NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM - VIỆT NAM TÔI ĐÂU - ANH LÀ AI
|
|
Video: VIỆT NAM TÔI ĐÂU - ANH LÀ AI Sáng tác: VIỆT KHANG - Tŕnh diễn: THẾ SƠN, DAVID DOUGLAS, & JENNIFER LYNH
|
Nguồn
Gốc Dân Tộc VIỆT NAM Dân tộc Việt Nam quần tụ trên
bán đảo Đông Dương trải qua nhiều
ngàn năm với đầy đủ những
yếu tố cơ hữu: ṇi giống, ngôn ngữ, văn
hoá… Địa bàn sinh sống là một hành lang
thuận lợi của vùng Đông Nam Á, nơi có
sự giao lưu qua lại của con người và
sự sống trên địa cầu từ thời
tiền sử, theo các chiều Nam-Bắc, Đông-Tây,
đại dương và lục điạ. Sự cạnh tranh quyết liệt
của các siêu cường hiện nay tập trung
mọi phương tiện, mọi chiến pháp,
nhằm chiếm đoạt khu vực giữ ưu
thế thắng lợi đánh bại địch
thủ. Sự sống c̣n của dân tộc Việt
Nam và các dân tộc láng giềng đang đứng trước
những thử thách vô cùng cam go. Mới đây, một thanh niên Việt
Nam thành công bước đầu trong sự
nghiệp chính trị tại điạ phương, có
dịp xuất hiện rộng rải trước công
chúng, đă phát biểu: “Tôi là người Việt
Nam của Dân Tộc Việt Nam”. - “Tôi là người
Việt Nam” là sự kiện đơn giản
dễ nh́n thấy, nhưng phần tiếp theo “Dân
Tộc Việt Nam” phức tạp hơn. Tuổi thanh xuân của nam nữ
Việt Nam dù bất cứ nơi đâu, đang ḥa
mình vươn lên trong xã hội, dành ra
những khoảnh khắc nghĩ đến cội
nguồn Dân Tộc, tương lai Dân Tộc, sẽ
cảm nhận những rung động thiêng liêng cao
quí, những ước mơ vị tha,
vị quốc. Họ sẽ vượt qua những
cám dỗ vị kỷ, tìm thấy ý
nghiã cuộc sống của một đời
người, trong đó có Lẽ Sinh Tồn
của Dân Tộc. Từ trước đến nay đă có
rất nhiều sử gia, các nhà khảo cổ
học, nhân loại học, tiền sử học,
tập trung nghiên cứu về Đông Á và Đông
Nam Á. Các học giả dựa vào tài liệu đă có
trước, những khám phá đương thời,
đưa ra những lư thuyết thuộc các vấn
đề liên quan, trong đó có Nguồn Gốc Dân
Tộc Việt Nam. Sau đây là những phần trích
dẫn tiêu biểu hoặc tóm tắt đại ư
của một số tác phẩm nói về nguồn
gốc dân tộc VIỆT NAM. 1.- Việt Nam Sử
Lược Việt Nam Sử Lược được xem như là sách giáo khoa cuả học sinh trung học miền Nam Việt Nam trước 1975. Qua tác phẩm, cụ Trần Trọng Kim nêu lên những yếu tố căn bản: ‘‘Theo ư kiến những nhà nghiên
cứu Pháp th́ người Việt Nam và người
Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống.
Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần
xuống phía Đông Nam, lập ra nước Việt
Nam ta bây giờ; c̣n người Thái th́ theo sông Mê Kông
xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái
Lan) và nước Lào. Lại có nhiều người Tàu và người
Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước
Tàu có giống Tam Miêu ở, sau có giống Hán tộc
(tức là người Tàu bây giờ) ở phía Tây
Bắc đến đánh đuổi người Tam
Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà
lập ra nước Tàu rồi dần dần
xuống miền Nam. Người Tam Miêu phải
lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền
Việt Nam ta bây giờ’’. 2.- Linh mục Lương
Kim Định Linh mục Lương Kim Định, một sử gia cũng là một triết gia. Sau nhiều năm tập trung nghiên cứu, giảng huấn, dưạ trên những công tŕnh của Vương Đằng Linh, Chu Cốc Thành, Eberhard và Eickstedt, giáo sư Lương Kim Định đă hoàn thành hai mươi ba tác phẩm, tạo nên hai bộ sách Việt Nho và Việt Triết, khai mở một nền tảng về Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam. Thuyết của Linh mục Lương
Kim Định được tóm tắt như sau: Bách
Việt cũng gọi là Viêm Việt gồm có ba nhóm
là Âu Việt (Miến Điện, Thái, và Lào), Miêu
Việt (Mèo, Mán), và Lạc Việt (Việt Nam và Mường).
Giống Bách Việt từ phương Tây tiến vào
lục điạ Đông Á dài theo sông Dương
Tử, mở rộng lên phương Bắc gần
đến sông Hoàng Hà và lan rộng xuống phía Nam.
