
Kitô, đă đứng dưới chân Thánh Giá,
chúng ta dừng lại bên tất cả
những thánh giá của con người hôm nay.
chúng ta khẩn cầu các thánh là những người
qua bao thế kỷ đă tham dự đặc
biệt vào những đau khổ của Đức
Kitô. chúng ta cầu xin các ngài nâng đỡ chúng
ta. Và tôi xin tất cả anh chị em,
những người đang đau khổ, giúp
đỡ chúng tôi. Anh chị em là những người
đau yếu, tôi xin anh chị em hăy trở thành
nguồn sức mạnh cho Giáo Hội và cho nhân
lọai. Trong cuộc chiến ghê gớm
giữa hai sức mạnh thiện và ác đang
bày ra trước mắt chúng ta, ước
mong rằng đau khổ của anh chị em,
hiệp với Thánh Giá của Chúa Kitô, sẽ
chiến thắng !”[36].
5.
CÁC BẬC SỐNG VÀ CÁC ƠN GỌI
Tất
cả mọi người thợ làm Vườn
Nho đều là thành phần Dân Chúa : các linh
mục, các tu sĩ nam nữ, các giáo dân,
tất cả vừa là đối tượng
vừa là chủ thể của sự hiệp
thông trong Giáo Hội và của việc tham
dự vào sứ vụ cứu độ
của Giáo Hội. Mọi người và
mỗi người, chúng ta đều làm
việc trong Vườn Nho duy nhất của Chúa,
Vườn Nho chung cho mọi người,
với những đoàn sủng và những tác
vụ khác nhau, bổ túc lẫn nhau.
Ngay
trên b́nh diện hữu thể, c̣n trước
cả b́nh diện hành động, người
kitô-hữu đă là cành nho của một cây
nho sum sê là Đức Kitô ; họ là những
chi thể sống động của Thân
Thể duy nhất của Chúa, được xây
dựng trong sức mạnh Chúa Thánh Thần. Nói
trên b́nh hiện hữu thể không chỉ có
nghĩa là nhờ ở đời sống ân
sủng và thánh thiện, là nguồn mạch
đầu tiên và sung măn của Mẹ Thánh Giáo
Hội ; nhưng điều đó c̣n có nghĩa
là nhờ vào sự thánh thiện của đời
sống làm rơ nét đặc tính của các
linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ,
thành viên các tu hội đời và giáo dân.
Trong
Giáo Hội – Hiệp Thông, các bậc sống
kết hợp chặt chẽ với nhau đến
độ bậc này hướng về bậc
kia. Ư nghĩa sâu xa của các bậc sống
chỉ là một, nó là ư nghĩa độc
nhất cho mọi bậc sống, tức là : một
cách sống b́nh đẳng về phẩm giá
kitô-hữu và sống ơn gọi phổ quát
phải nên thánh trong đức ái trọn
hảo. Các thể thức vừa khác
nhau vừa bổ túc cho nhau, đến
nỗi mỗi thể thức có diện
mạo độc đáo của ḿnh, không
thể lẫn lộn, đồng thời có tương
quan với những thể thức khác và
phục vụ chúng.
Như
thế, bậc sống của giáo dân có
một nét riêng biệt là tính cách trần
thế. Bậc sống này thực hiện
một dịch vụ thuộc Giáo Hội, qua
việc chứng thực và nhắc lại, theo
cách của ḿnh, cho các linh mục và tu sĩ
nam nữ, ư nghĩa của các thực tại
trần thế và tạm thời trong chương
tŕnh cứu độ của Thiên Chúa. Về
phần ḿnh, chức linh mục thừa tác thường
xuyên bảo đảm sự hiện diện bí
tích của Đức Kitô Cứu Chuộc qua
mọi thời và mọi nơi. Bậc tu
sĩ làm chứng cho đặc tính cánh
chung của Giáo Hội, hoặc nói cách khác, làm
chứng cho việc Giáo Hội hướng
về Nước Thiên Chúa, được tiên
trưng và, một cách nào đó, được
thể hiện trước, thưởng
nếm trước, nhờ các lời khấn
khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục.
Tất
cả mọi bậc sống, trong toàn bộ cũng
như trong tương quan giữa bậc này
với bậc kia, đều phục vụ cho
sự tăng trưởng của Giáo Hội.
Đó là những thể thức sống khác
nhau, được liên kết sâu xa với
nhau trong “mầu nhiệm hiệp thông”
của Giáo Hội và phối hợp với
nhau với một sự năng động sâu
xa trong sứ vụ duy nhất của Giáo
Hội.
Theo
cách đó, mầu nhiệm độc nhất
và đồng nhất của Giáo Hội bày
tỏ và làm sống lại sự phong phú
vô tận của mầu nhiệm Đức Kitô trong
những bậc sống và những ơn
gọi khác nhau. Như các Giáo Phụ thích
lặp đi lặp lại, Giáo Hội
giống như một cánh đồng, ở
đó người ta gặp thấy vô số
cỏ cây hoa trái kỳ diệu và quyến rũ.
Thánh Ambrôsiô viết : “Một cánh đồng
th́ trổ sinh nhiều hoa trái, nhưng cánh
đồng nào có nhiều hoa trái là tốt
nhất. Cánh đồng Giáo Hội có rất
nhiều hoa và trái. Ở đây, anh chị em có
thể gặp thấy cây đồng trinh
bắt đầu trổ hoa ; ở kia, cây góa
phụ biểu lộ sự khắc khổ như
những khu rừng trong đồng bằng ; nơi
khác là mùa màng phong phú từ cây hôn nhân,
được Giáo Hội chúc lành, đang
chất đầy những kho lẫm bao la
của thế giới nhờ bội thu, và máy
ép nho của Chúa Giêsu đang đầy ắp
trái từ vườn nho tươi nở,
những trái đó là sự phong phú của các
hôn nhân Kitô-giáo”[37].
- Các
ơn gọi khác nhau của giáo dân
Sau
cùng, sự đa dạng phong phú của Giáo
Hội c̣n thể hiện ở ngay trong mỗi
bậc sống. Như vậy, trong bậc
sống giáo dân cũng có nhiều “ơn
gọi” khác nhau, nói cách khác, có nhiều
con đường thiêng liêng và tông đồ
khác nhau liên quan đến từng giáo dân.
Trong ḷng một ơn gọi “chung” của giáo
dân, nảy sinh nhiều ơn gọi “riêng”
của giáo dân. Về vấn đề này, chúng
ta có thể đề cập ở đây kinh
nghiệm thiêng liêng mà thời gian gần đây
đă trở nên chín muồi trong Giáo Hội và
đă làm nở rộ những h́nh thức Tu
Hội đời khác nhau : người giáo dân,
và cả các linh mục nữa, có thể
thực hành các lời khuyên phúc âm – nghèo khó,
khiết tịnh và vâng phục – bằng
lời khấn hoặc lời hứa mà
vẫn giữ trọn vẹn điều
kiện sống riêng của ḿnh là giáo dân hay
giáo sĩ.[38]Như
các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă ghi nhận : “Thánh Thần vẫn
tiếp tục khơi dậy những h́nh
thức tận hiến khác dành cho những người
vẫn hoàn toàn sống đời sống giáo
dân”[39].
