|
|
HỌC THUYẾT XĂ HỘI CÔNG GIÁO do Diễn Đàn Giáo Dân thực hiện
|
|
|
|
LỜI TỰA Chúa
không bao giờ từ bỏ chúng ta. Đang khi tôi
viết lời tựa này để giới thiệu
một sưu tập các bản văn về học
thuyết xă hội của Giáo Hội, tôi bắt đầu
nhớ lại sự kiện cách đây hơn 50 năm,
tức là năm 1945. Lúc đó tôi đúng 17 tuổi.
Quốc gia tôi, nước Việt Nam, trải qua
những thời kỳ rất khó khăn. Trên nhiều
phương diện nó đă mất căn tính. Lúc
đó chiến tranh đă chấm dứt, nước
Nhật và châu Âu bị hỗn loạn. Thuyết
cộng sản bắt đầu len lỏi vào. Tôi
khi ấy là một thành viên trẻ của một nhóm
nhỏ người công giáo tại Đế đô
Huế. Chúng tôi may mắn có được các bản
văn của một số Thông Điệp về xă
hội, như Rerum Novarum, Quadragesimo Anno và Divini Redemptoris.
Trong những lúc gặp rất nhiều khó khăn này,
chúng tôi đă cố sức sao chép lại các bản văn
đó. Một
người trong chúng tôi - tên là Alexis – đă đi
hết tỉnh này sang tỉnh nọ, mang các bản văn
đó tới cho các gia đ́nh và các cộng đoàn.
Anh ta làm như vậy là chấp nhận những
rủi ro nguy hiểm cho chính bản thân anh và cho gia
đ́nh đông người của anh. Đôi khi, anh
giấu các bản văn đó bằng cách cột chúng
dưới bắp chân ḿnh đang khi anh lén lút đi
từ làng này qua làng kia. Cuối cùng anh bị bắt và,
sau đó bị chết rũ tù. Nhưng
công việc của anh để lại một âm hưởng
thật mạnh mẽ. Nhiều thiếu nữ và
nhiều thanh niên trẻ đă thấy được
một ư nghĩa mới của hy vọng nhờ
biết được những tài liệu về
học thuyết xă hội của Giáo Hội. Thật
sự, hiểu biết này đă mở ra cho họ
một con đường mới đầy ánh sáng và
hy vọng, đă giúp họ trong những ngày khủng
khiếp tiếp theo. Chúa Giêsu đă không từ bỏ
họ. Học
thuyết xă hội của Giáo Hội ngày nay cũng có
thể có được một hiệu quả như
thế trong hoàn cảnh chúng ta, hoàn cảnh mà Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI, trong tờ trối cuối cùng
của ngài, đă gọi là "thảm cảnh và
buồn rầu nhưng cũng thật huy hoàng".
Học thuyết xă hội của một số Giáo Hoàng
thời danh từ Đức Lêô XIII, có thể là,
đối với người kitô hũu thời đại
chúng ta, một nguồn lực lớn lao định hướng
và là một khí cụ thật sự cho việc
truyền giáo. Tất cả chúng ta đều cần
tới chúng. Trong
Năm Thánh này, nhiều tập san đă tập hợp
những yếu tố khác nhau của học thuyết xă
hội công giáo. Sách Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo
chứa đựng nhiều yếu tố và tạo nên
một trong
những nguồn mạch chính thức nhất. Toà Thánh
cũng chuẩn bị một tổng hợp chính
thức của học thuyết xă hội của Giáo
Hội, làm tăng giá trị tương quan của ḿnh
với "sự Tân Phúc Âm hoá". Nhiều tập
san khác mới đây đă xuất hiện tại
Mễ-tây-cơ và Tây-ban-nha. Chúng
ta mừng Năm Thánh kỷ niệm Mầu Nhiệm
Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô – là Chúa và
là người - Người đă đi qua nhân
loại để tới đó. Trong tinh thần
phục vụ đối với cuộc mừng năm
Đại Toàn Xá năm 2000, các nhà xuất bản
quyển sách này đă thu tập một bộ sưu
tập hữu ích gồm những bản văn liên quan
tới học thuyết xă hội của Giáo Hội.
Bộ sưu tập này sẽ cho xuất bản ra 7
thứ tiếng và rất hữu ích cho những người
có trách nhiệm hàn lâm viện và mục vụ, cho
những người có trách nhiệm chính trị và các
công việc khác và, dĩ nhiên, cho tất cả
những người lao động và cho dân nghèo. Tôi
cầu nguyện cách riêng cho những người, ngày
nay, đang chia sẻ những đau khổ của nhân
loại, gặp được, cách gián tiếp qua
những bản văn này, con đường đưa
tới Chúa Giêsu Chúa chúng ta, con đường mới
duy nhất đầy ánh sáng và hy vọng của
thời đại chúng ta. Cũng
như tất cả mọi sưu tập, kỳ
xuất bản này không tự hào là đầy đủ.
Những bản văn riêng biệt này đă được
tuyển lựa v́ ư nghĩa của chúng, nhưng chúng
tôi hy vọng rằng độc giả sẽ đọc
chúng trong văn cảnh nguyên thuỷ của chúng và như
vậy sẽ trở nên phù hợp hơn với
tầm rộng của học thuyết xă hội công giáo. Các
sinh viên, các giáo sư, và tất cả những ai
muốn hiểu biết hơn học thuyết xă
hội của Giáo Hội, sẽ gặp được
trong bộ sưu tập này những lời tuyên bố
chính yếu của các Đức Giáo Hoàng, trích từ
một số bản văn khác biệt, kể cả các
Thông Điệp Giáo Hoàng, các Tông Thư và những tài
liệu Công Đồng về các chủ đề liên
quan tới chính trị, kinh tế và văn hoá.
Những bản văn tuyển lựa được
xếp loại tùy theo các chủ đề khác nhau
của học
thuyết xă hội công giáo. Dưới mỗi một
tiêu đề theo chủ đề, những phần
trích dẫn được xếp hạng theo một
thứ tự sư phạm - đúng hơn thứ
tự niên biểu hay huấn giáo - và mỗi một
chủ đề bắt đầu bằng một trích
dẫn giải thích vấn đề được bàn
tới. Những
tuyên ngôn này đến từ tấm ḷng của Giáo
Hội đối với một thế giới cần
cách tuyệt vọng một thị kiến luân lư ngơ
hầu xây dựng một trật tự xă hội nhân
bản hơn. Đang khi Giáo Hội không chủ trương
cung cấp những giải pháp khoa học cho các
vấn đề kinh tế chính trị hoăc những
điều kiện luật pháp chính xác, điều mà
Giáo Hội cung hiến c̣n quan trọng hơn: một
tổng thể những ư niệm và giá trị luân lư
củng cố và khẳng định phẩm giá
của mọi người. Việc áp dụng những
nguyên tắc này vào các thực tại kinh tế, chính
trị và xă hội có thể đưa tới nền
công lư và hoà b́nh cho mọi người, tới sự
phát triển nhân bản chân thật và tới việc
giải phóng các dân tộc khỏi áp bức, nghèo
đói và bạo tàn. Hội
Đồng Giáo Hoàng Cổ Vơ "Công Lư và Hoà B́nh"
tỏ ḷng biết ơn vị Đáng Kính Robert A. Sirico
và vị Đáng Kính Maciej Zieba, O.P., đă giám sát
việc sưu tập này. Hội Đồng Giáo Hoàng này
cũng ao ước tỏ ḷng trân trọng sự giúp
đỡ quí báu của các nhân vật sau đây, trong
việc tập hợp sưu tầm các bản văn này:
các nhân viên cơ quan "Action Institute for the Study of
Religion and Liberty" ở Grand Rapids, Michigan, cách riêng
Gregory Gronbacher, Ph.D, Kevin Schmiesing, Ph.D, và Stephen J. Grabill,
Th.M. ; L'Instytut "Tertio Millemmio" ở Cracovie, cách riêng
Slawomir Sowinski và Piotr Kim La; Vị Đáng kính, giáo sư
Alvaro Corcuera Martinez de Rio, L.C., Hiệu trưởng, các
sinh viên và các nhân viên Pontificio Ateneo "Regina Apostolorum"
Roma; và vị Đáng kính John-Peter Pham, S.T.D., Rome. Tôi
hân hạnh giới thiệu bộ sưu tập này
với tất cả những ai chia sẻ quan điểm
của chúng tôi về sự liên kết công lư và hoà b́nh, và
với tất cả những ai muốn biết học
thuyết xă hội của Giáo Hội. Tôi lấy làm
thoả măn cách riêng v́ được cung hiến
nguồn mạch này cho các giáo sư, các thần
học gia, các giáo lư viên và cho tất cả
những ai giảng dạy các tín hữu những con
đường chân lư. Mong sao học thuyết xă
hội của Giáo Hội góp phần vào lợi ích công
cộng phổ quát và giúp thiết lập quan điểm
của các tác giả Thánh Vịnh đă nói công lư và
hoà b́nh ôm hôn nhau (Tv 85, 9-12), ngơ hầu mở đường
cho Nước Chúa trị đến. Phanxicô
Xavie NGUYỄN VĂN THUẬN Tổng
Giám Mục Hiệu Toà Vadesi
Chủ
tịch Hội Đồng Cổ Vơ "Công Lư và Hoà B́nh" Lễ kính Thánh Giuse Lao Công BẢNG
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT CA
Centesimus Annus -Bách Chu Niên CCC
Catechism of the Catholic Church
–Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo GS
Gaudium et Spes -Vui mừng và hy vọng LG
Lumen Gentium-Hiến Chế Tín Lư về Giáo
Hội MM Mater
et Magistra -Mẫu Sư – Mẹ và Thầy PP
Populorum Progressio -Phát triển các dân tộc PT
Pacem in terris -Ḥa b́nh trên thế giới QA
Quadragesimo Anno -Tứ Thập Niên RN
Rerum Novarum -Tân Sự SRS Sollicitudo
Rei Socialis -Quan tâm đến vấn đề xă hội TMA
Tertio Millennio Adveniente- Tiến Tới Thiên
niên Kỷ Thứ Ba Ngoài ra, xin tham
khảo phần Thư Mục CHƯƠNG I
BẢN CHẤT HỌC THUYẾT XĂ
HỘI CỦA GIÁO HỘI
I.
Giáo
Hội Là Mẹ Và Thầy II.
Sứ Vụ Của Giáo
Hội III.
Sứ Điệp Xă
Hội Của Giáo Hội IV.
Phạm Vi
Huấn Giáo Xă Hội Của Hiáo Hội V.
Việc Phúc Âm Hóa Và
Huấn Giáo Của Gáo Hội I.