Định cư tại điạ bàn nầy,
giống Bách Việt đă tiến vào thời đại
nông nghiệp, xă hội được tổ chức
nề nếp và ổn định. Họ sinh sống
với một tŕnh độ văn minh, văn hóa khá
cao do chính họ tạo ra, đó là nền văn hóa
Việt Nho. Tiếp theo, một giống dân du
mục khác cũng đến từ phương Tây và
lấn chiếm khu vực sinh tồn của giống Bách
Việt. Sau khi cưỡng đoạt đất đai
của người Việt, lớp người chinh
phục đến sau - người Hoa - sát nhập
tất cả những giá trị của Việt Nho làm
thành văn hóa của Trung Hoa. 3./ Sử gia Phạm Văn Sơn và Việt Sử Toàn Thư Sử gia Phạm Văn Sơn đă
đưa ra nhiều chi tiết trích dẫn từ
Cổ Thư Trung Hoa đến các tài liệu khoa
học: a- Căn cứ vào các sử sách của Tàu trong đời nhà Chu, ta thấy Bách Việt có mặt ở lưu vực sông Dương Tử rồi sau này tản mác khắp miền Nam bộ Trung Hoa. Nói là Bách Việt, người ta căn cứ vào thuyết truyền kỳ về Lạc Long Quân kết duyên cùng bà Âu Cơ sinh ra trăm con. Sự thực về thời thượng cổ, giống Bách Việt có nhiều nhóm, nhiều bộ lạc sinh sống rời rạc như các dân tộc thiểu số ngày nay tại các miền thượng du. Đến đời nhà Chu, các bộ lạc này đi dần đến chỗ thống nhất do các biến thiên của lịch sử, các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn kiêm tính và họp lại thành năm nhóm lớn sau đây đă đạt đến h́nh thức quốc gia là: Đông Việt hay Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu, và Lạc Việt.
Việt Sử Toàn Thư cũng nhắc đến
sinh hoạt của Việt Tộc thời bấy
giờ: Về y phục, người Việt
dệt bằng sợi gai hay đay và biết dệt
vải hoa như người Mường, Thổ, là
một thứ sản phẩm rất được người
Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng
và thiếc để làm binh khí. Người ta đào
được ở Chiết Giang những đồ
đồng như đinh ba chân, dao, thương, dao găm,
mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là
thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quư
báu đời Xuân Thu.
Họ sinh hoạt dưới nước
nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội
rất giỏi, biết làm các thứ thuyền
nhỏ là Linh, và các thứ thuyền nhỏ dài là
Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tu Lự,
thuyền có lầu tức là Lâu Thuyền và thứ
thuyền có gắn mũi qua tức là Qua Thuyền. Ba
thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép:
người Việt rất sở trường về
thủy chiến. Về kiến trúc, h́nh như họ
ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây
mộ và thành bằng đá, gạch. Việt
tuyệt thư chép: nước Việt có rất
nhiều thành và lăng mộ c̣n di tích đến
đời Hậu Hán. Về văn hóa, tinh thần của người
Việt, chúng ta chưa được nhiều tài
liệu để xét đoán, về ngôn ngữ
chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng, tiếng nói
của người Việt khác với tiếng nói
của người Hán nhiều, thường một
tiếng Việt phải phiên âm bằng hai, ba
tiếng Hán. Về phong tục th́ có tục xâm ḿnh,
cắt tóc là đặc tục của toàn thể
Việt tộc. Về tính t́nh, người Hán cho người
Man Di (Việt) có tính khinh bạc, hiếu chiến,
sắc sảo về việc binh, không sợ chết.
Việt tuyệt thư viết: Họ ở núi mà
đi đường thủy, lấy thuyền làm xe,
lấy chèo làm ngựa, đến th́ như gió
thoảng, đi th́ khó đuổi theo. Sử kư chép:
V́ dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm,
bon chen. Tóm lại người Hán có ư ghê sợ tinh
thần quật cường của Việt tộc, luôn
luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng
của họ. Ngoài ra, người Việt lại thường
hoài vọng phát triển về miền Bắc nữa.
Đáng chú ư là cái tinh thần bất úy tử
của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh
Ngô đă có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân
đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om ṣm,
rồi tự cắt cổ mà chết. Giữa khi quân
Ngô ngạc nhiên ngắm cái tṛ tự sát này th́ quân
chủ lực của Việt ập đến.) b- Dựa vào các tài liệu về
chủng tộc, Việt Sử Toàn Thư viết:
Cứ những điều chúng ta biết về đặc
tính văn hóa th́ Việt Tộc vào thời đó có
lẽ không thuộc ảnh hưởng chủng
tộc Mông-gô-lích một phần nào như người
Hán, tuy chưa thể nói thấy tục xâm ḿnh là
tục đặc biệt của các dân tộc
thuộc giống Anh-đô-nê-diêng ở miền Nam và
Tây Nam Á Châu (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán,
Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông cho đến người
Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ
của người Man Di). Đám người này, theo
các nhà nhân chủng học chia ra hai giống
Tạng-Miến (Tibeto-Birman) và Anh-đô-nê-diêng. Nhưng