Chúng
ta có thể kết luận bằng cách đọc
lại một trang tuyệt đẹp của
thánh Phanxicô Salê, người đă cổ vơ
rất nhiều cho linh đạo giáo dân.[40] Khi
nói về “ḷng đạo đức” nghĩa
là về sự trọn lành Kitô-giáo hay “đời
sống theo Thần Khí”, thánh nhân đă tŕnh
bày một cách đơn giản và sáng
sủa ơn gọi nên thánh của mọi người
kitô-hữu, cũng như về h́nh thức riêng
biệt để họ thực thi ơn
gọi đó : “Khi sáng tạo, Thiên Chúa đă
truyền cho cây cối phải sinh hoa trái, cây
nào theo giống ấy” (x. St 1,11) ; như
vậy, Ngài đă truyền cho các kitô-hữu
là những cây sống của Giáo Hội
phải trổ sinh hoa trái đạo đức,
mỗi người theo phẩm chất và ơn
gọi của ḿnh. Ḷng đạo đức
phải được người quư phái,
thợ thủ công, người giúp bàn, ông hoàng,
bà góa, cô gái, phụ nữ có gia đ́nh ...,
mỗi người thi hành mỗi cách khác nhau
; không chỉ vậy mà thôi, mà c̣n phải thích
ứng việc thực hành ḷng đạo
đức với sức lực, công ăn
việc làm và nhiệm vụ của riêng
mỗi người ... Thực là sai lầm,
thậm chí là lạc đạo, khi muốn
loại trừ ḷng đạo đức ra
khỏi doanh trại quân đội, khỏi
cửa hàng của các thợ thủ công,
khỏi cung đ́nh vua chúa, khỏi căn nhà
của những người sống đời
hôn nhân. Hỡi Philôthê, đúng là ḷng đạo
đức thuần túy chiêm niệm, đan sĩ
và tu tŕ, không thể thực hiện được
trong những ơn gọi đó ; nhưng, ngoài
ba lọai đạo đức đó, c̣n có
nhiều lọai khác, thích hợp với
sự trọn lành của những người
sống giữa trần thế... Dù ở đâu,
chúng ta vẫn có thể và phải khát khao
đời sống trọn hảo”[41].
Trong
cùng đường hướng đó, Công
Đồng Vatican II đă viết : “Nguyện
lư đời sống thiêng liêng của mỗi
người giáo dân phải mang sắc thái
đặc biệt tùy theo bậc sống :
đời sống hôn nhân và gia đ́nh, đời
sống độc thân và góa bụa, trong t́nh
trạng đau yếu, tùy sinh hoạt nghề
nghiệp và xă hội. Vậy mỗi người
phải phát triển không ngừng những
đức tính và ân huệ ban cho ḿnh, đặc
biệt những đức tính và ân huệ thích
ứng với hoàn cảnh của đời
sống ḿnh, và biết lợi dụng
những ân huệ Chúa Thánh Thần ban riêng”[42].
Điều
có giá trị đối với các ơn
gọi thiêng liêng th́ cũng có giá trị, theo
một nghĩa nào đó c̣n có lư hơn
nữa, đối với vô số các thể
thức khác nhau để mọi phần
tử của Giáo Hội và mỗi phần
tử trong số đó trở nên những người
thợ làm việc trong Vườn Nho của Chúa,
xây dựng Thân Thề huyền nhiệm
của Đức Kitô. quả thực, mỗi
người được gọi đích danh,
trong tính cách độc nhất của lịch
sử cá nhân ḿnh, để góp phần riêng
của ḿnh cho ngày Nước Thiên Chúa hoàn thành.
Không một tài năng nào, dù bé nhỏ
nhất, lại có thể bị giấu kín và
không được sử dụng (x. Mt
25,24-27).
Tông
đồ Phêrô gửi đến chúng ta
lời cảnh báo này : “Ơn riêng Thiên Chúa
đă ban, mỗi người trong anh em phải
dùng mà phục vụ người khác. như
vậy anh em mới là những người khéo
quản lư ân huệ thiên h́nh vạn trạng
của Thiên Chúa” (1
Pr 4,10).
Tới
đầu trang
<<< === >>> Về
mục lục
[1] Th.
GRÊGÔRIÔ CẢ, Bài giảng về Tin
Mừng I, XIX, 2
[2] CĐ
Vatican II, Tuyên ngôn về Giáo Dục Kitô-giáo,
s. 2
[3] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Thư gửi Giới Trẻ
toàn thế giới, nhân dịp Năm quốc
tế Giới Trẻ, s. 15
[4] Đề
nghị 52
[5] Đề
nghị 51
[6] CĐ
Vatican II, Sứ điệp gửi “Giới
Trẻ” (08/12/1965)
[7] CĐ
Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 48
[8] JEAN
GERSON, De parvulis ad Christum trahendis
[9] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Diễn từ đọc trước
các nhóm Người Cao Tuổi của các Giáo
phận Italia (23/3/1984)
[10] Đức
GIOAN XXIII, Thông điệp Ḥa b́nh trên trái
đất
[11] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về Gia Đ́nh,
s. 24
[12] Đề
nghị 46
[13] Đề
nghị 47
[14] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 9
[15] Đức
PHAOLÔ VI, Diễn từ đọc trước
Ủy Ban về Năm Quốc tế Phụ
Nữ (18/4/1975)
[16] Đề
nghị 46
[17] Đề
nghị 47
[18] nt.
[19] CĐ
Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 10
[20] Sau
khi nhắc lại chiều kích Thánh Mẫu
của đời sống Kitô-giáo mang một
sắc thái đặc biệt đối
với người phụ nữ và cảnh
sống của họ, Thông điệp Mẹ
Đấng Cứu Thế viết : “Thực
vậy, nữ tính đặc biệt liên
kết với Thân Mẫu Đấng Cứu
Thế. Đây là một đề tài chúng ta
sẽ có thể đào sâu vào một dịp
khác. Ở đây, tôi chỉ muốn nhấnn
mạnh điều này là dung mạo của
Đức Maria làng Nadarét soi sáng cho chính thân
phận người nữ qua việc Thiên Chúa,
trong biến cố nhập thể cao cả
của Con Ngài, đă tín nhiệm vào sự
phục vụ tự do và chủ động
của một người phụ nữ. Như
thế, người ta có thể quả
quyết rằng người phụ nữ khi hướng
về Đức Maria, t́m thấy nơi Mẹ
bí quyết để sống xứng đáng
nữ tính của ḿnh, và thực thi sự thăng
tiến đích thực của ḿnh. Dưới
ánh sáng của Đức Maria, Giáo Hội khám
phá ra nơi dung mạo của người
phụ nữ những nét phản chiếu
một vẻ đẹp như tấm gương
dọi lại những tấm h́nh cao đẹp
nhất mà tâm hồn con người có thê có
: đó là việc hoàn toàn hiến thân v́ t́nh
yêu ; đó là sức mạnh chịu đựng
những đau khổ lớn lao nhất ; đó
là trung tín vô hạn và sức hoạt động
không mệt mỏi ; là khả năng hài ḥa
trực giác sâu sắc ới lời nói nâng
đỡ và khích lệ” (Đức GIOAN-PHAOLÔ
II, Thông điệp Mẹ Đấng
Cứu Thế, Redemptoris Mater (25/3/1987),
s. 46
[21] Đ71c
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông thư Mulieris dignitatem, về phẩm
giá và ơn gọi phụ nữ (15/8/1988,
s. 16
[22] x.
Thánh Bộ Giáo Lư Đức Tin, Tuyền ngôn về
vấn đề phụ nữ lănh nhận
chức tư tế thừa tác (15/10/1976)
[23] x.
Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Thư về
phẩm giá và ơn gọi phụ nữ, s.
26
[24] nt.,
27 ; “Giáo Hội là một thân thể có
sự phân biệt, trong đó mỗi thành
phần có nhiệm vụ của ḿnh : các trách
vụ được minh định rơ ràng và
không được lẫn lộn. Các trách
vụ đó không có nghĩa là thành phần này
đứng trên thành phần kh1c : chúng không
tạo nên một lư do nào để ganh tỵ
nhau. Đoàn sủng duy nhất mà người
ta có thể mong ước, đó là đức
ái (x. 1 Cr 12–13). Những người lớn
nhất trong Nước Trời không phải là
các thừa tác viên, nhưng là các vị thánh”
(TB. Giáo Lư Đức Tin, Tuyên ngôn về
vấn đề phụ nữ lănh chức tư
tế thừa tác)
[25] Đức
PHAOLÔ VI, Diễn từ đọc trước
Ủy Ban về Năm Quốc tế Phụ
Nữ (18/4/1975)
[26] Đề
nghị 47
[27] nt.