Giáo
Hội Là Mẹ Và Thầy
Là
người Mẹ và là nhà giáo dục tất cả các
dân tộc, Giáo Hội phổ quát được Chúa
Giêsu Kitô thiết lập để tất cả
mọi người, qua các thời đại, gặp
được trong ḷng và trong t́nh yêu của Giáo
Hội, sự viên măn của một đời sống
cao hơn và sự bảo đảm cho phần rỗi
ḿnh. Đấng Sáng Tạo thánh đă trao cho Giáo
Hội này, "cột trụ và nền tảng chân lư"
(x. 1 Tm 3, 15) một nhiệm vụ kép: sinh ra con cái, giáo
dục và hướng dẫn chúng, bằng một
sự quan pḥng mẫu tử chăm lo sự sống
của từng cá nhân và của các dân tộc, mà Giáo
Hội đă luôn luôn tôn trọng và bảo vệ
kỹ lưỡng phẩm giá. (Mater
et Magistra, n. 1) 2.
Chắc chắn, một vấn đề nghiêm trọng
như thế c̣n đ̣i hỏi những tác nhân khác góp
phần hoạt động và cố gắng của ḿnh.
Chúng tôi muốn nói tới những vị Nguyên thủ
Quốc gia, những ông chủ và những người
giàu có, chính những thợ thuyền nữa, mà
vận mạng của họ có liên quan ở đây. Nhưng
điều Chúng tôi khẳng định không nghi
ngại, đó là sự vô ích trong hành động
của họ bên ngoài hành động của Giáo
Hội. Thật vậy, chính Giáo Hội múc lấy trong
Tin Mừng những học thuyết có khả năng,
hoăc chấm dứt xung đột, hoặc ít ra thoa
dịu nó bằng cách cất đi tất cả
những ǵ ác liệt và chua cay; Giáo Hội không
bằng ḷng với việc soi sáng ḷng trí bằng
những huấn giáo của ḿnh, nhưng c̣n sau đó
điều chỉnh sự sống và những phong
tục của mỗi người ; Giáo Hội, nhờ
một số đông các cơ chế hữu ích phi thường,
có ư cải thiện số phận giai cấp nghèo; Giáo
Hội muốn và ao ước rằng tất cả các
giai cấp góp chung những ánh sáng và những sức
lực của ḿnh, ngơ hầu mang đến cho vấn
đề thợ thuyền một giải pháp tốt
nhất; sau hết Giáo Hội cho rằng những
luật pháp và công quyền phải, với chừng
mực và khôn ngoan là điều chắc, góp phần
hợp tác của ḿnh cho giải pháp này. (Rerum
Novarum, n. 16) 3.
Quả vậy, Kitô giáo, liên kết đất với
trời, v́ nh́n con người trong thực tại
cụ thể của nó, tinh thần và vật chất,
lư trí và ư chí, và kêu mời con người nâng cao tư
tưởng ḿnh từ những điều kiện hay
thay đổi của cuộc sống địa cầu
lên tới những đỉnh sự sống đời
đời, trong một sự viên măn hạnh phúc và b́nh
an vô tận. (Mater
et Magistra, n. 2) 4.
Như vậy không lạ ǵ việc Giáo Hội Công Giáo,
noi gương và theo lệnh Chúa Kitô, trong suốt hai ngàn
năm, từ lúc thiết lập chức phó tế xưa
cho tới ngày nay, đă luôn luôn nêu cao ngọn đuốc
bác ái, qua những điều răn mà cũng qua
những gương lành vô kể của ḿnh; đức
bác ái này, bằng cách điều hoà những giới
luật yêu thương với việc thực hành
những giới lệnh đó, thực hiện cách
kỳ diệu lệnh truyền của hồng ân kép này,
tóm tắt học thuyết và hành động xă
hội của Giáo Hội. (Mater
et Magistra, n. 6) 5.
Như vậy, dưới ánh sáng học thuyết Công
Đồng Vatican II, Giáo Hội xuất hiện trước
mắt chúng ta như có trách nhiệm về phương
diện xă hội đối với chân lư thần linh.
Chúng ta phải cảm động sâu xa khi nghe chính Chúa
Giêsu công bố: "Và lời anh em nghe đây không
phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha,
Đấng đă sai Thầy" (Ga 14, 24)… Do đó
điều cần là Giáo Hội, khi tuyên xưng và
dạy đức tin, phải bám chắc vào chân lư
thần linh (Dei Verbum, nn. 5, 10, 21) và sự kiện này
phải được diễn tả bằng một thái
độ sống "phục tùng phù hợp với lư
trí" (x. Dei Filius, chap. 3) (Redemptoris
hominis. n. 19) 6.
Cách riêng, như Công Đồng khẳng định,
"nhiệm vụ chú giải chính thức Lời Chúa,
đă được viết ra hay lưu truyền,
chỉ được uỷ thác cho Huấn Quyền
sống động của Giáo Hội, và Giáo Hội
thi hành quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô (Dei Verbum, n.
10). Như vậy Giáo Hội, trong cuộc sống và
trong giáo huấn của ḿnh, được tŕnh bày như
cột trụ và điểm tựa của chân lư (1 Tm
3, 15), và cũng của chân lư trong hành động luân
lư. Thật vậy, "Giáo Hội có quyền loan báo
luôn luôn và khắp nơi các nguyên tắc luân lư
kể cả những nguyên tắc về trật tự
xă hội, và quyền phán đoán về bất cứ
thực tại nhân sinh nào, trong mức độ các
quyền căn bản của con người hay việc
cứu độ, các linh hồn đ̣i hỏi" (Giáo
luật, 747, n. 2) Chính
trên những vấn đề mà ngày nay là đối tượng
của cuộc bàn căi luân lư và chung quanh những
vấn đề đó lại phát triển những xu
hướng mới và những chủ thuyết mới,
Huấn Quyền, trung thành với Chúa Giêsu Kitô và
tiếp tục Truyền Thống của Giáo Hội, cho
ḿnh có bổn phận khẩn cấp phải đề
xướng sự nhận thức và huấn giáo
của ḿnh, ngơ hầu giúp con người trên
đường đi tới chân lư và tự do. (Veritatis
splendor, n. 27) II.
Sứ Vụ Của Giáo Hội
7.
Phát sinh từ t́nh yêu của Chúa Cha muôn đời, do
Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ thiết
lập trong thời gian, được qui tụ trong Chúa
Thánh Thần (x. Ep 1, 3; 5, 6-13-14, 23), Giáo Hội theo đuổi
một mục đích cứu rỗi và cánh chung.
Mục đích này chỉ có thể thành tựu
trọn vẹn trong thời kỳ sẽ đến. Nhưng,
ngay bây giờ Giáo Hội đă hiện diện trên
mặt đất này rồi, được qui tụ
gồm những con người, là phần tử
của xă hội trần gian; họ được kêu
gọi để hợp thành gia đ́nh các con cái Thiên
Chúa ngay trong lịch sử nhân loại, ngơ hầu tăng
trưởng luôn măi cho tới khi Chúa đến.
Hiệp nhất nhằm đạt những của
cải thiêng liêng, trở nên giàu có v́ những của
cải ấy, gia đ́nh này như một xă hội
được thiết lập qui củ trên trần
gian, do Chúa Kitô, được trang bị các phương
thế thích hợp để kết hiệp thành
một xă hội hữu h́nh" (GS. 40). Như thế,
là "một đoàn thể hữu h́nh và là cộng
đoàn thiêng liêng", Giáo Hội đồng tiến
với toàn thể nhân loại và cùng nhau chia sẻ
một số phận trần thế với thế
giới; Giáo Hội như men và hồn của xă
hội loài người, sẽ được đổi
mới trong Chúa Kitô và biến thành gia đ́nh của
Thiên Chúa. (Gaudium et Spes. n. 40) 8.
Việc dạy và phổ biến học thuyết xă
hội là thành phần của sứ mệnh truyền
giáo của Giáo Hội. Và, v́ đây là một học
thuyết có mục đích hướng dẫn cách
sống con người, nên nó đưa tới hệ
quả là mỗi người tùy theo vai tṛ, ơn
gọi và địa vị ḿnh, mà "cam kết
cổ vơ công lư". Việc
hoàn thành thừa tác vụ rao giảng Tin Mừng trong lănh
vực xă hội, thừa tác vụ này là thành phần
của nhiệm vụ ngôn sứ của Giáo Hội, cũng
gồm sự tố giác những sự dữ và
những bất công. Nhưng nên nhấn mạnh
rằng việc rao giảng luôn quan trọng hơn
việc tố giác, và việc tố giác không thể
bỏ qua việc rao giảng, v́ sự rao giảng là
nền tảng thật sự và là sức lực
của động cơ cao nhất. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 41) 9.
Chúng ta tuyên xưng rằng Nước Chúa đă
khởi sự ở dưới thế này trong Giáo
Hội Chúa Kitô, không thuộc về thế gian này, mà
bộ mặt đang qua đi, và sức phát triển riêng
của nó, không thể lẫn lộn với sự
tiến triển của văn minh, của khoa học hay
của kỹ thuật loài người, nhưng hệ
tại sự hiểu biết luôn cách sâu xa hơn
những kho tàng không ḍ thấu của Chúa Kitô, hệ
tại đáp ứng luôn nồng nhiệt hơn t́nh yêu
của Chúa, hệ tại ban phát luôn rộng răi hơn
ân sủng và sự thánh thiện giữa những con người.
Nhưng cũng chính t́nh yêu này thúc đẩy Giáo
Hội luôn lo lắng đến lợi ích thật
thế tục của con người. Tuy không ngừng
nhắc nhở con cái ḿnh rằng họ không có chỗ
ở vĩnh viễn ở đời này, Giáo Hội cũng
thúc ép họ góp phần, mỗi người tùy theo
ơn gọi và phương tiện riêng, lo cho lợi
ích thành đô trần thế của ḿnh, cổ vơ công
lư, hoà b́nh và t́nh huynh đệ giữa con người,
qủang đại giúp đỡ anh em ḿnh, nhất là
những kẻ nghèo và những kẻ vô phúc nhất
(Paul VI, Profession de foi du peuple de Dieu, n. 27). (Libertatis
Nunctius, Conclusion) 10.
Giáo Hội, về phần ḿnh, được trao phó
nhiệm vụ tỏ bày mầu nhiệm của Thiên Chúa,
Đấng làm cùng đích của con người, Giáo
Hội cũng đồng thời tỏ cho con người
biết ư nghĩa của cuộc đời con người,
tức là sự thật thâm sâu về con người.