họ không khác biệt nhau mấy, ngay cả về
đặc tính kỷ thuật. Theo các nhà bác học
Leroy, Gourhan về nhân loại học, người Anh-đô-nê-diêng
và giống Tạng-Miến gần nhau quá, nếu có
khác nhau th́ sự khác biệt đó cũng hết
sức mỏng manh, có lẽ v́ sự pha trộn
tức là sự lai giống. Hai đám dân tộc này
phải chăng đă sống gần gủi nhau nên có
sự trạng này hay là đă cùng thoát thai ở cùng
một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc
người ta đề cập đó có lẽ là
Việt Tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn
ngữ học phát biểu rằng suốt từ
miền Axam ở phía Bắc Ấn Độ trải
qua Nam bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương
quần đảo có một thứ văn hóa hiện
nay c̣n di tích trong các dân tộc Anh-đô-nê-diêng. Chúng
ta có thể ngờ rằng người Việt
Tộc xưa có lẽ là một nhánh của chủng
tộc Anh-đô-nê-diêng. Chủng tộc này trong
thời thái cổ đă có mặt hầu khắp
miền Đông Nam Á Châu. Sự phân vân của các học giả
về sự tương đồng rất gần gũi
giữa người Tạng-Miến và người
Anh-đô-nê-diêng đă được nhà khảo
cứu B́nh Nguyên Lộc giải quyết trong một công
tŕnh biên soạn công phu: Nguồn Gốc Mă Lai của
Dân Tộc Việt Nam. 4.- B́nh Nguyên Lộc
với tác phẩm Nguồn
Gốc Mă Lai của Dân Tộc Việt Nam Học giả B́nh Nguyên Lộc hoàn thành
tác phẩm với lập luận rằng người
Tạng-Miến và người Anh-đô-nê-diêng
chỉ là một, thuộc chủng Mă-Lai mà địa
bàn phát tích của họ là vùng chân núi Hi-Malaya. Hi-Malaya có nghĩa là núi của người
Malaya. Danh từ Hi này c̣n thấy được trong
ngôn ngữ Nhật Bổn ngày nay. Họ đọc là
Khi, nhưng khi cần viết tiếng Khi bằng
chữ La tinh, họ vẫn viết là Hi. (Có lẽ Hi
biến thành Hui rồi thành Núi bằng vào những xâu
chuỗi biến dạng kỳ dị ở chương
Ngôn Ngữ Tỹ Hiệu). Xuyên qua 892 trang sách, học giả B́nh
Nguyên Lộc đă nghiên cứu rất nhiều tài
liệu của nhiều tác giả viết về con người
vào thời thượng cổ và những biến
động lịch sử, trải khắp từ Trung
Quốc, Ấn Độ, và vùng Đông Nam Á. Ông
bổ túc những điều nghi vấn hoặc
bỏ sót của một số giả thuyết và
đả phá mạnh mẽ hai sử gia Nguyễn Phương
(Việt Nam) và Mộng Văn Thông (Trung Hoa) với
chủ trương của họ: Việt là Tàu và Tàu
là Việt. Tác giả Nguồn Gốc Mă Lai của
Dân Tộc Việt Nam cũng dành ra 240 trang sách để
viết về Dấu Vết Mă Lai Trong Xă Hội
Việt Nam Ngày Nay qua các minh chứng: a- Việc kính trọng trống đồng
được sử gia Lê Quư Đôn ghi chép trong
Kiến Văn Tiểu Lục. b- Về âm nhạc, trên thế giới
hiện nay chỉ có ba dân tộc có cây Đàn Độc
Huyền, đó là dân Việt Nam, dân Mă Lai ở
Indonesia, và dân Malayalam ở Nam Ấn. c- Lối kiến trúc nhà chữ Đinh,
mái nhà cong qướt lên, nhà bếp cách với nhà
ở, ngói dẹp, nhà rầm. d- Tự trị thôn xă và thần làng. e- Thờ mặt trời và âm dương
vật. f- Đối chiếu chỉ số
sọ: ‘‘Theo B.S. Huard và các cộng sự viên,
cái sọ không phải chỉ có đặc sắc
ở kích thước, mà các chi tiết về sinh
vật h́nh thái (caractères morphologiques) rất có ư nghĩa
quan trọng về mặt chủng tộc. Kết
quả đối chiếu chỉ số sọ, ta
biết bốn điều quan trọng: -Sọ ta khác sọ Hoa Bắc và Hoa Nam
rất nhiều về chỉ số và dung lượng. -Sọ ta giống hệt sọ Mă Lai. -Sọ ta có tánh cách brachycephale của Mă
Lai trong khi đó đa số sọ người Hoa
thuộc loại mesocephale. -Tất cả các dân mà tiền sử
học nói là Mă Lai đều có sọ Mă Lai.’’ g- Ngôn ngữ tỹ hiệu: ‘‘Ngữ
vựng của dân tộc nào cũng vay mượn
lung tung, tuy nhiên các cuộc vay mượn c̣n để
dấu thời gian lại. Nếu phải vay mượn
của Tàu, th́ ta chỉ vay mượn những
tiếng chỉ những ư niệm phức tạp,
những dụng cụ và vật dụng lạ,
chớ không thể nào ta lại vay mượn một
danh từ để chỉ nước
là chất mà ta uống hằng ngày và ta đă
phải có tiếng gọi hàng ngàn năm rồi. Hàng vạn tiếng Hán Việt đă thành
h́nh đủ để làm một ngôn ngữ, nhưng
không bao giờ thành ngôn ngữ cả v́ không ai mà nói
chuyện với nhau bằng loại tiếng đó, các
quan đại thần, các nhà trí thức nói
chuyện với nhau cũng nói bằng tiếng
Việt.’’ B́nh Nguyên Lộc đưa ra 200 biểu
đối chiếu tiếng nói giống nhau của
Việt Nam, Mường, Khả, Chàm, Ba Na, Thái, Cao Miên,
Mă Lai Á, v.v... 5.- Ngôn Ngữ Từ trước, đă có nhiều
học giả nghiên cứu và đồng ư về
sự tương đồng ngôn ngữ của các
sắc dân trong vùng Đông Nam Á. a- Giáo sư ngữ học Nguyễn
Đ́nh Hoà trong một bài khảo luận Cần
Đả Phá Một Vài Huyền Thoại Về
Tiếng Việt, đă nêu lên ư chính: ‘‘Trước
khi đi sâu thêm vào đề tài hôm nay, chúng ta
cần đả phá một vài huyền thoại.