[28] CĐ
Vatican II, Hiến chế tín lư về Giáo
Hội, s. 36
[29] Đức
GIOAN-PHAOLÔ, Tông Huấn về Gia Đ́nh,
s. 50
[30] Đề
nghị 46
[31] Đề
nghị 47
[32] THĐGM
khóa VII (1987), Sứ điệp gửi dân
Chúa
[33] Đề
nghị 53
[34] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Thư Đau Khổ
Cứu Độ, Salvifici doloris (11/02/1984),
s. 3
[35] Thánh
INHAXIÔ thành Antiôkia, Gửi người Eâphêsô VII,
2
[36] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Thư Đau Khổ
Cứu Độ, s. 31
[37] Thánh
AMBRÔSIÔ, Về đức đồng
trinh VI, 34 ; x. Thánh AUGUSTINÔ, Bài
giảng CCCIV, III, 2
[38] x.
Đức PIÔ XII, Tông Hiến Provida Mater (02/02/1947)
; Giáo Luật can. 573
[39] Đề
nghị 6
[40] x.
Đức PHAOLÔ VI, Tông Thư Sabaudiae
gemma (29/01/1967)
[41] Thánh
PHANXICÔ SALÊ, Dẫn vào đời
sống trọn lành
[42] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 4
|
undefined
Your +mention will add
people to this discussion and send an email.
Making sure people you
mentioned have access…
The assigned person will
be notified and responsible for marking as done.
Cancel
|
red By
Chương V
CHƯƠNG NĂM
ĐỂ ANH
EM SINH NHIỀU HOA TRÁI
Việc
huấn luyện giáo dân luôn đạt đến
sự trưởng thành hơn
o
PHẢI
LUÔN LUÔN TRƯỞNG THÀNH
o
KHÁM
PHÁ VÀ SỐNG ƠN GỌI CŨNG NHƯ
SỨ VỤ CÁ NHÂN CỦA M̀NH
o
HUẤN
LUYỆN TOÀN VẸN ĐỂ CÓ MỘT ĐỜI
SỐNG THỐNG NHẤT
o
Các
khía cạnh của việc huấn luyện
o
NHỮNG
CỘNG TÁC VIÊN CỦA THIÊN CHÚA, NHÀ GIÁO
DỤC
o
Các
môi trường giáo dục
o
MỌI
NGƯỜI HUẤN LUYỆN LẪN NHAU
o
KÊU
MỜI VÀ CẦU NGUYỆN
1.
PHẢI LUÔN LUÔN TRƯỞNG THÀNH
H́nh
ảnh trong Tin Mừng về cây nho và các cành
nho cho chúng ta thấy một khía cạnh
nền tảng khác trong đời sống và
sứ vụ của giáo dân : lời kêu
gọi phải lớn lên, không ngừng trưởng
thành, và luôn luôn sinh hoa trái nhiều hơn.
Giống
như một người làm vườn nho
chuyên cần, Chúa Cha chăm sóc vườn nho
của Ngài. dân Israel đă tha thiết khẩn
cầu Thiên Chúa mau đến bằng lời
kinh này : "Lạy Chúa Tể càn khôn, xin
trở lại ! Tự cơi trời, xin ngó
xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho
cũ : bảo vệ cây tay hữu Chúa đă
trồng, và chồi non được Ngài ban
sức mạnh" (Tv 80,15-16). C̣n Đức
Giêsu th́ nói : "Thầy là cây nho thật, và
Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào
gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái,
th́ Người chặt đi ; c̣n cành nào sinh
hoa trái, th́ Người cắt tỉa cho nó
sinh nhiều hoa trái hơn" (Ga 15,1-2).
Sức
sống của cành tùy thuộc vào sự
gắn liền với cây là Đức Giêsu-Kitô
: "Ai ở lại trong Thầy và Thầy
ở lại trong người ấy, th́ người
ấy sinh nhiều hoa trái, v́ không có
Thầy, anh em chẳng làm ǵ được" (Ga
15,5).
Con
người được Thiên Chúa mời
gọi trong sự tự do của ḿnh, để
lớn lên, trưởng thành và sinh hoa trái. Con
người không thể không trả lời, không
thể không đảm nhận trách nhiệm.
Những lời của Đức Giêsu ám
chỉ đến trách nhiệm vừa đáng
sợ, vừa làm phấn khởi : "Ai không
ở lại trong Thầy, th́ bị quăng ra
ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người
ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy
đi" (Ga 15,6).
Chính
trong cuộc đối thoại này giữa Thiên
Chúa kêu gọi và con người được
gọi trong ư thức trách nhiệm của ḿnh,
mà người ta thấy có thể và thậm
chí cần thiết phải có một sự
huấn luyện toàn vẹn và thường xuyên
cho người giáo dân. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă có lư khi dành một phần lớn công
việc của ḿnh cho điều đó. Đặc
biệt, sau khi diễn tả việc huấn
luyện người giáo dân như “một
tiến tŕnh trưởng thành liên tục
của cá nhân trong đức tin và là một
tiến tŕnh nên giống Đức Kitô, theo ư
muốn của Chúa Cha, dưới sự hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần”, các ngài xác
quyết rơ ràng : “Việc huấn luyện giáo
dân phải nằm trong số những
ưu tiên của giáo phận và phải
có chỗ đứng trong chương tŕnh
hoạt động mục vụ, sao cho
mọi cố gắng của cộng đồng
(các linh mục, giáo dân, tu sĩ) đều quy
hướng về mục đích này”[1].
2.
KHÁM PHÁ VÀ SỐNG ƠN GỌI CŨNG NHƯ
SỨ VỤ CÁ NHÂN CỦA M̀NH
Thiên
Chúa gọi tôi và Ngài sai tôi như người
thợ vào vườn nho của Ngài ; Thiên Chúa
gọi tôi và Ngài sai tôi đi làm việc cho Vương
Quyền Ngài hoàn thành trong lịch sử :
ơn gọi và sứ vụ cá nhân đó xác
định phẩm giá và trách nhiệm của
từng người giáo dân, nó cũng là
đường nét chủ lực của toàn
bộ công tŕnh huấn luyện. Công tŕnh này
có mục đích giúp người giáo dân
nhận ra phẩm giá ấy trong niềm hoan
lạc và tri ân, giúp họ đương
đầu với trách nhiệm ấy một cách
trung tín và quảng đại.
Quả
thật, Thiên Chúa đă nghĩ đến chúng
ta từ đời đời và Ngài đă yêu
thương chúng ta như những nhân vị
duy nhất và không thể thay thế, gọi
mỗi người chúng ta bằng tên riêng
của ḿnh, như người Mục Tử
Tốt Lành “gọi tên từng con chiên
một” (Ga 10,3). Tuy nhiên, chương tŕnh
vĩnh cửu của Thiên Chúa chỉ
được mặc khải cho mỗi người
chúng ta trong tiến tŕnh lịch sử của
đời ta và của những thăng
trầm của ta. Do đó, đây là một
mặc khải tiệm tiến : theo một nghĩa
nào đó, là mặc khải ngày qua ngày.
Thế
mà, để có thể khám phá ra ư định
cụ thể của Chúa về đời
sống chúng ta, cần phải có các điều
kiện : mau mắn và ngoan ngơan lắng nghe
Lời Chúa, trung thành và kiêm tâm cầu
nguyện, tiếp xúc với vị hướng
dẫn thiêng liêng khôn ngoan và từ ái, nh́n ra,
trong niềm tin, những ân điển và
những tài năng ḿnh đă nhận
được, đồng thời cũng nh́n
ra những hoàn cảnh xă hội và lịch
sử khác nhau mà ḿnh đang sống.
Ngoài
ra, trong cuộc sống của mỗi người
giáo dân, c̣n có những thời điểm
đặc biệt có ư nghĩa và có tính cách
quyết định để biện phân
lời mời gọi của Chúa và đón
nhận sứ vụ Ngài giao phó : trong số
đó, có thời thiếu niên và thời
tuổi trẻ. Tuy thế, đừng ai quên
rằng Chúa, như người chủ vườn
trong dụ ngôn, kêu gọi vào mọi lúc trong
cuộc đời, kêu gọi hiểu theo nghĩa
Ngài tỏ cho biết thánh ư của Ngài
một cách cụ thể và chính xác ; đó là
lư do v́ sao tỉnh thức, hiểu theo nghĩa
ân cần chăm chú nghe tiếng Chúa, là thái
độ nền tảng và kiên tŕ của người
môn đệ.