Giáo Hội biết chắc rằng chỉ có Thiên Chúa
mà Giáo Hội phụng sự mới đáp ứng
được các ước vọng sâu xa nhất
của ḷng người. Ḷng người không bao
giờ thoả măn với những của ăn trần
thế. (Gaudium
et Spes, n. 41) 11.
V́ thế, với ân huệ của Đấng Sáng
Lập, và trong khi trung thành tuân giữ các giới răn
bác ái, khiêm nhường và từ bỏ, Giáo Hội
đă lănh nhận sứ mạng rao truyền và
thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước Thiên
Chúa trong mọi dân tộc; Giáo Hội là mầm
mống và khai nguyên Nước ấy trên trần gian.
Đang lúc từ từ phát triển, Giáo Hội
vẫn khát mong Nước ấy hoàn tất và
thiết tha hy vọng kết hợp với Vua ḿnh trong
vinh quang. (Lumen
Gentium, n. 5). 12.
Giáo Hội, người ta biết, không tách riêng ra
khỏi thế giới, Giáo Hội sống trong thế
giới. Những phần tử Giáo Hội chịu
ảnh hưởng thế giới; họ hô hấp
nền văn hoá thế giới, bằng cách chấp
nhận những luật pháp và dung nạp những phong
tục thế giới. Việc tiếp xúc thân t́nh này
với xă hội trần thế, tạo ra cho Giáo
Hội một hoàn cảnh luôn luôn đầy dẫy
vấn đề, ngày nay các vấn đề đó là
gay gắt đặc biệt. Một
mặt đời sống Kitô giáo, mà Giáo Hội
bảo toàn và phát triển, phải luôn luôn và can đảm
tự giữ ḿnh khỏi mọi sự chệch hướng,
phàm tục hay chết nghẹt; đời sống đó
phải tránh được sự lây lan của sự
lầm lạc và sự dữ. Nhưng mặt khác đời
sống Kitô giáo không nên đơn thuần bằng ḷng
với những cách thức suy nghĩ và hành động
do môi trường thế tục tŕnh bày và áp đặt,
bao lâu những cách thức đó phù hợp với
những mệnh lệnh cốt yếu của chương
tŕnh tôn giáo và luân lư của nó; hơn nữa, Giáo
Hội phải ra sức tiếp nối chúng, thanh
tẩy chúng, nâng cao chúng, phấn khởi chúng và thánh
hoá chúng. (Ecclesiam
suam, n. 42) 13.
Giáo Hội cung hiến cho con người Tin Mừng, tài
liệu ngôn sứ đáp ứng với những đ̣i
hỏi và những ước vọng của con tim con người;
Đó luôn luôn là "Tin Mừng". Giáo Hội không
thể tự chước chuẩn việc rao giảng
rằng Chúa Giêsu đă đến mặc khải gương
mặt của Thiên Chúa và nhờ Thánh Giá và sự
Phục Sinh, đem lại phần rỗi cho tất
cả mọi người. (Redemptoris
missio, n. 11) 14.
Tất cả những ǵ là nhân bản đều liên
hệ đến chúng ta. Chúng ta có chung với tất
cả nhân loại bản tính, nghĩa là sự
sống, với tất cả các ân huệ của nó,
với tất cả mọi vấn đề của nó.
Chúng ta chấp nhận chia sẻ tính phổ quát đầu
tiên này; chúng ta hoàn toàn sẵn sàng tiếp nhận
những thỉnh nguyện sâu xa thuộc các nhu cầu
cơ bản của con người, tán thành những
khẳng định mới mẻ và đôi khi cao thượng
thuộc thiên tài con người. Và chúng ta có những
chân lư luân lư, quan yếu, phải đưa ra ánh sáng
và củng cố trong lương tâm con người,
bởi v́ chúng sinh ích cho mọi người. Nơi nào
con người cho ḿnh có bổn phận tự hiểu
lấy ḿnh và hiểu thế giới, th́ chúng ta có
thể truyền thông với con người. (Ecclesiam
suam, n. 97) III.
Sứ Điệp Xă Hội Của Giáo Hội
15.
Sự quan tâm tích cực Giáo Hội dành cho vấn
đề xă hội, nghĩa là cho điều có
mục đích phát triển đích thực con người
và xă hội, do bẩm tính tôn trọng và thăng
tiến con người trong tất cả những
chiều kích của nó, sự quan tâm đó luôn
được tỏ bày bằng nhiều cách rất khác
biệt. Một trong những cách ưu tiên can thiệp
trong những thời gian sau này là Huấn Quyền
của các Đức Giáo Hoàng, các ngài thường bàn
luận vấn đề bằng cách qui chiếu về
Thông Điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII,
thỉnh thoảng làm trùng hợp niên biểu phát hành
những các tài liệu xă hội khác nhau với
những ngày kỷ niệm của Thông Điệp
đầu tiên này. Các Đức Giáo Hoàng, qua những
lần can thiệp này, không bỏ qua việc cũng nêu
cao các phương diện mới mẻ của học
thuyết xă hội Giáo Hội. Như vậy, khởi
từ phần đóng góp danh tiếng của Đức
Lêô XIII, được phong phú hoá bởi những
đóng góp liên tiếp của Huấn Quyền,
được cấu tạo nên một phần chính
yếu của học thuyết đă được
hợp thời, nối tiếp nhau lần hồi khi Giáo
Hội giải thích các biến cố trong diễn
tiến của chúng, theo gịng lịch sử dưới
ánh sáng của toàn bộ Lời được Chúa Giêsu
Kitô mặc khải (Dei Verbum, n. 4) và với sự
trợ giúp của Chúa Thánh Thần (x. Ga 14, 16. 26 ; 16,
13- 15). Bằng cách này Giáo Hội muốn hướng
dẫn con người biết đáp ứng, khi dựa
vào sự suy luận lư trí và sự đóng góp của
các khoa học nhân bản, với ơn gọi của
họ làm những nhà xây dựng trách nhiệm về xă
hội trần thế. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 1) 16.
Trong những xáo trộn và những bất trắc
thời giờ hiện tại, Giáo Hội có một
sứ điệp đặc biệt phải loan báo,
một nâng đỡ phải hiến cho con người
trong những khi họ cố gắng nắm bắt và hướng
dẫn tương lai của họ. Từ khi Rerum Novarum
tố giác cách dữ dội và với giọng cấp
bách, gương xấu do điều kiện lao động
trong xă hội kỹ nghệ đang phát sinh, sự
tiến hoá lịch sử, đă giúp nhận thức,
như Quadragesimo Anno và Mater et Magistra chứng minh, có
nhiều chiều kích khác và nhiều áp dụng khác
thuộc công b́nh xă hội. Công Đồng mới
đây, về phần ḿnh, đă ra sức khai thông chúng,
cách riêng trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes.
Chính chúng tôi đă kéo dài những hướng dẫn
này qua thông điệp chúng tôi Populorum progressio: chúng tôi
đă nói "Ngày nay vấn đề mà mỗi người
phải nhận thức là vấn đề xă hội
đă trở nên quốc tế" (PP, n. 3). Một
sự nhận thức mới về những đ̣i
hỏi của sứ điệp Tin Mừng làm cho Giáo
Hội thấy trách nhiệm phải phục vụ con
người để giúp họ hiểu hết tất
cả những chiều kích của vấn đề
trầm trọng này, và để thuyết phục
họ về sự cấp bách của một hành động
liên đới trong khúc quanh này của lịch sử nhân
loại". (Octogesima
Adveniente, n. 5) 17.
"Mặc khải Kitô giáo đưa đến sự
hiểu biết sâu xa hơn về những luật
lệ của đời sống xă hội" (GS, n.
23). Qua Tin Mừng, Hội Thánh nhận được
mặc khải trọn vẹn chân lư về con người.
Khi chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, Hội Thánh
nhân danh Đức Kitô, xác nhận cho con người
biết phẩm giá riêng và ơn gọi hiệp thông
của con người. Hội Thánh dạy cho con người
biết các yêu sách của công lư và hoà b́nh, hợp
với ư định khôn ngoan của Thiên Chúa. (C.E.C,
n. 2419) 18.
Học thuyết xă hội của Giáo Hội, đề
nghị một tổng thể những nguyên lư để
suy tư, những tiêu chuẩn để phán đoán và
những chỉ thị để hành động, trước
tiên nhắm tới những thành viên của Giáo
Hội. Điều thiết yếu là người tín
hữu dấn thân trong việc thăng tiến nhân
loại, phải có một sự hiểu biết
vững chắc toàn bộ (corps) quí báu này của
huấn giáo và coi nó như là một phần nguyên
vẹn của sứ mạng rao giảng Tin Mừng
của ḿnh … Những Kitô hữu có trách nhiệm trong
Giáo Hội và trong xă hội, cách riêng những giáo dân
nam và nữ đang nắm trách nhiệm trong đời
sống công cộng, cần được huấn
luyện vững chắc về huấn giáo này, để
họ có thể tác động và ban sức sống cho
xă hội dân sự và các cơ cấu của nó
bằng chất men Tin Mừng. (Ecclesia
in 19.
Việc đào tạo giáo lư cho các tín hữu, ngày càng
biểu lộ khẩn cấp ngày nay, không những do
động lực tự nhiên phải đào sâu đức
tin, nhưng do nhu cầu biện giải về niềm
hy vọng của họ trước mặt thế
giới và trước những vấn đề nghiêm
trọng và phức tạp. Do đó phát sinh sự
cần thiết tuyệt đối về một hành
động có hệ thống giáo lư, xứng hợp
với tuổi tác và những hoàn cảnh khác biệt
của đời sống, và về sự khuyến khích
Kitô giáo nhất quyết hơn trong lănh vực văn
hoá, ngơ hầu đáp ứng với các vấn đề
vĩnh cửu và các vấn đề mới mẻ làm
rung chuyển con người và xă hội hôm nay. Điều
hoàn toàn cần thiết, cách riêng, là các giáo dân,
nhất là những anh chị dấn thân nhiều cách
trong lănh vực xă hội hay chính trị, phải
hiểu biết chính xác hơn học thuyết xă
hội của Giáo Hội, như các nghị phụ Thượng
Hội Đồng đă xin nhiều phen trong những bài
tham luận của các ngài. (Christifideles
Laici, n. 60) 20.
Trung thành với Huấn Giáo và gương sáng của
Vị Sáng Lập thần linh của ḿnh, Đấng
đă loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó như là
dấu ấn sứ vụ của Người (Lc 7, 22),
Giáo Hội không bao giờ chểnh măng việc
khuyến khích nâng cao nhân bản các dân tộc mà Giáo
Hội đem đến cho niềm tin vào Chúa Kitô. (Populorum
Progressio, n. 12) 21.