Mấy người nước ngoài đă hỗn xược
nói rằng tiếng Việt là một thổ ngữ
của tiếng Trung Hoa. Họ quên rằng tiếng
Việt, tiếng Nhật Bản, tiếng Cao Ly,
chỉ là những ngôn ngữ đồng văn
với Hoa ngữ v́ cả bốn đều xử
dụng chữ Hán của Trung Quốc chứ bốn
ngôn ngữ đó không có quan hệ thân tộc
tức họ hàng ǵ với nhau cả. Ngày nay các nhà
chuyên môn đă đồng ư rằng tiếng Việt
và tiếng Mường là ngôn ngữ chị em
thuộc ḍng Môn Khờ Me trong đại ngữ
tộc Nam Á (Austroasiatic)’’. b- Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng đă dành
suốt cuộc đời nghiên cứu về ngôn
ngữ của dân tộc, phát hành một công tŕnh biên
soạn giá trị: Tự Điển Nguồn Gốc
Tiếng Việt (Vietnamese Cognatic Dictionary). Bác sĩ
Nguyễn Hy Vọng giải thích: “Nhưng trên
hết là, với 275 ngàn thí dụ đồng nguyên (cognatic
correspondence) và hàng chục bản đồ ghi chỗ
ở và nơi xuất phát của các dân tộc
bộ lạc ở khắp vùng Đông Nam Á và
bảng so sánh tiếng đồng nguyên của hàng
chục ngôn ngữ Đông Nam Á với chừng 27 ngàn
tiếng Việt của cả ba miền Bắc, Trung,
Nam, để cho ai cũng thấy, người
Việt cũng như người ngoại quốc,
hiểu và ư thức được rất rơ ràng là
tiếng Việt là tiếng Việt, không phải do Tàu
mà ra, trái lại tiếng Việt là anh em họ hàng
với bao nhiêu là tiếng nói khác ở Đông Nam Á,
mặc dù qua hơn hai ngàn năm, cái chữ viết
khác nhau cuả các thứ chữ Đông Nam A đă làm
cho ta lầm tưởng là cái âm, cái tiếng, cái
nghiă của các ngôn ngữ đó cũng khác nhau luôn!
Thật ra chúng nó đều giống nhau đến
mức ngạc nhiên, sững sờ.” Bác sĩ Vọng cũng nói thêm:
“Nên biết rằng từ ngàn xưa, tiếng
Việt đă được nói từ Động
Đ́nh Hồ qua tới Ấn Độ chân núi
Himalaya và xuống tới 10 ngàn ḥn đảo của
Indonesia, theo các nhà ngữ học của gịng ngôn
ngữ Austronesian. Tiếng Mường là “tiền
Việt”, giống nhau 95% với tiếng Việt.
Tiếng Nùng, Thổ, Tày cũng lai 50% Thái Lào, 50%
Việt mà đáng kể là họ dùng 100% tiếng Hán
Việt. Dân H'mong ở phiá Tây Nam hồ Động
Đ́nh vẫn có khoảng 300 tiếng nói chung với
dân Việt. Người Khasi ở chân núi Himalaya
vẫn nói cả hàng trăm câu tiếng Việt xưa
y hệt như chúng ta (mi shông h.ơ ni # tôi sống
ở đây). Dân Indonesia và Malaysia (230 triệu) cũng
có cả ngàn từ ngữ y như tiếng Việt. Tiếng Chàm có chung cả 3.500 từ
ngữ thông thường giống với tiếng
Việt Miền Trung. Sao vậy? Là v́ tiếng Việt
chung ḍng với tiếng Chàm đă từ mấy ngàn
năm về trước chớ không phải chỉ có
từ khi dân Việt mới biết đến dân Chàm,
lại càng không phải chỉ mới từ khi
Việt đánh nhau với Chàm. c- Một sơ đồ khảo cứu
ngôn ngữ trên thế giơí, nhan đề:
‘‘Language Families of the World’’ phát hành năm 1999
của hai giáo sư Joseph Greenberg và Meritt Ruhlen thuộc
trường đaị học Stanford (California) đă
sắp xếp tiếng Việt và Khmer vào nhóm
Austroasiatic cùng ngữ tộc vơí các tiếng Tagalog,
Malay, Javanese, Malagasy, Fijian, Samoan, Tahitian, Miaori, Hawaiian,
Thai, Lao, Hmong, Miến, gồm 1175 ngôn ngữ và do 293
triệu ngướ xử dụng. 6.- Văn Hóa Ḥa B́nh Nền văn minh cổ thời của
người Đông Nam Á đă được
Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim, giáo sư nhân loại
học của trường Đại Học Hawaii
đúc kết trong một bản nghiên cứu nhan
đề: Ánh Sáng Mới Trên Một Quá Khứ
Bị Quên Lảng (New Light On A Forgotten Past) với
những minh chứng tích cực: Trước hết
giáo sư xác định, Đông Nam Á thời
tiền sử gồm có hai phần. Phần thứ
nhất là lục địa Đông Nam Á, trải dài
từ núi Chin Ling phía Bắc sông Dương Tử
đến Singapore và từ biển Nam Hải kéo
về hướng Tây xuyên qua Miến Điện vào
đến Assam. Phần kia gọi là Đông Nam Á
hải đảo là một h́nh cung từ đảo
Andaman phía Nam Miến Điện ṿng qua Đài Loan bao
gồm Indonesia và Philippines. Giáo sư và cộng sự viên đă làm
công tác khai quật tại Non Nok Tha, một địa
điểm biên giới Lào, Thái và đă t́m thấy
nhiều di chỉ quan trọng: Một mảnh gốm vỡ có dấu
vết vỏ trấu của hạt lúa Oriza sativa và
khi đem xác định niên đại bằng carbon
được biết rằng chậm nhất là vào
khoảng 3.500 năm trước công lịch. Như
vậy hạt lúa này đă hiện diện tại
đây hơn 1.000 năm trước các hạt lúa
đă t́m thấy tại Ấn Độ và Trung
Quốc đă được các nhà khảo cổ ngày
trước cho rằng là hai nơi đầu tiên
của thế giới biết dùng lúa gạo làm
thực phẩm. Một nông dân người Thái đào
được một lọ gốm có h́nh vẽ
giống như lọ gốm ở khu vực Udon Thani,
Đông Bắc Thái Lan có niên đại 4.700 năm trước
công lịch. Những ṿng đồng hoen rỉ
vẫn c̣n nằm trong xương cánh tay và xung quanh
đó những cơ thể khác có ít hoặc không có
trang sức, chứng tỏ rằng nơi đây đă
h́nh thành một xă hội được tổ
chức hoàn chỉnh từ thiên niên kỷ thứ hai
trước công lịch. Xác định niên đại bằng
carbon, chúng ta biết rằng những ŕu bằng đồng
được đúc bằng khuôn đôi bằng
đá đă được chế tạo tại Non
Nok Tha vào khoảng 3.000 năm trước công lịch.