Dù
sao đi nữa, đây không chỉ là biết điều
Thiên Chúa muốn nơi ta, nơi mỗi người
chúng ta, trong những hoàn cảnh khác nhau
của đời sống. C̣n phải làm điều
Thiên Chúa muốn ; lời Đức Maria,
Mẹ Thiên Chúa, nói với các gia nhân ở
Cana , nhắc nhớ cho chúng ta điều đó
: “Người bảo ǵ các anh cứ việc
làm theo” (Ga 2,5).
Để
hành động với tất cả ḷng trung tín
theo ư định của Thiên Chúa, người
môn đệ cần phải có khả năng và
làm cho ḿnh ngày càng có khả năng hơn.
Chắc chắn phải có ân sủng của Chúa
; ân sủng này không bao giờ thiếu, như
thánh Lêô Cả đă nói : “Đấng đă
ban cho anh phẩm giá, sẽ ban cho anh sức
mạnh !”[2]. Nhưng
cũng phải có sự cộng tác tự do và
có trách nhiệm của mỗi người chúng
ta.
Đó
là trách vụ diệu kỳ và lôi cuốn
vẫn luôn chờ đợi mỗi giáo dân,
mọi kitô-hữu : luôn nhận biết hơn
nữa nguồn phong phú của đức tin,
của bí tích Thánh Tẩy và sống những
sự phong phú đó trong sự sung măn không
ngừng gia tăng, như lời thánh tông
đồ Phêrô khuyên nhủ chúng ta, khi ngài nói
về sự sinh ra và lớn lên như hai giai
đoạn trong đời sống kitô-hữu
: "Như trẻ sơ sinh, anh em hăy khao khát
sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó
anh em sẽ lớn lên để hưởng
ơn cứu độ" (1 Pr 2,2).
3.
HUẤN LUYỆN TOÀN VẸN ĐỂ CÓ
MỘT ĐỜI SỐNG THỐNG NHẤT
Đối
với người giáo dân, việc khám phá và
thực hiện ơn gọi và sứ mạng
cá nhân đ̣i họ phải được
huấn luyện để có một cuộc
sống thống nhất, là nét ghi
dấu nơi chính hữu thể của
họ, với tư cách là những chi
thể của Giáo Hội và là công dân của
xă hội nhân loại.
Trong
cuộc sống của họ, có hai đời
sống song song : một bên là đời
sống gọi là “thiêng liêng” với
những giá trị và những đ̣i hỏi
riêng ; và bên kia là đời sống
“trần thế”, nghĩa là đời
sống gia đ́nh, nghề nghiệp, những
tương quan xă hội, sự tham gia chính
trị, các hoạt động văn hóa. Cành
nho nào được ghép vào cây nho là Đức
Kitô sẽ trổ sinh hoa trái trong mọi lănh
vực của hoạt động và của
cuộc sống. Thực vậy, mọi lănh
vực của đời sống giáo dân đều
nằm trong ư định của Thiên Chúa,
Đấng muốn những lănh vực đó
là “môi trường lịch sử” để
đức ái của Đức Giêsu-Kitô
được mặc khải và thực thi,
nhằm vinh quang Chúa Cha và phục vụ các anh
em. mọi hoạt động, mọi t́nh
huống, mọi dấn thân cụ thể –
chẳng hạn như khả năng chuyên môn
và sự liên đới trong công việc,
sự yêu thương và tận tụy trong gia
đ́nh cũng như việc giáo dục con cái,
dịch vụ xă hội và chính trị,
việc tŕnh bày chân lư trong lănh vực văn
hóa – tất cả những điều đó
là cơ hội được Thiên Chúa quan pḥng
để “không ngừng thực thi đức
tin, đức cậy và đức mến”[3].
Công
Đồng Vatican II đă kêu gọi mọi người
giáo dân hướng tới sự
thống nhất đời sống này
khi Công Đồng mạnh mẽ tố giác tính
cách trầm trọng của sự phân cách
giữa đức tin và đời sống,
giữa Tin Mừng và Văn Hóa : “Công Đồng
khuyến khích các kitô-hữu, công dân của
cả hai đô thị, hăy nỗ lực chu toàn
những bổn phận trần thế của
họ, và chu toàn dưới sự hướng
dẫn của tinh thần Phúc Âm. Thực sai
lầm cho những ai biết rằng chúng ta không
có một quê hương trường tồn
ở trần thế, nhưng phải kiếm t́m
một quê hương hậu lai, mà lại tưởng
rằng ḿnh có thể xao lăng các bổn
phận trần gian, như thế là không
nhận thấy chính đức tin buộc
phải chu ṭan các bổn phận đó hoàn
hảo hơn, mỗi người tùy theo ơn
gọi của ḿnh. Ngược lại, cũng
sai lầm không kém đối với những
ai nghĩ rằng có thể dấn thân hoàn toàn
vào các sinh hoạt trần thế như
thể các sinh hoạt ấy hoàn toàn xa lạ
với đời sống tôn giáo, v́ cho
rằng đời sống tôn giáo chỉ
hệ tại những hành vi phụng tự và
một vài bổn phận luân lư phải chu toàn
. sự phân ly giữa đức tin mà họ
tuyên xưng và cuộc sống thường
nhật của nhiều người phải
kể vào số những sai lầm trầm
trọng nhất của thời đại chúng
ta”[4].
Đó
là lư do v́ sao tôi đă khẳng định
rằng một đức tin mà không trở thành
văn hóa là một đức tin “không
được đón nhận trọn vẹn,
không được suy nghĩ thấu đáo,
và không được sống một cách trung
tín”[5].
- Các
khía cạnh của việc huấn luyện
Nhiều
khía cạnh phối hợp với nhau của
việc huấn luyện toàn vẹn người
giáo dân được lồng vào trong một
tổng hợp đời sống như
vậy.
Chắc
chắn việc huấn luyện thiêng liêng phải
chiếm một vị trí ưu đăi trong
đời sống của mỗi người,
bởi v́ mỗi người được kêu
gọi để không ngừng lớn lên trong
t́nh thân mật với Đức Giêsu-Kitô,
trong sự ḥa hợp với ư muốn của
Chúa Cha, trong sự tận tụy cho các anh em,
trong bác ái và sự công b́nh. Công Đồng nói
: “Đời sống kết hiệp mật
thiết với Chúa Kitô trong Giáo Hội
được nuôi dưỡng bằng sự
phù giúp thiêng liêng chung cho mọi tín hữu,
nhất là bằng việc tham dự tích
cực và Phụng Vụ thánh. Người giáo
dân phải làm thế nào để nhờ
những phương tiện ấy mà chu toàn
nhiệm vụ trần thế trong những hoàn
cảnh thường xuyên của cuộc
sống mà vẫn không tách khỏi đời
sống ḿnh sự kết hiệp với Chúa
Kitô, nhưng càng kết hiệp mật
thiết hơn khi thi hành công việc của ḿnh
theo ư Thiên Chúa”[6].
Ngày
nay, việc huấn luyện đạo lư cho
các tín hữu mỗi ngày một khẩn
thiết hơn, không những v́ sự năng
động tự nhiên thúc đẩy việc
đào sâu đức tin, nhưng c̣n v́ nhu
cầu “chứng thực niềm hy vọng”
nơi họ trước một thế
giới cũng như trước những
vấn đề nghiêm trọng và phức
tạp của thế giới. Do đó, một
hoạt động huấn giáo có
hệ thống, thích hợp với lứa
tuổi và với những hoàn cảnh khác nhau
của cuộc sống, một sự thăng
tiến văn hóa theo tinh thần
Kitô-giáo cách cương quyết hơn,
được coi là tuyệt đối
cần thiết, để có thể trả
lời cho những vấn đề muôn
thuở cũng như những vấn đề
mới đang làm cho con người và vũ
trụ hiện nay giao động.