Giáo Hội chia sẻ với con người thời
đại chúng ta, ḷng ước muốn nồng
nhiệt và sâu xa sống một đời sống
đúng đắn về mọi phương diện, và
Giáo Hội cũng không bỏ qua việc suy nghĩ
tới các phương diện khác biệt của đức
công b́nh, như đời sống con người và xă
hội đ̣i hỏi phải có. Sự phát triển
học thuyết xă hội công giáo trong thế kỷ
qua khẳng định rơ điều này. Trong vết chân
của giáo huấn này, cũng phải kể sự giáo
dục và đào tạo lương tâm con người
theo tinh thần công b́nh, cũng như những sáng
kiến riêng nẩy nở trong tinh thần này, cách riêng
trong khung cảnh truyền giáo của người giáo dân. (Dives
in Misericordia, n. 12) 22.
Nếu, như chúng ta đă nói, Giáo Hội thực
hiện ư muốn của Chúa về phương
diện này, Giáo Hội sẽ rút được cho ḿnh
một nghị lực to lớn và hơn nữa c̣n
cảm thấy cần trút ra nghị lực này để
phục vụ mọi người. Giáo Hội sẽ
cảm ứng chính xác về một sứ mệnh
nhận lănh từ Thiên Chúa, về một sứ điệp
phải loan truyền khắp nơi. Chính nơi đây
là chỗ dựa của nguồn mạch nhiệm
vụ Tin Mừng chúng ta, của uỷ nhiệm chúng ta
phải dạy dỗ muôn dân và của cố gắng tông
đồ chúng ta để theo đuổi sự
cứu rỗi vĩnh viễn cho tất cả mọi người. (Ecclesiam
suam, n. 64). 23.
Chắc chắn, không có mẫu duy nhất để
tổ chức quyền tự do nhân bản về
mặt chính trị và kinh tế, bởi v́ những
nền văn hoá khác biệt và sự khác biệt
những kinh nghiệm lịch sử là nguồn gốc
những h́nh thức khác nhau của những cơ
chế trong một xă hội tự do và trách nhiệm. (Diễn
văn tại kỳ hợp khoáng đại Liên
hiệp quốc, 1995, n. 3) 24.
Vả lại, học thuyết xă hội có một
chiều kích quan trọng liên kỷ luật. Muốn
nhập thể tốt hơn chân lư duy nhất liên quan
đến con người vào trong những bối
cảnh xă hội, kinh tế và chính trị khác nhau và
luôn thay đổi, th́ chân lư này phải chấp
nhận đối thoại với những kỷ
luật khác biệt chăm nom con người, chân lư này
đồng hoá những đóng góp của các kỷ
luật đó và giúp chúng hướng về, trong
một viễn tượng rộng lớn hơn,
phục vụ con người, được biết và
được yêu trong sự viên măn ơn gọi
của họ. Bên cạnh chiều kích liên kỷ
luật, cũng phải lưu ư tới chiều kích
thực hành và, nói được, kinh nghiệm của
học thuyết này. Học thuyết này nằm tại
chỗ gặp gỡ giữa sự sống và lương
tâm Kitô hữu với những hoàn cảnh thế
giới, và học thuyết đó biểu lộ trong
những cố gắng mà những cá nhân, gia đ́nh,
những tác nhân văn hoá và xă hội, những nhà chính
trị và những nhân viên Nhà nước hoàn thành, ngơ
hầu cho nó h́nh thức và kiểu áp dụng trong
lịch sử. (Centesimus
Annus, n. 59) IV.
Phạm Vi Huấn Giáo Xă Hội Của Giáo Hội
25.
Giáo Hội không có mẫu để đề xướng.
Những mẫu chân xác và hiệu nghiệm thật
sự, chỉ có thể nhận thức được
trong khuôn khổ những hoàn cảnh lịch sử khác
biệt, nhờ sự cố gắng của tất
cả những kẻ trách nhiệm giáp mặt với
những vấn đề cụ thể dưới
tất cả những khía cạnh xă hội, kinh tế,
chính trị và văn hoá chồng chất lên nhau (x. GS,
n. 36 ; Octogesima Adveniens, nn. 2-5). Khi đối diện
với những trọng trách này, Giáo Hội tŕnh bày,
như phương hướng lư trí và cần
thiết, học thuyết xă hội của ḿnh, học
thuyết như đă nói công nhận đặc điểm
tích cực của thị trường và doanh nghiệp,
nhưng đồng thời nhấn mạnh sự
cần thiết hướng chúng về thiện ích
chung. (Centesimus
Annus, n. 43) 26.
Học thuyết xă hội của Hội Thánh là
tập hợp các lời dạy của Hội Thánh
về các biến cố lịch sử, dưới ánh
sáng của toàn bộ Lời Chúa Kitô Giêsu mạc
khải với sự trợ giúp của Chúa Thánh
Thần. (x. SRS, n. 1). Những người thiện chí
dễ dàng chấp nhận giáo thuyết này khi chúng
được các Kitô hữu thể hiện trong đời
sống. (CEC,
n. 2422) 27.
Tới giai đoạn áp dụng cụ thể các nguyên
tắc, có thể nẩy ra những khác biệt quan
điểm, dầu giữa những người công giáo
ngay lành và chân thật. Khi nào sự đó xảy ra,
mong sao đừng bao giờ thiếu sự quí mến
nhau, sự kính trọng nhau và thiếu thiện chí,
thiện chí t́m kiếm những điểm tiếp xúc
v́ một hành động thuận lợi và hiệu
nghiệm; mong sao người ta không phí sức trong
những cuộc bàn căi bất tận; và lấy cớ
làm tốt hơn, mong sao người ta đừng coi thường
thiện ích có thể và phải thực hiện. (Mater
et magistra, n. 238) 28.
Giáo Hội không đề nghị triết học riêng
của ḿnh cũng không thần thánh hoá một
triết học nào đặc biệt mà gây thiệt
hại cho những cái khác. Lư do sâu xa của việc
giữ ǵn ư tứ này là chính lúc triết học đi
vào liên hệ với thần học, nó cũng phải
theo những cách thức và những luật lệ
của nó; bằng không sẽ không có bảo đảm
nó sẽ hướng về sự thật và nhằm
tới sự thật nhờ một phương pháp có
thể thẩm tra hợp lư. Một nền triết
học nào không diễn tiến dưới ánh sáng
của lư trí theo những nguyên tắc riêng và những
phương pháp riêng của nó, th́ sẽ không giúp ích
ǵ nhiều. Rốt cuộc, phải t́m kiếm
nguồn gốc của sự tự trị triết
học trong sự kiện này là lư trí, tự bản tính,
hướng về sự thật và, hơn nữa lư trí
tự kiếm ra những phương thế để
đi tới đó. Một nền triết học ư
thức "qui chế cấu tạo nên ḿnh" không
thể không tôn trọng những yêu sách và những
điều hiển nhiên xứng hợp với chân lư
mặc khải. (Fides
et Ratio, n, 49) 29.
Học thuyết xă hội của Hội Thánh được
phát triển vào thế kỷ XIX khi Tin Mừng tiếp
xúc với xă hội kỹ nghệ tân tiến, với
các cơ cấu mới để sản xuất các
sản phẩm tiêu thụ, với khái niệm mới
về xă hội, về quốc gia và quyền bính,
với các h́nh thức mới của lao động và
quyền sở hữu. Sự phát triển học
thuyết kinh tế và xă hội của Hội Thánh, xác
nhận giá trị vững bền của quyền giáo
huấn Hội Thánh, cũng như cho thấy ư nghĩa
đích thực của Truyền Thống luôn luôn
sống động và tích cực (x. CA, n. 3). (CEC,
n. 2421) 30.
Học thuyết xă hội của Giáo Hội không
phải là một "con đường thứ ba"
giữa tư bản tự do chủ nghĩa và cộng
sản mác xít chủ nghĩa, cũng không phải là
một khả năng giữa những giải pháp
được đánh dấu ít triệt để hơn:
nó là một loại tự nó. Nó cũng không phải là
một ư thức hệ, nhưng là một sự tŕnh bày
chính xác những kết quả của một sự suy
nghĩ chăm chú về các thực tại phức
tạp của kiếp sống con người trong xă
hội và trong bối cảnh quốc tế, dưới
ánh sáng đức tin và truyền thống giáo hội.
Mục đích chính của học thuyết này là
giải thích những thực tại đó, bằng cách
suy xét sự phù hợp hay những dị biệt
của chúng với những hướng dẫn của
huấn giáo Tin Mừng về con người và về
ơn gọi của con người vừa trần
thế vừa siêu việt; học thuyết đó có
mục đích hướng dẫn cách sống Kitô giáo.
Do đó, học thuyết đó không thuộc lănh
vực ư thức hệ, nhưng thuộc lănh vực
thần học và cách riêng thần học luân lư. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 41) 31.
Chắc chắn, Giáo Hội đă nhận lănh sứ
vụ dẫn đưa nhân loại tới hạnh phúc
muôn đời, chớ không phải chỉ tới
một nền thịnh vượng tạm bợ; và
thậm chí "Giáo Hội không cho ḿnh có quyền vô
cớ xen vào việc điều khiển những
sự trần tục" (Ubi Arcano Dei Consilio, n. 65). Nhưng
bằng bất cứ giá nào Giáo Hội không thể
từ bỏ trách nhiệm Chúa đă phó thác cho và trách
nhiệm đó là một luật buộc Giáo Hội can
thiệp, chắc không phải trong lănh vực kỹ
thuật v́ đối với lănh vực này Giáo
Hội thiếu những phương tiện xứng
hợp và chuyên môn, nhưng trong tất cả những
ǵ liên quan tới luật luân lư. Trong những vấn
đề này, thật vậy, sự nắm giữ chân
lư từ Trên Cao phó thác chúng ta và sự chúng ta có trách
nhiệm rất nặng nề là loan báo, giải thích và
rao giảng, bất chấp tất cả, luật luân lư,
những sự kiện đó cũng đặt trật
tự xă hội và trật tự kinh tế dưới
quyền bính tối cao của chúng ta. (Quadragesimo
Anno, n. 41) 32.
Học thuyết xă hội, ngày nay hơn hết, chăm
lo cho con người với tư cách được sát
nhập trong mạng lưới phức tạp của
những tương quan giữa các xă hội tân
thời. Những khoa học nhân bản và triết
học giúp hiểu rơ rằng con người là trung tâm
xă hội và giúp cho con người có điều
kiện hiểu biết ḿnh hơn với tư cách là
một "sinh vật xă hội". Nhưng chỉ có
đức tin mặc khải đầy đủ cho con
người căn tính thật sự của ḿnh, và
đức tin chính xác là điểm khởi hành
của học thuyết xă hội của Giáo Hội. (Centesimus
Annus, n. 54) V.