Như vậy, những dụng cụ bằng đồng
này có sớm hơn 500 năm so với những
dụng cụ bằng đồng t́m thấy tại
Ấn Độ và 1.000 năm trước Trung
Quốc. Những khuôn đúc h́nh chữ nhật
được t́m thấy từng cặp, chứng
tỏ rằng chúng được đặt sát nhau và
những mănh vỡ của ḷ đúc và mẫu đồng
vụn vươn văi đó đây làm chúng ta không c̣n
nghi ngờ ǵ nữa, nơi đây từ ngàn xưa là
một xưởng chế tạo ŕu. Những phần cơ thể trâu ḅ chôn
theo những đám táng thời cổ sỏ tại
Non Nok Tha được xác định là những gia
súc tương tự với giống ḅ Á châu Zebu (Bos
Indicus). Đây là sự t́m thấy về việc nuôi
súc vật làm thực phẩm có sớm nhất
tại vùng Đông Á. Chester Gorman, một nghiên cứu sinh, tŕnh
luận án tiến sĩ tại Đại học
Hawaii đă t́m thấy ở Hang Tử Thần (Cave of
Death) gần một con suối đổ vào sông Salween
của Miến Điện, những phần của
thực vật đă bị carbon hóa gồm có hạt
đậu, hạt giẽ, hạt tiêu và những
mẫu của quả bầu, quả dưa nằm vươn
văi với những dụng cụ đồ đá
kiểu mẫu Ḥa B́nh. Những mẫu xương của súc
vật bị chặt ra nhưng không bị đốt
cháy khiến cho chúng ta nghĩ rằng thịt đă
được nấu chín trong những ống tre tươi
như người ta vẫn làm hiện nay ở vùng
Đông Nam Á. Xác minh niên đại bằng carbon 14 cho
thấy rằng các vật liệu này đă xuất
hiện từ 6.000 năm đến 9.700 năm trước
công nguyên. Sau khi tŕnh bày thêm nhiều chi tiết khác
nữa, Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim đưa ra
giả thuyết: a- Đồng ư với Sauer rằng cây
trồng dùng làm thức ăn được thực
hiện trước tiên bởi cư dân của văn
hóa Ḥa B́nh vào khoảng 15.000 năm trước công
lịch. b- Những dụng cụ bằng đá mài
được t́m thấy ở Bắc Úc Đại
Lợi, xuất hiện 20.000 trước công lịch,
có nguồn gốc xuất phát từ văn hóa Ḥa B́nh. c- Thay thế quan niệm cổ điển
trước đây cho rằng những di dân từ phương
Bắc đă đem những tiến bộ quan
trọng đến vùng Đông Nam Á thời tiền
sử bằng giả thuyết rằng nền văn hóa
đồ đá mới của vùng Bắc Trung
Quốc được t́m thấy ở Yangshao là do văn
hóa Ḥa B́nh phát xuất từ Bắc Đông Á và di
chuyển lên hướng Bắc vào thiên niên kỷ
thứ 6 hoặc thứ 7 trước công lịch. d- Những thuyền độc mộc
được xử dụng trước tiên trên các
sông ng̣i vùng Đông Nam Á trước thiên niên kỷ
thứ 5. Khoảng 4.000 năm trước công lịch,
bộ giàn bằng cây gắn chung quanh thuyền
được phát minh làm cho thuyền trở nên
vững vàng hơn khi vượt biển, đă
đưa đến những cuộc hải hành
từ Đông Nam Á đến Đài Loan và Nhật
Bản, du nhập vào đất Nhật cách trồng
cây khoai sọ và một số hoa màu khác. e- Vào khoảng thiên niên kỷ thứ 3
trước công lịch, những cư dân Đông Nam
Á thành thục xử dụng ghe thuyền đă đi
vào quần đảo Indonesia và Philippines. Họ mang
theo những kiểu mẫu nghệ thuật h́nh
xoắn ốc, h́nh tam giác, h́nh chữ nhật dùng
trang trí đồ gốm, khắc vào gỗ, xâm ḿnh,
quần áo và dệt sợi. Đây là h́nh thể
nghệ thuật tương tự với hoa văn trên
đồ đồng Đông Sơn. f- Người Đông Nam Á cũng đi
về hướng Tây, đến tận Madagasca vào
khoảng 2.000 năm trước đây. Họ đă
đóng góp một số cây trồng hữu ích đối
với nền kinh tế Đông Phi Châu. g- Cũng vào thời ấy bắt đầu
có sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Địa
Trung Hải bằng đường biển làm phát
triển ngành thương mại. Nhiều dụng
cụ đồng thau khác thường xem như có
nguồn gốc phát tích từ Địa Trung Hải
đă được t́m thấy ở Đông Sơn. 7.-
Stephen Oppenheimer và tác phẩm Thiên Đường
ở Phương Đông: Lục Địa Ch́m Đắm
của Đông Nam Á (Eden in the East: The Drowned Continent of
Southeast Asia) Lư thuyết chính yếu của tác
phẩm là, lần đầu tiên đặt Đông
Nam Á vào trung tâm của các nguồn văn hoá và văn
minh. a- Oppenheimer chứng minh rằng khoảng
9.000 - 10.000 năm về trước, cư dân vùng
Đông Nam Á không chỉ là ngướ săn bắn
và hái lượm ban sơ như giới khảo
cổ Tây Phương thường mô tả mà là
những nhà nông chuyên nghiệp biết trồng lúa nước,
khoai lang, khoai sọ. b- Dưạ vào yếu tố và dữ