Đặc
biệt, một điều không thể
thiếu được, là người giáo dân,
nhất là những người tham gia nhiều
cách khác nhau vào lănh vực xă hội hoặc
chính trị, cần phải hiểu biết chính
xác hơn về học thuyết xă
hội của Giáo Hội, như các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă nhiều lần đ̣i hỏi trong các phát
biểu của ḿnh. Khi nói tới việc tham
gia của giáo dân vào chính trị, Thượng-hội-đồng
đă diễn tả như sau : “Để người
giáo dân có thể tích cực thực hiện
dự phóng cao quư này trong lănh vực chính
trị (tức là dự phóng làm cho người
ta nh́n nhận và quư trọng các giá trị nhân
bản và Kitô-giáo), chỉ khuyến khích mà thôi
th́ không đủ, cần phải trao cho
họ những phương tiện cần
thiết để đào tạo lương tâm
xă hội của họ, đặc biệt
dựa vào học thuyết xă hội của Giáo
Hội, là học thuyết bao gồm những
nguyên tắc suy tư, những tiêu chuẩn phán
đoán và những chỉ dẫn hành động (x.
TB. Giáo Lư Đức Tin, “Huấn thị
về Tự Do Kitô-giáo và giải phóng”, 72).
Học thuyết này phải được
đưa vào trong chương tŕnh huấn giáo
cơ bản và phải được giải
thích trong những khóa chuyên biệt cũng như
trong các trường học và đại
học. Cũng nên ghi nhận rằng học
thuyết xă hội của Giáo Hội có tính năng
động, nghĩa là nó thích ứng với
hoàn cảnh không gian và thời gian. Các vị
chủ chăn có quyền và nghĩa vụ
đề ra những nguyên tắc lyuân lư
thuộc lănh vực xă hội cũng như
những lănh vực khác ; mọi kitô-hữu
phải sẵn sàng bảo vệ các quyền
con người ; tuy nhiên, việc dấn thân tích
cực trong các đảng phái chính trị
được dành cho người giáo dân”[7].
Trong
bối cảnh của việc huấn luyện
giáo dân cách toàn vẹn và thống nhất,
phải lưu tâm tài bồi các giá trị nhân
bản ; đó là điều quan trọng trong
công tác truyền giáo và tông đồ. Chính
trong chiều hướng này, Công Đồng
đă viết : “(Giáo dân) nên quư trọng chuyên
môn nghề nghiệp, ư nghĩa gia đ́nh và công
công dân, cũng như những đức tính
liên quan tới đời sống xă hội
chẳng hạn sự lương thiện, tinh
thần công b́nh, ḷng thành thực, sự
tế nhị, ḷng quả cảm ; không có
những đức tính đó, không thể có
đời sống kitô-hữu đích
thực”[8].
4.
NHỮNG CỘNG TÁC VIÊN CỦA THIÊN CHÚA, NHÀ
GIÁO DỤC
Huấn
luyện các tín hữu ở đâu và bằng
những phương tiện nào ? Những
ai và những cộng đồng nào
được kêu gọi để chu toàn
nhiệm vụ huấn luyện giáo dân cách toàn
vẹn và thống nhất ?
Cũng
như công tŕnh giáo dục con người liên
kết sâu xa với thiên chức làm cha làm
mẹ, việc huấn luyện Kitô-giáo
bắt nguồn và nhận được
sức mạnh từ Thiên Chúa ; Ngài là người
Cha yêu thương và giáo dục con cái. Phải,
Thiên Chúa là nhà giáo dục đầu tiên và
cao cả của Dân Ngài, như đoạn
văn tuyệt vời trong bài ca của Môsê
đă viết : "Gặp thấy nó giữa
miền hoang địa, giữa
cảnh hỗn mang đầy tiếng hú
rợn rùng, Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng
dục, luôn giữ ǵn, chẳng khác nào con ngươi
mắt Chúa. Tựa chim bằng trên tổ lượn
quanh, giục bầy con bay nhảy, xoè
cánh ra đỡ lấy rồi cơng con trên ḿnh.
Duy một ḿnh Đức Chúa lănh đạo dân
; chẳng có thần ngoại bang nào bên
cạnh Chúa" (Dnl 32,10-12 ; x. 8,5).
Công
tŕnh giáo dục của Thiên Chúa được
bày tỏ và hoàn tất nơi Đức Giêsu
là Thầy, và tác động từ bên trong tâm
hồn con người nhờ sự hiện
diện năng động của Thánh
Thần. Giáo Hội – hiền mẫu được
kêu gọi để cộng tác vào công tŕnh
giáo dục này của Thiên Chúa, trong chính
bản thân Giáo Hội cũng như trong
những phát biểu và diễn đạt khác
nhau của ḿnh. Chính như thế mà người
giáo dân được huấn luyện nhờ
Giáo Hội và trong Giáo Hội, trong
sự hiệp thông và cộng tác hỗ tương
giữa mọi thành phần của Giáo Hội
là linh mục, tu sĩ và giáo dân. Chính như
thế mà toàn thể cộng đồng Giáo
Hội, trong các chi thể khác nhau của ḿnh,
đă nhận được sự phong phú
của Thánh Thần và góp phần cộng tác
vào đó, thánh Mêthôđô Olympia đă
viết : “Những người bất toàn ...
được cưu mang và thành h́nh, giống
như trong ḷng một người mẹ,
nhờ những người hoàn hảo hơn,
để họ cũng được cưu
mang và sinh ra do sự cao cả và vẻ đẹp
của nhân đức”[9] ;
đó là điều đă xảy ra cho Thánh
Phaolô, người đă được cưu
mang và được đưa vào Giáo Hội
nhờ những kitô-hữu đă được
đào tạo (qua ông Anania), để rồi
đến lượt ngài, ngài cũng trở
nên hoàn hảo và làm cha thiêng liêng của
biết bao con cái !
Công
tŕnh giáo dục trước hết là việc
của Giáo Hội toàn cầu ;
đức Giáo Hoàng giữ vai tṛ nhà giáo
dục đầu tiên của giáo dân. Là người
kế vị Thánh Phêrô, ngài có tác vụ
“củng cố anh em ḿnh trong đức tin”
bằng cách giảng dạy cho mọi tín
hữu những yếu tố thiết yếu
trong ơn gọi cũng như sứ vụ Kitô-giáo
và Giáo Hội. Không chỉ những lời do
chính ngài nói, nhưng cả những ǵ
được chuyển đạt trong các văn
kiện của các Cơ Quan khác nhau của Ṭa
Thánh đều phải được giáo dân
lắng nghe với ḷng tuân phục yêu mến.
Giáo
Hội Duy Nhất và phổ quát cũng
hiện diện trong mỗi phần khác nhau
của thế giới, trong các Giáo Hội
địa phương. Tại mỗi Giáo
Hội địa phương, Giám Mục có
một trách nhiệm cá nhân đối với
giáo dân ; ngài phải huấn luyện họ
bằng việc loan báo Lời Chúa, cử hành
phụng vụ Thánh Thể và các bí tích, làm
sinh động và hướng dẫn đời
sống kitô-hữu của họ.
Trong
ḷng Giáo Hội địa phương hoặc
giáo phận, có sự hiện diện và
hoạt động của giáo xứ.
Giáo xứ giữ một vai tṛ thiết
yếu trong việc huấn luyện giáo dân cách
trực tiếp và cá nhân hơn. Thực
vậy, giáo xứ có điều kiện
dễ dàng để đến với riêng
từng người và từng nhóm, nên
được kêu gọi đào tạo các
phần tử của ḿnh biết lắng nghe
Lời Chúa, biết đối thoại với
Chúa trong cử hành phụng vụ cũng như
cầu nguyện riêng, biết sống bác ái
huynh đệ, và làm cho họ thấy
được, một cách trực tiếp và
cụ thể hơn, ư nghĩa của sự
hiệp thông giáo hội và của trách
nhiệm truyền giáo.