Việc Phúc Âm Hoá Và Huấn Giáo Xă Hội Của Giáo
Hội
33.
Việc tân Phúc Âm hoá, mà thế giới hiện đại
cần khẩn cấp và đă nhiều lần tôi
nhấn mạnh đến, phải kể vào số
những yếu tố chủ yếu việc rao
truyền học thuyết xă hội của Giáo Hội,
một học thuyết có khả năng, hôm nay cũng
như dưới thời Đức Lêô XIII, chỉ rơ
con đường di đúng để dáp ứng
những thách đố lớn của thời hiện
nay, trong một bối cảnh mất uy tín ngày càng
lớn của các ư thức hệ. Cũng như ở
thời buổi đó, phải lặp lại rằng không
có giải pháp thật sự cho vấn đề xă
hội" bên ngoài Tin Mừng và, đàng khác, "những
sự mới" có thể gặp được trong
Tin Mừng khoảng không gian của chân lư và phẩm
chất luân lư xứng hợp. (Centesimus
Annus, n. 5) 34.
Điều đáng nói ở đây -cũng như trong
tất cả lănh vực đời sống Kitô hữu-
đó là sự tin tưởng đến từ đức
tin, tức là từ sự biết chắc chính chúng ta
không phải là những người chủ xướng
sứ vụ, nhưng là chính Chúa Giêsu Kitô và Thần
Khí Người. Chúng ta chỉ là những cộng tác
viên và, khi đă làm tất cả những ǵ theo
sức ḿnh, th́ hăy nói: "Chúng tôi là những đầy
tớ vô dụng, chúng tôi đă chỉ làm việc
bổn phận đấy thôi" (Lc 17, 10). (Redemptoris
missio n. 36) 35.
Bây giờ tôi muốn đề nghị một "sự
đọc lại" Thông Điệp của Đức
Lêô XIII, và kêu mời đưa cái nh́n "lại phía
sau" trên chính bản văn của người, ngơ
hầu tái khám phá vẻ phong phú của những nguyên
tắc cơ bản được phát biểu ở
đó để giải quyết vấn đề lao
động. Nhưng tôi cũng kêu mời đưa
một cái nh́n "hiện tại" trên những
sự mới "bao vây chúng ta và chúng ta bị
ngụp lặn trong đó, nói được như
vậy, những sự mới này rất khác biệt",
đánh dấu thập niên cuối của thế
kỷ qua. Sau hết tôi kêu mời hướng cái nh́n
về "tương lai", đang khi chúng ta đă
thấy ngàn năm thứ ba thời đại Kitô giáo,
một tương lai nặng sự lạ mà cũng
nặng những lời hứa. Sự lạ và
những lời hứa kêu đến óc tưởng tượng
chúng ta và óc sáng tạo chúng ta, óc tưởng tượng
và sáng tạo này cũng thúc giục chúng ta, trong tư
cách môn đệ Chúa Kitô, người "Thầy duy
nhất" (x. Mt 23, 8), nhận lấy trách nhiệm
chỉ đường, loan báo chân lư và thông truyền
sự sống là chính ḿnh Người (x. Ga 14, 6). Làm
được như vậy, không những người
ta tái khẳng định giá trị trường
tồn của huấn giáo này, mà người ta c̣n bày
tỏ ư nghĩa thật sự của Truyền
Thống Gíao Hội, luôn luôn sống và hoạt đông,
xây dựng trên những nền tảng cha ông chúng ta
đặt trên đức tin và cách riêng xây dựng trên
điều các "Tông đồ đă truyền thông
cho Giáo Hội" (St Irénée, Adversus Haereses, I, 10) nhân danh
Chúa Giêsu Kitô : Người là nền tảng và "không
ai có thể đặt nền móng nào khác" (x. 1 Cr 3,
11). (Centesimus
Annus, n. 3) 36.
Việc tŕnh bày sứ điệp Tin Mừng không
phải là một sự đóng góp tùy ư: đó là
bổn phận thuộc về Giáo Hội, do uỷ
nhiệm của Chúa Giêsu, ngơ hầu nhân loại có
thể tin và được cứu rỗi. Vâng, sứ
điệp này là cần thiết. Nó là duy nhất. Nó
không thể bị thay thế. (Evangelii
Nuntiandi, n. 5) 37.
Chúng ta được sai đi: phục vụ sự
sống đối với chúng ta không phải là
một lư do kiêu căng, nhưng là một bổn
phận phát sinh từ việc ư thức ḿnh là "dân
riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những
kỳ công của Người" (x. 1 Pr 2, 9). Luật t́nh
yêu hướng dẫn chúng ta và nâng đỡ chúng ta
trên đường đi, t́nh yêu mà Con Thiên Chúa làm người
là nguồn mạch và kiểu mẫu, Người là
Đấng đă chết để ban cho thế gian
được sống" (x. Sách lễ Roma, kinh
chủ tế đọc trước lúc rước
lễ) Chúng
ta được sai như một dân. Sự dấn thân
phục vụ sự sống liên quan mỗi một người.
Đó là một trách nhiệm thật "giáo hội",
đ̣i hỏi hành động thống nhất và
quảng đại của tất cả mọi thành
phần và tất cả mọi cơ quan cộng đồng
Kitô hữu. Nhưng, bổn phận chung không loại
trừ và không giảm thiểu trách nhiệm riêng cá nhân,
bởi v́ với từng người Chúa gởi đến
mệnh lệnh này là "làm người thân cận
của mọi người :" Ông hăy đi và cũng
hăy làm như vậy" (Lc 10, 37). (Evangelium
vitae, n. 79) 38.
Tất cả cùng chung, chúng ta cảm thấy bổn
phận loan báo Tin Mừng sự sống, cử hành Tin
Mừng trong phụng vụ và trong tất cả
cuộc sống, phục vụ Tin Mừng bằng
những sáng kiến và những cơ chế khác
biệt nhau với mục đích nâng đỡ và
cổ vơ Tin Mừng. (Evangelium
vitae, n. 79) CHƯƠNG
II
I.
Phẩm Giá Của Con
Người 39.
Thật vậy, việc dạy và phổ biến
học thuyết xă hội của Giáo Hội, tuỳ thưộc
sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội,
đó là một phần chính yếu của sứ
vụ Kitô giáo, bởi v́ học thuyết này tŕnh bày
những hậu quả trực tiếp của sứ
điệp ấy trong đời sống xă hội và
đặt việc lao động hằng ngày và sự
tranh đấu cho công b́nh vào trong khuôn khổ của
sự làm chứng cho Chúa Kitô Cứu Thế. Học
thuyết đó cũng là nguồn mạch sự
hiệp nhất và hoà b́nh trước những xung
đột phát xuất chắc chắn trong lănh vực
kinh tế và xă hội. Như vậy, có thể
sống những hoàn cảnh mới mà không làm giảm
giá trị siêu việt của con người, không
ở trong chính con người, cũng không ở nơi
kẻ thù, và có thể t́m ra con đường cho
những giải pháp đúng. (Centesimus
Annus, n. 5) 40.
Đó mới là tại sao ngày nay Giáo Hội có một
lời để nói, như cách đây 20 năm, và
trong tương lai nữa, về bản tính, về
những điều kiện, về những yêu cầu
và những mục đích của sự phát triển chính
hiệu, và cũng về những trở ngại ngăn
cản sự phát triển đó. Làm được như
vậy, Giáo Hội hoàn thành sứ vụ rao giảng
Tin Mừng của ḿnh, bởi v́ Giáo Hội mang đến
sự đóng góp đầu tiên của ḿnh để
giải quyết vấn đề cấp bách của
sự phát triển, khi Giáo Hội công bố chân lư
về Chúa Kitô, về chính ḿnh và về con người,
bằng cách áp dụng chân lư đó vào một hoàn
cảnh cụ thể (x.
Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Hội Đồng
Chung lần thứ ba của các Giám Mục Châu Mỹ
Latinh, 1979). Khí
cụ Giáo Hội sử dụng để đạt
mục đích này là học thuyết xă hội của
ḿnh. Trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay, muốn
biệt đăi việc phát biểu phải phép các
vấn đề cũng như giải pháp tốt
nhất của chúng, th́ điều rất hữu ích là
có được một sự hiểu biết chính xác
hơn và bảo đảm một sự phổ
biến sâu rộng hơn về "toàn thể
những nguyên tắc suy tư và những tiêu chuẩn
phán đoán, và c̣n những chỉ dẫn hành động"
được đề xướng trong huấn giáo
của Giáo Hội (Libertatis conscientia, n. 72; Octogesima Adveniens, n. 4). Như
vậy người ta nhận thấy ngay rằng
những vấn đề phải đương đầu,
trước hết có tính luân lư, và sự phân tích
vấn đề phát triển như thế đó, cũng
như những phương thế vượt thắng
những khó khăn hiện tại, không thể loại
bỏ chiều kích chủ yếu này. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 41) 41.
Trong sự sống con người, h́nh ảnh Thiên Chúa
sáng chói lại và tự biểu lộ trong tất
cả sự viên măn của nó khi Con Chúa đến
trong thân xác con người; "Người là h́nh
ảnh Thiên Chúa vô h́nh" (Cl 1, 15), "Người là
phản ảnh vẻ huy hoàng, là h́nh ảnh trung
thực của bản thể Thiên Chúa" (Dt 1, 3). Người
là h́nh ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. (Evangelium
vitae, n. 36) 42.
Nếu ta nh́n về tận nguồn gốc và vận
mệnh con người, mới thấy được nét
cao cả của phẩm giá con người: được
sáng tạo theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa, và
được cứu chuộc bằng Máu châu báu
của Đức Kitô, con người được kêu
gọi làm "con trong Người Con", và là đền
thờ sống động của Chúa Thánh Thần, và
được dành cho sự sống đời đời
trong sự kết hiệp hồng phúc với Thiên Chúa.
Do đó, mọi xúc phạm đến phẩm giá
của mỗi ngôi vị con người đều kêu
gào được Thiên Chúa báo oán, và là sự xúc
phạm đến Đấng sáng tạo con người. (Christifideles
Laici, n. 37) 43.
Nếu chúng ta xem xét phẩm giá con người dưới
ánh sáng các chân lư do Chúa mặc khải, chúng ta chỉ
có thể nâng nó lên cao hơn nữa. Con người
được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô Giêsu,
nhờ ân sủng được làm con và bạn
hữu Thiên Chúa và được lập nên những
kẻ thừa hưởng gia tài vinh quang muôn đời. (Pacem
in Terris, n. 10) 44.