kiện địa chất học, Oppenheimer cho rằng
khoảng 8.000 năm trước đây, mực nước
biển dâng cao tràn ngập các vùng đất thấp
làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế
giới di tản khắp nơi, đến những vùng
đất cao hơn để sinh tồn. Họ theo hướng
Nam đến Úc Đại Lợi, hướng Tây
đến Ấn Độ và hướng Bắc vào
vùng đất liền Châu Á. Trong cuộc di cư vĩ
đại này, họ đem theo ngôn ngữ, truyền
thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn,
tổ chức xă hội đến các vùng đất
mới. Những người lánh nạn đại
hồng thủy này là những hạt giống cho
nền văn minh lớn khác mà sau nầy được
phát triển ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai
cập và Điạ Trung Hải. c- Công tŕnh nghiên cứu cuả Oppenheimer
c̣n dựa trên nguồn tài liệu khoa học đáng
tin cậy, đó là khoa di truyền học và
từ đó tác giả kết luận: ‘‘Tôi cho
rằng nhiều người phải rớ bỏ Vùng
duyên hải của họ ở phương Đông v́
lụt lội. Những người lánh nạn này
đă vun đắp những nền văn minh vĩ
đại ở phương Tây’’ . Trong lănh vực di truyền học, tháng
ba năm 2007, các nhà khoa học thuộc Đại
Học Durham và Oxford cuả Anh quốc đă nghiên
cứu DNA của heo rừng và heo nhà ở vùng Nam Thái
B́nh Dương và nêu giả thuyết mới về
nguồn gốc cư dân các đảo ở vùng này
. Tiến sĩ Keith Dobney thuộc khoa
khảo cổ Đại Học Durham cho biết đă
tiến hành nghiên cứu loại gene ít bị biến
đổi trên 781 con heo ngày nay và gene heo sống
từ thớ xa xưa lấy được từ các
Viện bảo tàng. Họ nói rằng do có mối liên
quan gene rơ ràng giữa heo hiện nay ở Việt Nam và
heo ở các đảo Sumatra, Java, New Guinea, New Oceania cùng
nhiều đảo Nam Thái B́nh Dương, nên họ
cho rằng phần lớn các cư dân sống trên các
đảo nầy có nguồn gốc từ Việt Nam
chứ không từ Đài Loan. Tiến sĩ Greger Larson, tác giả chính
của nghiên cứu, nhận xét rằng heo tuy bơi
giỏi nhưng không đến mức có thể bơi
đến tận Hawaii. Như thế chúng phải
được người di cư chuyên chở đến
đó và đây là minh chứng tuyệt vời về
hoạt động di cư cuả con người. Theo
ông, tổ tiên của các cư dân trên các ḥn đảo
xa xôi đă rời Việt Nam cách đây vào
khoảng 3.600 năm và họ đă đi qua nhiều
ḥn đảo trước khi đến các đảo
Nam Thái B́nh Dương. Ông hy vọng nghiên cứu này
sẽ mở ra một cửa sổ mới về
nguồn gốc cư dân vùng này. 8.- Giáo sư Cung Đ́nh Thanh và tác phẩm T́m Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dưới Ánh Sáng Mới của Khoa Học Song song với lư thuyết cuả
Oppenheimer, tại Chương 8 viết về Nguồn
Gốc Dân Tộc theo Cổ Sử Nhân Chủng và
Khảo Cổ Học, giáo sư Cung Đ́nh Thanh
đưa ra kêt luận: ‘‘Khi nước biển
đă đến thời kỳ Flandrian, phù hợp
với giai đoạn giăn băng cuối cùng vào
khoảng 18.000 năm trước đây, cho đến
lúc đồng bằng sông Hồng bắt đầu
bị đe dọa th́ người Cổ Vỉnh Phú
một phần di cư lên bám trụ ở vùng Tây
Bắc và vùng các hang động cao ở Ḥa B́nh,
phần khác, lớp có óc phiêu lưu hơn đă
đi lên phiá Bắc qua hai ngả, một ngả đi
qua Vân Nam đến Tứ Xuyên, Quế Châu, Thiểm
Tây, một ngả đi theo ven biển phiá Đông lên
đến Triết Giang, Giang Đông, Sơn Đông và
gặp những vùng đất tốt mới,
những môi trường thuận lợi, họ đă
ở lại sinh sống, phát triển và từng nhóm
họ đă tào lập ra những nước nhỏ
mới. Về sau chính những nước nhỏ
nầy, khoảng 3.000 nước, đă qui tụ
laị để trở thành những nước
lớn, sẽ tham dự vào việc tranh dành quyền
làm chủ đất Trung Nguyên ở thớ Xuân Thu,
Chiến Quốc (770 - 221 trước Kỷ Nguyên). Khi nước biển bắt đầu rút và đồng bằng Vĩnh Phú từng bước bắt đầu được tái lập vào khoảng từ 6.000 năm trở lại đây, th́ lại thấy có sự hội tụ những người trở laị đồng bằng đó. Đó là bắt đầu của Văn Hoá Phùng Nguyên, cũng là thời đại đồng thau và thời kỳ thành lập ra nhà nước Văn Lang của Vua Hùng. Khi người Hoa Hán thống nhất
đại lục dưới triều Tần, Hán
khiến những người gốc Bách Việt không
chịu đồng hoá phải rời bỏ Trung Nguyên.