Trong
ḷng một số giáo xứ, nhất là các giáo
xứ rộng lớn và phân tán, sự
hiện diện của những cộng
đồng giáo hội nhỏ bé có
thể rất có ích cho việc huấn
luyện Kitô-giáo, bằng cách làm cho ư thức
và kinh nghiệm về sự hiệp thông và
về sứ vụ giáo hội trở nên sâu
xa và sắc bén hơn. Như các Nghị
Phụ Thượng-hội-đồng đă
tuyên bố, có thể có một h́nh thức
trợ giúp khác, qua việc huấn giáo sau bí tích
thánh tẩy dưới h́nh thức dự ṭng,
tŕnh bày lại một số yếu tố
trong Nghi thức Khai Tâm Kitô-giáo Cho Người
Lớn, để giúp họ đón nhận và
sống kho tàng phong phú bao la và lạ lùng
của bí tích Thánh Tẩy mà họ đă lănh
nhận, cũng như những trách nhiệm phát
xuất từ bí tích đó.[10]
Trong
việc huấn luyện giáo dân tại giáo
phận hay giáo xứ, nhất là với
những ǵ liên quan đến ư nghĩa
của sự hiệp thông và của sứ
vụ, sự nâng đỡ lẫn nhau giữa
các thánh phần khác nhau trong Giáo Hội có
một tầm quan trọng đặc biệt :
sự nâng đỡ này vừa bày tỏ
vừa thể hiện mầu nhiệm Giáo
Hội là Mẹ và là Nhà Giáo Dục. Các linh
mục và tu sĩ phải giúp đỡ giáo dân
trong việc huấn luyện họ. Trong
chiều hướng này, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă kêu mời các linh mục và các ứng
viên sắp chịu chức thánh hăy “chuẩn
bị chu đáo để có khả năng giúp
đỡ giáo dân trong ơn gọi và sứ
vụ của họ”[11].
Về phần ḿnh, chính giáo dân cũng có
thể và phải giúp đỡ các linh mục
và tu sĩ trên bước đường thiêng
liêng và mục vụ của các ngài.
- Các
môi trường giáo dục
Gia đ́nh Kitô-giáo, như
là “Giáo Hội tại gia”, cũng là một
trường học tự nhiên và căn
bản trong việc huấn luyện đức
tin : từ bí tích Hôn Phối, cha mẹ
nhận được ân sủng và trách
vụ giáo dục Kitô-giáo cho con cái ḿnh,
họ làm chứng tá trước mặt con cái
và chuyển đạt cho chúng cả các giá
trị nhân bản lẫn các giá trị tôn giáo.
khi bập bẹ học nói những tiếng
đầu tiên, đứa trẻ cũng
học ca tụng Thiên Chúa, Đấng mà chúng
cảm thấy gần gũi như một người
Cha đầy thương yêu ân cần ; khi
học những cử chỉ tŕu mến đầu
tiên, đứa trẻ cũng học cách đón
nhận người khác và nhận ra ư nghĩa
của đời sống con người trong
việc cho đi chính ḿnh. Chính cuộc
sống hằng ngày của một gia đ́nh
Kitô-giáo đích thực làm nên “kinh nghiệm
đầu tiên về Giáo Hội”, là kinh
nghiệm giúp trẻ em được vững
mạnh và phát triển trong việc hội
nhập tích cực và có trách nhiệm vào
một cộng đồng giáo hội rộng
lớn hơn và vào xă hội dân sự. Các
đôi vợ chồng và cha mẹ kitô-hữu
càng ư thức nhiều hơn rằng “Giáo
Hội tại gia” của ḿnh tham dự vào
đời sống và sứ vụ của Giáo
Hội toàn cầu, th́ con cái của họ càng
có thể được đào tạo về
“cảm thức Giáo Hội” và càng hiểu
biết vẻ đẹp của việc
hiến dâng sức lực của ḿnh để
phục vụ Nước Thiên Chúa.
Các trường
học và đại học công giáo cũng
là những môi trường quan trọng cho
việc huấn luyện, cũng vậy là các
trung tâm giúp canh tân đời sống thiêng liêng,
mà, ngày nay đang gia tăng. Trong bối
cảnh xă hội và lịch sử hiện
thời, được đánh dấu bởi
sự tiến triển sâu xa về văn hóa,
sự tham gia của cha mẹ kitô-hữu vào
sinh hoạt của nhà trường vẫn c̣n
thiếu sót, như các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă nêu lên ; phải chuẩn bị những
giáo dân đang hiến ḿnh cho công cuộc giáo
dục, như cho một sứ vụ giáo
hội đúng nghĩa ; phải thiết
lập và khuyếch trương những
“cộng đồng giáo dục”, bao gồm
một trật những bậc phụ huynh, các
vị giảng huấn, các linh mục, tu sĩ
nam nữ, đại diện giới trẻ.
Để nhà trường có thể thi hành
một cách xứng đáng chức năng giáo
dục, giáo dân phải cảm thấy cần
đ̣i hỏi mọi người tôn trọng
sự tự do đích thực trong việc giáo
dục và cổ vơ sự tự do ấy v́
lợi ích của mọi người, kể
cả nhờ đến một pháp chế dân
sự thích hợp.[12]
Các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
đă ưu ái và khuyến khích mọi giáo dân,
nam cũng như nữ, đang đảm
nhiệm trách vụ giáo dục trong các trường
học và các viện giáo dục với
một tinh thần công dân và Kitô-giáo sâu
sắc. Ngoài ra, các ngài cũng lưu ư một
nhu cầu khẩn cấp là các giáo dân làm giáo
viên hay giáo sư trong các trường khác nhau,
công giáo hay không, phải là chứng nhân đích
thực của Tin Mừng, bằng gương
sáng đời sống, bằng khả năng
và lương tâm nghề nghiệp, bằng các
bài giảng huấn thấm nhuần tinh
thần Kitô-giáo, dĩ nhiên phải luôn tôn
trọng sự độc lập của các ngành
khoa học và các bộ môn khác nhau. Một
điều đặc biệt quan trọng là
việc nghiên cứu khoa học và kỹ
thuật, do giáo dân đảm trách, lấy
việc phục vụ con người trong toàn
bộ những giá trị và những đ̣i
hỏi của con người làm tiêu chuẩn
: Giáo Hội trao phó cho các giáo dân này việc
lo sao cho mối liên hệ thâm sâu giữa đức
tin và khoa học, giữa Tin Mừng và văn hóa
nhân loại, được dễ cảm
nhận hơn đối với mọi người.[13]
Một
trong những đề nghị của Thượng-hội-đồng
có viết : “Thượng-hội-đồng
này nhờ đến vai tṛ tiên tri của các
trường học và đại học công
giáo, cángợi sự tận tụy của các
thần cô, những nhà giảng huấn mà
hiện nay đa số là giáo dân, sao cho trong các
cơ sở giáo dục công giáo, họ có
thể đào tạo được những
người nam nữ thấm nhuần
‘giới răn mới’. Sự có mặt cùng
một lúc của các linh mục và giáo dân, cũng
như các tu sĩ nam nữ, giúp cho người
thụ huấn thấy được một
khuôn mặt sống động của Giáo
Hội và giúp họ dễ dàng nhận
biết sự phong phú của Giáo Hội (x.
TB. Giáo Dục Công Giáo, “Nhà giáo dục giáo dân,
chứng nhân của đức tin trong các trường
học)”[14].
Tương
tự như thế, các nhóm, các hiệp
hội và các phong trào cũng có chỗ
đứng trong việc huấn luyện giáo dân.
Thực vậy, mỗi tập thể trên,
với những phương pháp riêng của ḿnh,
đều có khả năng cống hiến
một sự huấn luyện ăn sâu vào chính
kinh nghiệm của đời sống tông
đồ ; các tập thể này cũng có
dịp để bổ túc, cụ thể hóa và
định rơ tính chất việc huấn
luyện mà các phần tử của ḿnh đă
nhận được từ cac thầy khác
hay các cộng đồng khác.