Dựa trên đức tin ấy, Giáo Hội có thể
cứu gỡ phẩm giá của bản tính con người
khỏi mọi trào lưu tư tưởng di động
không ngừng giữa sự khinh dể và tôn sùng thái
quá đối với thân xác con người. Không
một luật lệ nhân bản nào có thể bảo
đảm phẩm vị và tự do con người cách
thích đáng bằng Tin Mừng Chúa Kitô, đă
được trao phó cho Giáo Hội (x. Rm 8, 14). Tin
Mừng này loan báo và công bố sự tự do của
con cái Thiên Chúa, phủ nhận mọi h́nh thức nô
lệ, v́ mọi ách nô lệ rốt cuộc đều
bởi tội mà ra. Tin Mừng tôn trọng triệt
để phẩm giá và quyết định tự do
của lương tâm, lại không ngừng nhắc
nhở phát huy mọi tài năng để phụng
sự Thiên Chúa và mưu ích cho mọi người. Sau
hết, Tin Mừng c̣n dạy mọi người
phải thương yêu nhau (x. Mt 22, 39). Những điều
đó phù hợp với luật căn bản trong
nhiệm cuộc cứu rỗi của Kitô giáo. V́, tuy
Thiên Chúa vừa là Đấng Cứu Độ,
vừa là Đấng Tạo Dựng, vừa làm Chủ
lịch sử nhân loại, vừa làm Chủ lịch
sử cứu rỗi, nhưng trong chương tŕnh
của Thiên Chúa, sự tự trị đúng mức
của tạo vật và nhất thiết là của con
người không hề bị huỷ diệt, trái
lại c̣n được phục hồi và củng
cố trong phẩm giá riêng. Vậy,
Giáo Hội dựa vào Phúc Âm đă được
uỷ thác cho ḿnh mà công bố những quyền
lợi của con người, nh́n nhận và tôn
trọng năng động của thời hiện đại
đang cổ vơ những quyền lợi ấy khắp
nơi. Tuy nhiên những trào lưu ấy phải
được thấm nhuần tinh thần Phúc Âm và
phải được bảo vệ cho khỏi
nhiễm mọi h́nh thức tự trị sai lầm.
Thực vậy, chúng ta dễ bị cám dỗ nghĩ
rằng các quyền lợI của chúng ta chỉ
được duy tŕ trọn vẹn khi trút bỏ
mọi Luật lệ của Thiên Chúa. Nhưng thực
ra, đó là đường lối làm cho phẩm giá
con người chẳng những không được duy
tŕ mà c̣n bị tiêu tan đi. (Gaudium
et Spes, n. 41) 45.
Điều phải được kể đến,
đó là phẩm giá ngôi vị con người, mà Đấng
Sáng Tạo đă giao phó cho chúng ta phải bảo
vệ và khuyến khích, và những người nam và
nữ trong tất cả hoàn cảnh xă hội, có trách
nhiệm và mang nợ cách tuyệt đối đối
với phẩm giá đó. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 47) 46.
Phẩm giá của ngôi vị con người là một
giá trị siêu việt, luôn được công nhận
như thế bởi những kẻ quyết tâm t́m
kiếm chân lư. Tất cả lịch sử nhân
loại trên thực tế phải được
giải thích dưới ánh sáng của sự đích
thực này. Tất cả mọi người, được
dựng nên giống hỉnh ảnh và giống Chúa (x St
26-28) và như thế là hướng triệt để
về Đấng Sáng Tạo ḿnh, ở trong liên quan thường
xuyên với những ai cùng chung một bản tính.
Việc khuyến khích điều thiện của cá nhân
như vậy chung phần vào việc phục vụ công
ích, nơi nào những quyền lợi và những
bổn phận tương ứng và tăng cường
cho nhau. (Sứ
điệp ngày thế giới hoà b́nh, 1999, n. 2) 47.
Thật vậy, như thánh Phaolô viết, "ở
đâu có Thần Khí của Chúa, ở đó có tự
do" (2 Cr 3, 17). Mặc khải về sự tự do, và
như vậy là về phẩm giá đích thực
của con người, đạt được
sức thuyết phục lạ lùng cho các Kitô hữu và
Giáo Hội đang bị bắt bớ, hoăc trong các
thời kỳ xa xưa hoặc hiện nay, bởi v́
những chứng nhân của Chân Lư thần linh bấy
giở trở thành một bằng chứng sống
động qua hành động của Thần Khí Chân Lư,
hiện diện trong ḷng và lương tâm các tín
hữu, và không phải là hoạ hiểm việc các ngài
dùng sự tử đạo để chứng minh
phẩm giá con người đáng suy tôn tuyệt đỉnh. (Dominum et Vivificantem, n. 60) II. Tự Do Và Chân Lư
48. Vấn nạn luân lư đă nhận
được lời giải đáp của Đức
Kitô, không thể loại trừ vấn nạn về
tự do, nhưng đặt vấn nạn về tự
do vào ngay giữa trung tâm, bởi lẽ không có luân lư
nếu không có tự do. "Con người quay về
điều thiện luôn luôn trong t́nh trạng tự
do" (GS, n. 11) Thế nhưng tự do nào ? Những người
đương thời với chúng ta "rất ư
đề cao" tự do và "hăng say đeo đuổi"
tự do, nhưng lại thường "cưng
chiều tự do một cách thiếu ngay thẳng",
coi tự do như là quyền được làm bất
cứ điều ǵ, miễn sao tạo được
thoả thích, kể cả điều xấu". Đối
lại với họ, Công Đồng tŕnh bày tự do
thật như sau: "Tự do thật là dấu
chỉ đăi ngộ nơi con người chứng
tỏ con người là h́nh ảnh của Thiên Chúa.
Bởi v́ Thiên Chúa đă muốn để cho con người
tự bàn hỏi với chính ḿnh (x. Hc 15, 14) ngơ hầu
con người có thể tự ḿnh t́m kiếm Đấng
Tạo Hoá và nhờ gắn bó với Ngài một cách
tự do mà đạt mức thành toàn trong một t́nh
trạng viên măn chân phúc" (GS, n. 17). Nếu trong hành
tŕnh truy tầm chân lư, ḿnh có quyền được
tôn trọng, th́ trước đó mọi người
đều đă có bó buộc luân lư nghiêm trọng là
phải t́m kiếm chân lư, và một khi đă nhận
biết chân lư, phải gắn bó với chân lư. (Veritatis Splendor, n. 34) 49. Sự tự do tự bản tính nó là
nội tại đối với con người, đồng
bản tính với con người, là dấu riêng
biệt của bản tính con người. Thật
vậy sự tự do con người t́m thấy
nền tảng ḿnh trong phẩm giá siêu việt con người:
một phẩm giá được Thiên Chúa, Đấng
Sáng Tạo ban cho, và hướng con người về
Chúa. Con người, v́ được
dựng nên giống h́nh ảnh Chúa (x. St 1, 27), không chia
cắt khỏi sự tự do, sự tự do mà không
một quyền lực nào hay một sự cưỡng
bức nào bên ngoài có thể tước đoạt,
sự tự do đó làm thành một quyền cơ
bản của con người, với tư cách cá nhân
như thành phần xă hội. Con người có tự
do bởi v́ nó có khả năng tự quyết định
về sự lành và sự dữ. (Sứ điệp cho ngày thế
giới hoà b́nh, 1981, n. 5) 50. Chúa Giêsu Kitô đi gặp con người
của mọi thời đại, kể cả của
thời đại chúng ta, cũng với những
lời nói này: "Các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8,
32). Những lới nói đó chứa đựng
một yêu sách cơ bản và đồng thời
một cảnh cáo: yêu sách sống lương thiện
đối với chân lư như điều kiện
của một tự do đích thực; và c̣n là sự
cảnh cáo tránh tất cả những tự do giả
trá, tất cả những tự do hời hợt và
một chiều, tất cả những tự do không
đi tới cùng sự thật về con người và
về thế giới. (Redemptor Hominis, n. 12) 51. Nhưng sự tự do không những
là một quyền người ta đ̣i hỏi cho ḿnh,
đó là một bổn phận người ta phải gánh
vác đối với mọi người khác. Muốn
thực sự phục vụ hoà b́nh, sự tự do
của mỗi người và của mỗi cộng
đồng nhân bản phải tôn trọng những
tự do và những quyền lợi những kẻ khác,
cá nhân hay tập thể. Trong phương diện này
sự tự do bị hạn chế, nhưng nó cũng
gặp được sự hợp lư (logique) của nó
và giá trị của nó, bởi v́ con người
tự bản tính là một hữu thể xă hội. (Sứ điệp ngày thế giới hoà
b́nh, 1981, n. 7) 52. Tự do không phải là muốn nói ǵ
th́ nói, muốn làm ǵ th́ làm. Quan niệm "con người
là một chủ thể tự do, tự túc tự măn,
chỉ cần lo cho lợi ích riêng ḿnh bằng cách lo hưởng
thụ các lạc thú trần thế là điều sai
lầm "(Libertatis Conscientia, n. 13). Mặt khác,
Những điều kiện về kinh tế và xă
hội, chính trị và văn hoá cần thiết để
thực thi tự do cách chính đáng, lắm khi bị
phủ nhận và vi phạm. Những sự mù quáng và
bất công này làm băng hoại đời sống luân
lư và tạo dịp cho kẻ mạnh cũng như người
yếu phạm tội nghịch đức ái. Khi xa ĺa
luật luân lư, con người làm thương tổn
tự do của chính ḿnh, làm nô lệ cho tính ích
kỷ, cắt đứt t́nh huynh đệ với
đồng loại và nổi loạn chống lại ư
Chúa. (CEC, n. 1740) 53. Dầu vậy, Đấng Sáng
Tạo thế giới đă ghi khắc trật tự
trong đáy ḷng con người: trật tự mà lương
tâm mặc khải cho con người và dạy con ngưởi
biết kính trọng: "Họ cho thấy là điều
ǵ luật đ̣i hỏi, th́ đă được ghi
khắc trong ḷng họ, lương tâm họ cũng
chứng thực điều đó" (Rm 2, 15). Làm sao mà
không phải như vậy được, bởi v́
tất cả những công tŕnh của Chúa phản
ảnh sự khôn ngoan vô cùng của Người, và các
công tŕnh đó càng cao trong thang các sự vật, th́
phản ảnh càng rơ ràng sự khôn ngoan ấy (x. Tv
18, 8-11). (Pacem in Terris, n. 5) 54. Theo ư định của Thiên Chúa,
mỗi người được kêu gọi tự phát
triển bởi v́ tất cả sự sống là ơn
gọi. Từ mới sinh, tất cả đều
được ban cho, c̣n manh nha, một tổng hợp
những bẩm tính và những năng lực phải làm
cho nẩy nở: sự nẩy nở những thứ
đó, hoa quả của giáo dục nhận lănh từ
môi trường và cố gắng cá thể, sẽ cho
phép mỗi người hướng về vận
mạng mà Đấng Sáng Tạo định cho họ.