Bằng cớ nữa là có dấu ấn Văn hóa phương
Bắc góp phần xây dựng lên Văn hóa Phùng Nguyên
và nhà nước Văn Lang vậy. Đó là chưa
kể đến cách đối xử kỳ thị
của các chính quyền Hoa Hán từ đời
Tần về sau đối với dân bản địa
gốc Ḥa B́nh.’’ 9.- Harold Wiens và tác phẩm Trung Quốc Tiến Quân Vào Vùng Nhiệt Đới (China’s March Toward The Tropics) Thiên khảo luận này xây dựng trên
Chín Chương gồm trong 352 trang sách và 32 bản
đồ phụ lục, chứa đựng những
kiến thức uyên bác của một giáo sư đại
học, Đaị Học Yale. Ngay tại Chương I, giáo sư Harold
Wiens (1912-1971) đă nêu lên chủ đề dân
tộc: “Người Hoa Hán phát triển văn hoá
trong khu vực Hoàng Hà, mở rộng vào vùng Dương
Tử và rồi đến Tây Giang. Họ chinh
phục và xua đuổi, hoặc tiêu diệt hoặc
đồng hoá những bộ lạc đang cư
ngụ trên những b́nh nguyên của Dương
Tử và Tây Giang (Nguyên văn: The Han-Chinese, developing
their culture in the Huang-Ho region, expanded first into the Yang-Tzu and
then in the Hsi-Chiang region, conquering, and driving out, or
exterminating, or absorbing the tribes peoples occupying the Yang-Tzu and
Hsi-River valley)”. Trên cơ sở nầy, giáo sư khai
triển đầy đủ các chứng tích,
giải đáp thoả đáng các vấn đề
lịch sử, chính trị, văn hoá tồn tại xưa
nay trong khu vực: - Dân tộc nào đă chiếm lĩnh khu
vực rộng lớn miền Nam Trung Quốc trước
khi người Hoa Hán (Han-Chinese) đến. - Những yếu tố cơ bản nào
làm nên những đợt sóng bất tận của
người Hoa Hán tràn về phương Nam, phủ
ngập các cư dân bản địa và nền văn
hoá của họ. - Những ǵ đă xảy ra cho những
sắc dân ở miền Nam Trung Quốc không thuộc
giống ṇi Hoa Hán. - Kẻ thống trị đă áp dụng
kỹ thuật bành trướng đế quốc như
thế nào để củng cố những phần
đất chinh phục được ở phương
Nam và đồng hoá những dân tộc không thuộc
ḍng giống Hoa Hán. - Những chướng ngaị về
điạ lư, văn hoá, chính trị nào đă làm
chậm bước tiến của chủ nghiă đế
quốc Hoa Hán. - Thực chất về mối liên
hệ của chính quyền trung ương đối
với những quốc gia trong vùng Đông Nam Á có
chung biên giớí và sự kiện nầy sẽ
ảnh hưởng như thế nào vào khu vực
Đông Nam Á. - Cuối cùng, làm thế nào để ngăn
chận sự bành trướng của
người Hoa Hán vào vùng
nhiệt đới. Mặc dù được phát hành năm
1954 và chỉ c̣n lưu trữ trong các thư viện,
nhưng nội dung của sách với những sự
kiện lịch sử, địa lư, nhân chủng, văn
hoá là những yếu tố đă có từ nhiều
ngàn năm trước và liên tục hiện hữu
cho đến ngày nay nên tác phẫm vẫn giữ
được giá trị bền vững. Riêng đối với người
Việt Nam chúng ta, đây là tài liệu tham khảo
cần thiết v́ lư do sau khi rút quân khỏi các
tỉnh biên giới phiá Bắc năm 1979, Đặng
Tiểu B́nh - một lănh tụ hàng đầu của
Trung Cộng - không kiềm chế được
những cảm xúc sôi nổi, đă bộc lộ
ẩn ức lịch sử giữa một cuộc
họp báo: ‘‘Việt Nam là vấn đề hàng trăm
năm, hàng ngàn năm đối với Trung Quốc’’! 10.- Phạm Việt
Châu và tác phẩm ‘‘Trăm Việt Trên Vùng Định
Mệnh’’ Tác giả Phạm Việt Châu
(1932-5/5/1975) xác định rơ ràng vị trí điạ
lư, yếu tố văn hoá, chính trị, và lẽ
sống c̣n của giống ṇi Bách Việt: ‘‘Bàn tiếp đến cái mà chúng tôi
gọi là vị trí định mệnh, nếu đứng
trên b́nh diện nhân văn, chúng tôi nghĩ đến
cái ḷ pha trộn các món văn hoá, th́ đứng trên
b́nh diện nhân chủng, chúng tôi lại nh́n thấy
h́nh ảnh cái hồ lớn nằm kề lục
địa Đông Á để hứng lấy và bao
bọc tất cả những bầy cá bị săn
đuổi từ các ḍng suối, ḍng sông tản
lạc về; chúng tôi muốn nói tới các bộ
tộc Bách Việt qua nhiều đợt nam thiên dưới
áp lực của Hán tộc. Ngày nay, xét về xă hội Người
tại Đông Nam Á, những nhà nghiên cứu nhân
chủng không khỏi ngạc nhiên khi thấy một
khu vực có vẻ hỗn tạp nhất nếu nh́n
thoáng qua bên ngoài, lại cũng là nơi tương
đôí thuần nhất nếu đào sâu, bới
rễ bên trong. Thật vậy, trừ những sắc
dân cổ c̣n lại rất ít và khối người
Trung Hoa mới h́nh thành gần đây, tất cả
thành phần dân số chính cấu tạo nên tập
thể Đông Nam Á ngày nay đều bắt nguồn
từ chủng tộc Bách Việt mà các nhà nhân
chủng học Tây Phương khi phân loại thường
goị là Indonesian hay Malay. Với h́nh ảnh cái hồ, chúng tôi cũng
nghĩ đến đoạn đường chót
của cuộc hành tŕnh lịch sử. Thật
vậy, chúng ta không c̣n đường nào, nơi nào