5.
MỌI NGƯỜI HUẤN LUYỆN LẪN NHAU
Việc
huấn luyện không phải là đặc
quyền của một số người, nhưng
thực sự là quyền lợi và nghĩa
vụ của mọi người. về điều
này, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng
yêu cầu : “Làm sao cho mọi người,
nhất là những người nghèo, đều
có thể được huấn luyện,
để đến lượt ḿnh, chính
họ có thể trở thành nguồn mạch
huấn luyện cho mọi người” ; các
Nghị Phụ c̣n thêm : “Trong việc huấn
luyện, nên sử dụng những phương
tiện thích ứng giúp cho người kitô-hữu
thực hiện tốt hơn ơn gọi
đầy đủ làm người và làm kitô-hữu
của họ”[15].
Để
thực hiện một đường lối
mục vụ thực sự hữu hiệu,
cần phải cổ vơ việc đào tạo các
người huấn luyện, kể cả
việc thiết lập các khóa học hay các
trường dành riêng cho công việc đó.
Việc đào tạo những người mà,
đến lượt ḿnh, sẽ đảm
nhận công việc huấn luyện giáo dân, là
một đ̣i hỏi tiên quyết để
bảo tồn việc huấn luyện tổng
quát và sâu xa cho toàn thể Dân Chúa, cho mọi
giáo dân.
Trong
công tŕnh huấn luyện, cần phải lưu
ư đặc biệt tới văn hóa địa
phương, như Thượng-hội-đồng
đă kêu gọi rơ ràng : “Việc huấn
luyện các kitô-hữu phải hết sức
quan tâm đến văn hóa địa phương,
v́ văn hóa này góp phần vào chính việc
huấn luyện ; việc huấn luyện
ấy phải hướng dẫn để
nhận ra những giá trị đă có trong văn
hóa truyền thống, và những giá trị
trong văn hóa mới. Phải chú ư đến
những nền văn hóa khác nhau có thể cũng
tồn tại trong một dân tộc hay trong
một quốc gia. Với tư cách là Mẹ và
là Thầy của các dân, khi có dịd, Giáo
Hội sẽ cố gắng ǵn giữ
nền văn hóa của các nhóm thiểu
số đang sống giữa ḷng các quốc
gia lớn”[16].
Trong
công tŕnh huấn luyện, có một vài xác tín
hết sức cần thiết và phong phú. Trước
tiên, đó là xác tín rằng không thể có
việc huấn luyện đích thực và
hữu hiệu nếu mỗi người không
tự đảm nhận và phát triển trách
nhiệm đào tạo chính ḿnh : quả
thực, mọi việc huấn luyện
thiết yếu là một thứ
“tự-huấn-luyện”.
Tiếp
đến là xác tín rằng mỗi người
chúng ta vừa là đích điểm vừa là
khởi điểm của việc huấn
luyện : chúng ta càng huấn luyện ḿnh cho
tốt hơn th́ càng có khả năng huấn
luyện người khác.
Điểm
đặc biệt quan trọng là ư thức
rằng công tŕnh huấn luyện cho dù
chắc chắn không thể nại tới các
phương tiện và phương pháp của
khoa học nhân văn một cách thông minh, nhưng
nó chỉ hữu hiệu trong mức độ
sẵn sàng để Thiên Chúa hành động :
chỉ có cành nào không sợ để cho
thợ vườn nho cắt tỉa mới mang
lại hoa trái nhiều hơn cho chính ḿnh và
cho người khác.
6.
KÊU MỜI VÀ CẦU NGUYỆN
Để
kết luận văn kiện hậu-thượng-hội-đồng
này, một lần nữa, tôi nhắc lại
lời kêu mời của “chủ vườn
nho” như Tin Mừng đă nói : Cả
các anh nữa, hăy đi làm vườn nho cho tôi
! Có thể nói rằng ư nghĩa mà Thượng-hội-đồng
hiểu về ơn gọi và sứ vụ
của giáo dân nằm ngay trong lời kêu
mời này của Đấng Cứu Thế
gửi tới mọi người, đặc
biệt các giáo dân, nam cũng như nữ.
Công
việc của Thượng-hội-đồng
đă mang lại cho tất cả mọi tham
dự viên một kinh nghiệm thiêng liêng
lớn : kinh nghiệm một Giáo Hội, trong
ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh
Thần, sẵn sàng biện phân và đón
nhận lời mời gọi được
lặp đi lặp lại của chúa,
nhằm để, một lần nữa, tŕnh
bày cho thế giới ngày nay biết mầu
nhiệm hiệp thông và tính năng động
trong sứ vụ cứu độ của Giáo
Hội, và điều đó được
thực hiện nhờ hiểu rơ vị trí và
vai tṛ đặc biệt của giáo dân. Tông
Huấn này muốn làm cho hoa trái của Thượng-hội-đồng
được nên phong phú bao nhiêu có thể,
trong tất cả các Giáo Hội phân tán
khắp nơi trên thế giới ; hoa trái
đó phát sinh từ việc toàn thể Dân Chúa,
trong đó có các giáo dân, đón nhận
hữu hiệu lời mời gọi của Chúa.
Chính v́
vậy, tôi hết ḷng khuyên nhủ mọi người
và từng người, hăy kiên quyết ǵn
giữ trong tâm hồn cũng như trong đời
sống một ư thức về Giáo
Hội, nghĩa là ư thức ḿnh là chi
thể của Giáo Hội Chúa Kitô và ḿnh
được tham dự vào mầu nhiệm
hiệp thông cũng như vào năng lực tông
đồ và truyền giáo của Giáo Hội.
Điều
tối quan trọng là tất cả mọi kitô-hữu
phải ư thức về phẩm giá đặc
biệt ḿnh đă nhận được
qua bí tích Thánh Tẩy : nhờ ân sủng, chúng
ta được kêu gọi làm con yêu dấu
của Chúa Cha, làm chi thể tháp nhập vào
Đức Giêsu-Kitô và Giáo Hội của Ngài,
làm đền thờ sống động và thánh
thiện của Thánh Thần. Một lần
nữa, với tâm t́nh cảm động và
biết ơn, chúng ta hăy đọc lại
những lời của Thánh Sử Gioan : “Anh
em hăy xem, Chúa Cha yêu chúng ta dường nào,
đến nỗi chúng ta được
gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng
ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1).
Sự
“mới mẻ Kitô-giáo” này được
ban cho các chi thể của Giáo Hội, làm nên
nền tảng của việc tham dự vào
chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương
giả của Đức Kitô, và cũng làm nên
nền tảng của ơn gọi nên thánh
trong t́nh yêu ; sự mới mẻ đó
được diễn tả và thực
hiện nơi người giáo dân theo “đặc
tính trần thế” là tính cách “riêng
biệt và đặc thù” của họ.
Ngoài ư
thức về phẩm giá kitô-hữu của
mọi người, ư thức về Giáo
Hội c̣n bao gồm ư thức ḿnh thuộc
về mầu nhiệm Giáo Hội –
Hiệp Thông : đó chính là một khía
cạnh nền tảng và có tính cách quyết
định cho đời sống và sứ
vụ của Giáo Hội. Đối với
mọi người cũng như từng người,
lời cầu nguyện tha thiết của Chúa
Giêsu trong Bữa Tiệc Ly : “Xin cho họ
được nên một !”, mỗi ngày
phải trở nên một chương tŕnh
sống và hành động có tính cách bó
buộc và không thể trốn tránh.