Được ban cho trí tuệ và quyền tự do, con
người chịu trách nhiệm về sự lớn lên
của ḿnh, cũng như về phần rỗi của
ḿnh. Được trợ giúp, thỉnh thoảng
bị trở ngại bởi những kẻ giáo dục
ḿnh và bao vây ḿnh, mỗi một người vẫn là
tác giả chính tạo thành công hay thất bại
của ḿnh, mặc cho những ảnh hưởng ǵ tác
động trên nó: duy chỉ nhờ cố gắng
của lư trí và ư chí ḿnh, mà mỗi người có
thể lớn lên trong nhân đạo, có giá trị hơn,
làm người hơn. (Populorum progressio, n. 15) 55. Sau cùng, khi đă hoàn tất trên thánh
giá công tŕnh cứu chuộc, nhờ đó mà con người
được ơn cứu rỗi và sự tự do
thật, Người đă hoàn thành mặc khải
của Người. Người đă làm chứng cho
chân lư, nhưng Người không muốn dùng quyền
áp đặt chân lư trên những kẻ chống đối
Người. Nước Người, thật vậy, không
được bảo vệ bằng gươm giáo, nhưng
Nước đó được thiết lập
bằng cách nghe chân lư và làm chứng cho chân lư, Nước
đó lan rộng nhờ t́nh yêu qua đó Chúa Kitô,
bị treo lên thánh giá, lôi kéo tất cả mọi người
đến với Người (x. Ga 12, 32). (Dignitatis Humanae, n. 11) 56. Sau cùng, sự tự do thật không
được xúc tiến ǵ hơn trong một xă
hội rộng phép (société permissive), một xă hội
lầm lẫn sự tự do với quyền được
làm bất cứ sự chọn lựa nào và lấy
danh nghĩa tự do mà tuyên bố một chủ
thuyết vô luân nói chung. Đây là đề ra một
sự tự do bù nh́n, khi cho rằng con người có
tự do tổ chức đời sống ḿnh mà không
cần qui chiếu tới những giá trị luân lư, và
xă hội không có trách nhiệm bảo vệ và
khuyến khích những giá trị đạo đức.
Một thái độ như thế là phá hoại
tự do và hoà b́nh. (Sứ điệp ngay thế giới hoà
b́nh, 1981, n. 7) 57. Và Giáo Hội không không biết
sự nguy hiểm của chủ thuyết cuồng tín,
hay trào lưu chính thống (fondamentalisme) về phía
những người nhân danh một ư thức hệ cho
ḿnh là có tính khoa học và tôn giáo, cho ḿnh có quyền
áp đặt trên kẻ khác quan niệm của ḿnh
về tự do và sự thiện. Chân lư Kitô giáo không
thuộc loại này. V́ không phải là một ư
thức hệ, đức tin Kitô giáo không chút nào
muốn nhốt thực tại xă hội hoặc chính
trị hay thay đổi trong khuôn khổ một
kiểu mẫu cứng nhắc, và đức tin Kitô giáo
nh́n nhận rằng sự sống con người
thực hiện trong lịch sử bằng những cách
thức khác biệt và bất toàn. Tuy nhiên Giáo Hội,
v́ luôn tái khẳng định giá trị siêu việt
của con người, lấy sự tôn trọng
quyền tự do làm chương tŕnh hành động
của ḿnh. (Centesimus Annus, n. 46) 58. Nền dân chủ không thể có
được mà không có một sự dấn thân chia
sẻ đối với một số chân lư luân lư
về con người và về cộng đồng nhân
loại. Vấn đề cơ bản một xă
hội dân chủ phải tự đặt cho ḿnh là:
"Chúng ta phải sống với nhau cách nào ? Khi t́m câu
trả lời cho câu hỏi này, xă hội có thể
loại trừ chân lư luân lư và sự lư luận luân lư
chăng ?… Mỗi một thế hệ…. phải
biết rằng tự do không phải là muốn làm theo
ư ḿnh, nhưng có quyền làm cái ǵ thuộc bổn
phận ḿnh. Chúa Kitô xin chúng ta giữ ǵn chân lư
bởi v́, như Chúa đă hứa với chúng ta: "Các
ông sẽ biết sự thật, và sự thật
sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32). Hăy bảo toàn
giáo lư đă được giao phó cho anh ! (Depositum
custodi !) Chúng ta phải giữ chân lư, v́ chân lư là
điều kiện của sự tự do chân chính, chân
lư cho phép thực hành sự tự do trong ḷng nhân
từ. Chúng ta phải giữ chân lư Chúa đă giao phó
cho chúng ta trong Giáo Hội, cách riêng trước
những thách đố mà một nền văn hoá
vật chất và một năo trạng hơi rộng phép
nêu lên bắt sự tự do phục tùng sự cho phép. (Giaon Phaolo II, Bài giảng tại Baltimore,
nn. 7-8) 59. Nhưng nguời ta không thể không
biết những qui định nhiều vô số,
bắt buộc sự tự do của từng cá nhân
phải hành động y như vậy; chắc là
những qui định đó ảnh hưởng
tới sự tự do, nhưng không quyết định
sự tự do; những qui định đó biến
việc thực thi sự tự do thành nhiều hay ít
dễ dàng, nhưng không thể tiêu huỷ. Không
những người ta không có quyền phủ nhận,
trên phương diện đạo đức, bản tính
con người được sinh ra v́ tự do, nhưng
trên thực tế, điều đó cũng không
thể xảy ra được. Nơi nào xă hội
tự tổ chức mà tùy tiện giảm thiểu hay
thậm chí huỷ bỏ môi trường trong đó
quyền tự do thực thi cách hợp pháp, th́ hậu
quả là sự sống xă hội tan ră từ từ và
tàn tạ. (Centesimus Annus, n. 25) III. Bản Tính Xă Hội Của Con Người
60. Lấy t́nh Cha săn sóc mọi người,
Thiên Chúa đă muốn rằng tất cả mọi người
phải làm thành một gia đ́nh và đối xử
với nhau bằng t́nh huynh đệ. Bởi v́ mọi
người được tạo dựng giống h́nh
ảnh của Thiên Chúa là Đấng đă "cho
tất cả nhân loại do một nguyên tổ cư
ngụ trên khắp mặt đất" (Cv 17, 26), nên
họ đều được gọi tới cùng
một cứu cánh duy nhất là chính Thiên Chúa. Do đó
yêu mến Thiên Chúa và anh em là giới răn thứ
nhất và trọng nhất. Thánh Kinh dạy ta rằng t́nh
yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời với t́nh
yêu anh em: "… nếu có điều răn nào khác
đi nữa cũng gồm tóm trong lời này: hăy yêu
thương anh em như chính ḿnh. Thương yêu là chu
toàn luật pháp vậy" (Rm 13, 9-10; x. 1 Ga 4, 10). Điều
nói trên cũng được nhận là quan trọng
nhất đối với con người mỗi ngày
một lệ thuộc nhau hơn cũng như đối
với thế giới ngày càng hiệp nhất lại.
Hơn nữa, khi cầu nguyện với Chúa Cha: "Xin
cho mọi người nên một, như chúng ta là
một" (Ga 17, 21-23), Chúa Giêsu mở ra những
viễn tượng mà lư trí con người không
thể tự đạt tới được. Như
vậy Chúa Giêsu đă nói lên một sự tương
tự nào đó giữa sự kết hợp của Ba
Ngôi Thiên Chúa với sự kết hợp của các con
cái Chúa trong chân lư và đức ái. Sự tương
tự này cho thấy con người, tạo vật duy
nhất ở trần gian được Thiên Chúa
dựng nên cho chính họ, chỉ có thể gặp
lại chính bản thân ḿnh nhờ thành thực
hiến thân (x. Lc 17, 33) Đặc tính xă hội của
con người cho thấy rơ sự thăng tiến
của con người và sự phát triển xă hội
lệ thuộc nhau. Thực vậy, nhân vị chính là và
phải là nguyên lư, chủ thể và cứu cánh
của mọi định chế xă hội. Cho nên v́
đời sống xă hội đối với con người
không phải là một cái ǵ phụ thuộc, do đó
nhờ trao đổi với người khác, nhờ
phục vụ lẫn nhau và nhờ đối thoại
với anh em, con người được tăng
triển mọi khả năng của ḿnh và có thể
đáp ứng được thiên chức của ḿnh. (Gaudium et Spes, nn 24-25) 61. Theo nguyên tắc cơ bản của
quan niệm này- cũng như suy ra từ tất cả
những ǵ chúng ta đă nói tới đây- những
hữu thể nhân bản là và phải là nền
tảng, mục đích và chủ thể của tất
cả mọi định chế biểu lộ sự
sống xă hội. Mỗi một người, đă là
điều ǵ ḿnh là, phải được quí
trọng theo bản tính xă hội nội tại của
nó và trên chương tŕnh Chúa quan pḥng đưa
họ lên trật tự siêu nhiên. (Mater et Magistra, n. 219) 62. Có những mối liên hệ xă
hội đáp ứng trực tiếp được
bản tính sâu xa của con người, đó là gia
đ́nh và nhà nước. Chúng cần thiết cho con người.
Để đa số có thể tham gia đời
sống xă hội, nên khuyến khích thành lập các
hiệp hội và những tổ chức nhằm các
mục đích kinh tế, văn hoá, xă hội, thể
thao, giải trí, nghề nghiệp, chính trị trên b́nh
diện quốc gia cũng như quốc tế. (MM, n.