để mà thiên di xa hơn nữa. Cửa ngơ
thế giới đă khép lại trong khi áp lực
từ Phương Bắc, dưới h́nh thức này
hay h́nh thức khác vẫn tiếp tục đè
nặng xuống. Chúng tôi cũng không thể nghĩ
khác hơn là ư nghĩ của người Thái, anh em
ở bên kia bờ sông Cửu Long về cùng một
mối lo chung của nhân dân ‘‘Trăm Việt trên Vùng
Định Mệnh’’ nầy. Ư nghĩ ấy đă
được cựu ngoaị trưởng Thái, Thanat
Khoman phát biểu: Không c̣n có chỗ nào cho chúng tôi
lui thêm được nữa! Do đó với chúng tôi
nơi đây là kháng điểm đầu tiên và cũng
sẽ là kháng điểm cuối cùng! Là kháng điểm cuối cùng, thật
thế! Cái ư nghĩ bi tráng ấy phải được
cảm chiêu sâu sắc để từ đó khơi
dậy ư thức đề kháng tự nhiên, chẳng
riêng với Trung Hoa mà c̣n cả với các cường
lực khác’’. *** Loài người tồn tại một cách ưu
thế giữa các sinh vật khác nhờ vào khả năng
t́m hiểu, suy luận. Từ nhân tính nầy con người
không thể chỉ ăn, ngủ, dửng dưng, vô
cảm với những hiện tượng xảy ra
chung quanh, v́ vậy họ đă h́nh thành các tôn giáo,
hoặc lao vào khoa học để t́m sự giải
đáp cho các câu hỏi: con ngướ từ đâu
đến, đang làm ǵ, và sẽ đi về đâu? Trường hợp một người
Việt Nam cũng mang niềm ưu tư đó
với những chi tiết rơ rệt hơn: dân
tộc chúng ta có nguồn gốc từ đâu, đang
sinh sống như thế nào và rồi tương lai
sẽ ra sao, th́ bài viết này được
xem như là sự nhắc nhở bước đầu.
Con người trong cuộc sinh tồn cũng như
chiến binh khi lâm trận, ngoài những trang bị
đầy đủ c̣n phải xác định vị
trí xuất phát hay là điểm đứng của ḿnh
để di chuyển không lạc lối, phân biệt
bạn thù. Những tranh luận sôi nổi,
những biên khảo công phu về nhân chủng và văn
hoá của Vùng Đông Á, Đông Nam Á đang
được minh định bằng những dữ
kiện phức tạp hoặc những khám phá
mới nhất, hầu hết đều đồng
ư về một ranh giới giữa Việt Tộc và
Hán Tộc và sự cạnh tranh sinh tồn giữa
Việt và Hán khởi sinh từ nhiều ngàn năm trước
tại lưu vực Dương Tử, Hoàng Hà. Các cư
dân đă lập nên các quốc gia trong Vùng Đông
Nam Á, các
sắc tộc trong
các khu tự trị tại Hoa Nam đều có chung
một cội nguồn phát tích. Họ là những dân
tộc trong Đại Tộc Bách Việt.
Sự sinh tồn của Việt Tộc
trong thời tiền sử đang được tái
hiện, phù hợp với nhu cầu của nhân
loại, đánh trả mưu đồ bành trướng
của Đế quốc Hoa Hán trong thời đại
toàn cầu hóa. Hoa Kỳ và các quốc gia tiếp giáp
với Thái B́nh Dương đă thoả thuận xây
dựng một khu vực liên hiệp kinh tế
rộng lớn bằng Hiệp Ước Đối Tác
Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái B́nh Dương
(Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) gọi
tắt là TPP. Khu Vực Hóa (Regionalisation) là
một giai đoạn tất yếu trong tiến
trình Toàn Cầu Hóa (Globalisation). Vùng
Đông Nam Á Châu văn minh, giàu mạnh, tự
do, dân chủ là một trục quan trọng có đủ khả năng duy trì sự quân
bình giữa các thế lực trên thế
giới. Các dân tộc Đông Nam Á kết
hợp khắng khít với nhau như một liên minh Bách
Việt, một chiến tuyến đa
diện (kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc
pḥng) sẽ chận đứng làn sóng chinh
phục ồ ạt tiến về phương Nam
một lần nữa của con cháu Tần Thủy Hoàng
bằng bất cứ chiến pháp nào:
đồng Yuan hoặc hạm đội.
Biển Đông Việt Nam thường
được xem là nơi có nhiều nguy
cơ xảy ra chiến tranh thế giới. Một vài khuôn mặt quốc tế gốc Trung
Đông không phải Ả Rập khuyến cáo
Mỹ chia đôi Thái Bình Dương với
Trung Cộng để giữ lấy ḥa bình. Một sáng kiến
quái đản và hèn hạ! Giải pháp Đối Tác Chiến
Lược Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương
có tính nhân bản và ưu thế tất
thắng. Trong vận hội này, mỗi
người Việt Nam gạt bỏ tất cả những vị kỷ,
thành tâm tìm
đến với nhau, tận tâm, tận lực cùng nhau xoay chuyển thời cơ, lật
đổ bạo quyền cộng sản toàn trị hiện hành, xây dựng một chế
độ tự do, dân chủ thật sự.
Đời sống con người có giới hạn, nhưng Dân
Tộc trường tồn là danh dự và là trách nhiệm
của mỗi người Việt Nam. Chúng ta,
những người Việt Nam trong lănh thổ từ
Đồng Văn đến Cà Mau, từ đồng
bằng đến miền sơn cước, người
Kinh, Thượng, Khmer, Chàm… gọi nhau là đồng
bào với ư nghĩa chính xác, thiêng liêng và xúc động. Thế
Việt (2/2016)
|
Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.
|