Ư
thức sống động về sự
hiệp thông giáo hội, một ân huệ Thánh
Thần thúc đẩy chúng ta tự do đáp
lại, sẽ có được hoa trái quư báu
là làm nổi bật một cách hài ḥa, trong Giáo
Hội “duy nhất và công giáo”, nét đa
dạng phong phú về ơn sọi và hoàn
cảnh sống, các đoàn sủng, tác
vụ, trách vụ và nhiệm vụ ; hoa trái
đó c̣n là một sự cộng tác đầy
tin tưởng và dứt khoát hơn của các
nhóm, các hiệp hội và các phong trào giáo dân,
trong việc liên đới chu toàn sứ
vụ cứu độ chung của chính Giáo
Hội. Sự hiệp thông này, tự nó, đă
là dấu chỉ lớn lao đầu tiên
về sự hiện diện của Đức
Kitô Cứu Thế trong thế giới ; đồng
thời, nó cũng thúc đẩy hoạt động
tông đồ trực tiếp và truyền giáo
của Giáo Hội.
Trước
thềm thiên niên kỷ thứ ba, toàn thể
Giáo Hội, các chủ chăn cũng như tín
hữu, phải cảm thấy mạnh mẽ hơn
trách nhiệm của ḿnh là tuân phục
lệnh truyền của Chúa Kitô : “Anh em hăy
đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ
tạo” (Mc 16,15), và có một hứng
khởi truyền giáo mới. Giáo Hội
được trao phó một công tŕnh có
tầm mức lớn lao, có nhiều đ̣i
hỏi và rất huy hoàng rực rỡ : công tŕnh
của cuộc phúc-âm-hóa mới mà
thế giới ngày nay đang hết sức
cần đến. Giáo dân phải cảm
thấy ḿnh có dự phần trong công tŕnh này,
được kêu gọi để loan báo và
sống Tin Mừng, bằng cách phục vụ
con người và xă hội trong tất cả
những ǵ là giá trị và đ̣i hỏi nơi
cả hai.
Thượng
Hội Đồng Giám Mục, nhóm họp vào
tháng mười Năm Thánh Mẫu, đă
đặc biệt trao phó những công việc
của ḿnh cho sự cầu bầu của
Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu
Thế. Giờ đây, tôi cũng trao phó cho
sự cầu bầu của Mẹ thành
quả thiêng liêng từ những kết
quả của Thượng-hội-đồng.
Kết thúc văn kiện hậu-Thượng-hội-đồng
này, trong sự hiệp thông với các Nghị
Phụ và các giáo dân hiện diện trong Thượng-hội-đồng,
với mọi thành phần của Dân Thiên
Chúa, tôi muốn thân thưa với Đức
Trinh Nữ, dưới h́nh thức một
lời cầu nguyện sau đây :
Lạy
Trinh Nữ rất thánh,
Mẹ
Đức Kitô và Mẹ Giáo Hội,
chúng
con vui mừng và cảm phục,
hiệp
nhất với lời kinh Magnificat của
Mẹ,
một
bài ca đầy tri ân cảm mến.
Cùng
với Mẹ, chúng con tạ ơn Thiên Chúa
đă
“tỏ t́nh thương trải qua đời
nọ đến đời kia”,
tạ
ơn v́ ơn gọi chói ngời
và v́
sứ vụ muôn vẻ của người giáo
dân,
Chúa kêu
gọi mỗi người trong họ
sống
hiệp thông t́nh yêu và thánh thiện với Chúa
và
hiệp nhất với nhau như anh em
trong
đại gia đ́nh các con cái Chúa.
Họ
cũng được sai đi
chiếu
tỏa ánh sáng Chúa Kitô
thông
truyền lửa Thánh Thần
bằng
đời sống phúc âm của họ
trong
tất cả mọi lănh vực của
cuộc sống trần gian.
Lạy
Đức Trinh Nữ,
Mẹ
đă xướng lên bài ca Magnificat,
xin hăy
đổ đầy tâm hồn họ
tâm t́nh
biết ơn và ḷng hăng say
v́
ơn gọi và sứ vụ này.
Mẹ
đă là “nữ tỳ của Thiên Chúa”,
đầy
ḷng khiêm cung và độ lượng,
xin cho
chúng con được hoàn toàn sẵn sàng như
Mẹ
để
phục vụ Thiên Chúa và đem ơn cứu
độ cho thế giới.
Xin
mở ḷng chúng con
đến
tận những chân trời bao la của Vương
Triều Thiên Chúa
và
của việc loan báo Tin Mừng cho tất
cả mọi tạo vật.
Trái Tim
Mẹ không ngừng lo lắng
về
bao nỗi hiểm nguy,
về
vô vàn sự dữ đang đè nặng trên
những con người
trong
thế giới hôm nay.
Nhưng
Trái Tim Mẹ cũng lưu ư
đến
bao nhiêu sáng kiến v́ lợi ích con người,
đến
nhiều khát vọng lớn lao hướng
về các giá trị,
đến
những tiến bộ đạt được
đem
lại hoa trái dồi dào của ơn cứu
độ.
Lạy
Đức Trinh Nữ can trường,
xin ban
cho chúng con sức mạnh tâm hồn
và
niềm tín thác vào Thiên Chúa,
Đấng
sẽ giúp chúng con thắng vượt mọi
chướng ngại
để
hoàn thành sứ vụ của chúng con.
Xin
Mẹ dạy cho chúng con
sống
những thực tại trần gian với ư
thức mãnh liệt
về
trách nhiệm của người kitô-hữu
và trong
niềm hy vọng hân hoan
Ngày Nước
Thiên Chúa đến,
Ngày
của Trời Mới Đất Mới.
Mẹ
đă hiện diện trong Nhà Tiệc Ly,
cùng
với các Tông Đồ cầu nguyện,
trông
đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống
trong ngày
Lễ Ngũ Tuần ;
giờ
đây, xin Mẹ cầu khẩn Chúa Thánh
Thần
lại
ngự xuống tràn đầy
trên
mọi tín hữu nam nữ,
để
họ hết ḷng đáp lại ơn gọi và
sứ vụ của ḿnh,
như
cành của cây nho đích thực,
được
kêu gọi trổ sinh nhiều hoa trái
cho
cuộc sống trần gian.
Lạy
Mẹ Nữ Trinh,
xin hướng
dẫn và nâng đỡ chúng con
để
chúng con luôn sống
như
những người con đích thực
trong Giáo
Hội của Con Mẹ,
và
để chúng con có thể góp phần xây
dựng
nền
văn minh của chân lư và t́nh yêu trên trái
đất
theo ư
muốn của Thiên Chúa
và v́
vinh quang của Ngài. Amen.
Ban hành
tại Rôma, gần Đền Thờ Thánh Phêrô,
ngày 30 tháng Mười Hai, ngày lễ Thánh Gia
thất Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse,
năm 1988, năm thứ mười một
triều đại Giáo Hoàng của tôi. Gioan Phaolô đệ nhị
Tới
đầu trang
<<< === >>> Về
mục lục
[1] Đề
nghị 40
[2] “Đấng
đă ban phẩm chức th́ cũng sẽ ban
khả năng” (thánh LÊÔ CẢ, Bài
giảng II, 1)
[3] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ giáo dân, s. 4
[4] CĐ
Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 43 ; xt.
Sắc lệnh về hoạt động Truyền
Giáo của Giáo Hội, s. 21 ; Đức
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng,
s. 20
[5] Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Diễn từ đọc trước
các tham dự viên Hội Nghị của Phong trào
trong Giáo Hội dấn thân vào lănh vực văn
hóa (16/01/1982), 2 ; xt. Thư gửi Hồng y
Agostino Casaroli, Quốc Vụ Khanh Ṭa Thánh, qua thư
này Đức giáo hoàng thiết lập Hội
Đồng Giáo Ḥang về Văn Hóa (20/5/1982)
; Diễn văn đọc tại cộng đồng
đại học Louvain (20/5/1985)
[6] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ của giáo dân, s. 4
[7] Đề
nghị 22 ; cũng xem Đức
GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về Xă
Hội, s. 41
[8] CĐ
Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông
Đồ của giáo dân, s. 4
[9] Thánh
MÊTHÔĐÔ Ôlympia, Symposium III, 8
[10] Đề
nghị 11
[11] Đề
nghị 40
[12] Đề
nghị 44
[13] Đề
nghị 45
[14] Đề
nghị 44
[15] Đề
nghị 41
[16] Đề
nghị 42
|
|
|