60). Công cuộc "xă hội hoá" này đặt
nền tảng trên xu hướng tự nhiên thúc đẩy
con người hợp tác với nhau, để đạt
tới những mục tiêu vượt quá khả năng
của từng người. Công cuộc này giúp phát
triển các đức tính của con người,
nhất là óc sáng kiến và tinh thần trách nhiệm,
cũng như giúp bảo đảm các quyền của
con người (GS, n. 25; CA, n. 12). ( CEC, n. 1882) 63. Nhưng mỗi người là thành
phần xă hội: nên tùy thuộc vào toàn thể nhân
loại. Không những là người này hay người
kia mà thôi, nhưng tất cả mọi người
đều được kêu gọi phát triển đầy
đủ như thế đó. Những nền văn
minh sinh ra, lớn lên và chết. Nhưng, cũng như
những đợt sóng thuỷ triều dâng lên,
chảy vào xa hơn một chút trên băi cát, cũng
vậy nhân loại tiến tới trên con đường
lịch sử. Là những kẻ thừa kế của
những thế hệ đă qua và thừa hưởng
công tŕnh của những kẻ đồng thời, chúng
ta có những bổn phận đối với mọi
người và chúng ta không thể làm ngơ những
kẻ sẽ đến sau chúng ta và mở rộng
phạm vi gia đ́nh nhân loại. T́nh liên đới
phổ quát là một thực tại, và là một
lợi ích cho chúng ta, nó cũng là một bổn
phận. (Populorum progressio, n. 17) 64. Trừ gia đ́nh ra, những nhóm xă
hội trung gian khác hoàn thành những vai tṛ sơ đẳng
và thực hiện những mạng lưới liên
đới riêng biệt. Những nhóm này đạt
tới sự thành thục của những cộng đồng
nhân vị thật sự và phân bố thần kinh
tới mô xă hội (tissu social), bằng cách ngăn
cản nó rơi vào trong tính phi nhân cách và tính vô danh
của quần chúng, vô phúc thay những sự kiện
này thường xảy ra trong xă hội hiện nay. Chính
trong sự chồng chéo của những quan hệ đa
dạng là nơi sống của con người và là nơi
phát triển "nhân cách" của xă hội. Cá nhân
con người ngày nay thường bị nghiền nát
giữa hai cực Nhà Nước và thị trường.
Thật vậy, thỉnh thoảng cá nhân xem ra chỉ
hiện hữu như kẻ sản xuất va tiêu
thụ những hàng hoá, hay là như kẻ bị
trị của Nhà Nước, mà người ta quên
rằng sự hoà đồng (convivialité) không có cùng
đích là Nhà Nước và thị trường,
bởi v́ tự nó, nó có một giá trị duy nhất
mà Nhà Nước và thị trường phải
phục vụ. Con người trước tiên là
một hữu thể t́m kiếm chân lư và ra sức
sống theo chân lư này, và nghiên cứu sâu xa chân lư
đó trong một cuộc đối thoại liên
tục bao gồm các thế hệ đă qua và sẽ
đến. (Centesimus Annus, n. 49) 65. Ngược lại, từ quan
niệm Kitô giáo về con người, mà phát sinh cách
khẩn thiết một quan điểm đúng về xă
hội. Theo Rerum Novarum và toàn bộ học thuyết xă
hội của Giáo Hội, đặc tính xă hội
của con người không tiêu hao trong Nhà Nước,
nhưng nó tự thực hiện trong những nhóm trung
gian khác biệt, từ gia đ́nh cho chí những nhóm
kinh tế, xă hội, chính trị và văn hoá, v́
xuất phát từ cùng một bản tính con người,
nên có - luôn trong khuôn khổ công ích - nền tự
trị riêng của ḿnh. Đó là điều tôi đă
gọi là "nhân cách" xă hội, điều mà
với cá tính cá nhân, đă bị "chủ
thuyết xă hội thứ thiệt" loại trừ
hẳn. (Centesimus Annus, n. 13) IV. Nhân Quyền
66. Tất cả mọi người có quyền sống,
toàn vẹn thể lư, có những phương tiện
cần thiết và đủ để sống xứng
đáng, nhất là trong những ǵ liên quan tới
thức ăn, đồ mặc, nơi ở, nghỉ ngơi,
những chăm sóc thuốc men, những dịch vụ
xă hội. Do đó, con người có quyền
được an toàn trong lúc bệnh hoạn, khuyết
tật, goá bụa, già cả, thất nghiệp và
mỗi khi thiếu những phương tiện sinh
sống do những hoàn cảnh ngoài ư muốn của nó.
(Pacem tin Terris, n. 11) 67. Sau cuộc sụp đổ chủ nghĩa cực
quyền cộng sản và nhiều chế độ
cực quyền khác và chế độ "an ninh
quốc gia", hiện nay người ta chứng
kiến, không phải là không có đấu tranh, sự
thành công lư tưởng dân chủ trong thế giới,
đi đôi với sự lưu tâm nhiều và lo
lắng nhiệt t́nh cho những quyền lợi con người.
Nhưng chính v́ muốn đi trong chiều hướng
này, điều cần thiết là các dân đang
cải tổ những cơ chế của ḿnh, phải
làm cho nền dân chủ có một nền tảng đích
thực và vững chắc nhờ sự hiểu
biết rơ ràng những quyền này (x. Redemptoris Hominis,
n. 17). (Centesimuc Annus, n. 47) 68. Nền tảng của mọi xă hội có qui củ
và phong phú, đó là nguyên lư tất cả mọi con người
đều là nhân vị, nghĩa là một bản tính
có lư trí và ư chí. Do đó, con người có những
quyền và những nhiệm vụ, cả hai phát
xuất, một lượt và tức khắc, từ
bản tính con người: cho nên những quyền và
trách nhiệm đó có tính phổ quát, bất khả xâm
phạm, không thể đổi chác. (Pacem in Terris, n. 9) 69. Nếu những quyền con người bị xúc
phạm trong thời b́nh, th́ điều đó trở nên
thật đáng buồn; về phương diện phát
triển, điều đó nói lên một hiện tượng
không thể hiểu tranh đấu chống lại con
người, và sự kiện này không thể nào phù
hợp với một chương tŕnh nào tự xưng
là "nhân đạo" (humaniste). (Redemptoris Hominis, n. 17) 70. Quyền cơ bản khác của con người, là
sự bảo vệ pháp lư những quyền lợi riêng
của con người, sự bảo vệ hiệu
nghiệm, b́nh đẳng cho mọi người và
xứng hợp với những quy luật khách quan phép
công b́nh: "Từ trật tự pháp lư, như Chúa
muốn, phát sinh cho con người, quyền không
thể nhượng này, thứ quyền bảo đảm
cho mỗi người sự an toàn pháp lư và một
phạm vi cụ thể những quyền, được
bảo vệ khỏi tất cả xâm lấn tùy
tiện " (Piô XII, Sứ điệp Giáng Sinh, 1942). (Pacem in Terris, n. 27) 71. Tôn trọng nhân vị gồm cả việc tôn
trọng các quyền phát sinh từ phẩm giá của
thụ tạo là con người. Các quyền này không
do xă hội ban cho và xă hội phải công nhận chúng.
Các quyền ấy là cơ sở để mọi
quyền bính có được hợp pháp về
mặt luân lư. Khi chà đạp hay phủ nhận các
quyền ấy trong luật pháp hiện hành của ḿnh
th́ xă hội tự phá hoại tính hợp pháp về
mặt luân lư của chính ḿnh (Pt. n. 65). Không có sự
tôn trọng nhân vị, quyền bính chỉ có thể
dựa trên sức mạnh hay bạo lực, để
bắt buộc các thành viên phải phải tùng
phục. Hội Thánh phải nhắc nhở những người
thiện chí về những quyền này và phân biệt
chúng với những đ̣i hỏi quá đáng hay sai
lầm. (CEC, n. 1930) 72. Và một khi các quy luật đời sống
tập thể được viết bằng những
từ ngữ chỉ những quyền và những trách
nhiệm, con người tự mở ra đối
với những giá trị thiêng liêng và hiểu
được chân lư, công lư, t́nh yêu, tự do, là ǵ
; họ mới thấy ḿnh thuộc về một xă
hội có trật tự này. Vả lại, họ hướng
về việc hiểu biết hơn Thiên Chúa chân
thật, siêu việt và ngôi vị. Bấy giờ
những tương quan của họ với Chúa
được họ xem như là chính nền tảng
của sự sống, sự sống thân t́nh sống nơi
bí ẩn linh hồn và của sự sống mà họ
sống trong đoàn thể với kẻ khác. (Pacem in Terris, n. 45) 73. Những hiệp hội tư chỉ hiện hữu
trong ḷng xă hội dân sự mà chúng là như các thành
phần vậy. Tuy nhiên không v́ đó mà Nhà Nước
có quyền phủ nhận sự hiện hữu của
chúng, đó là chỉ nói cách chung và chỉ xem xét
bản tính của chúng. Quyền hiện hữu chính
thiên nhiên đă ban cho chúng, và xă hội dân sự
đă được thiết lập để bảo
vệ quyền thiên nhiên, chớ không phải để
huỷ bỏ. Do đó, một xă hội dân sự nào
ngăn cấm những hiệp hội tư th́ tự
tấn công ḿnh, bởi v́ tất cả mọi xă
hội, công hay tư, phát sinh từ một nguyên lư: tính
xă giao tự nhiên của con người. (Rerum Novarum, n. 51) 74. Trong sự sống xă hội, tất cả mọi
quyền được ban cho một nhân vị do thiên
nhiên, th́ tạo nên một bổn phận nơi
những kẻ khác, bổn phận nh́n nhận và tôn
trọng quyền này. Tất cả mọi quyền
cốt yếu của con người thật sự vay mượn
quyền lực sai khiến của nó từ luật thiên
nhiên, luật thiên nhiên này ban cho quyền đó và ra
luật buộc tương ứng. Những kẻ
muốn đ̣i hỏi quyền của ḿnh, mà lại quên
đi bổn phận ḿnh hay chỉ chu toàn bổn
phận cách bất toàn, th́ liều ḿnh phá đổ
bằng một tay điều ǵ ḿnh xây dựng
bằng tay kia.. (Pacem in
Terris, n. 30) 75. Thật vậy, ngày nay phổ biến rộng răi ư
niệm b́nh đẳng tự nhiên của mọi người.
Cho nên, ít ra trên lư thyuết, người ta không c̣n
nghe sự thanh minh cho những kỳ thị chủng
tộc. Đó là phản chiếu một giai đoạn
quan trọng trên con đường đưa tới
một cộng đồng nhân loại, được
thiết lập trên nền tảng những nguyên lư chúng
tôi đă nhắc tới. Bây giờ, vừa khi con người
ư thức được các quyền của ḿnh, th́
tất nhiên nẩy ra trong con người ư thức
những trách nhiệm tương ứng: con người
phải phát huy các quyền riêng của ḿnh, v́, trước
hết, đó là bao nhiêu phát biểu về phẩm giá
của ḿnh, và tất cả những kẻ khác có trách
nhiệm công nhận và tôn trọng những quyền này.
(Pacem in Terris, n. 44) 76. Tất cả mọi người, đều
có một tâm linh và được dựng nên giống
h́nh ảnh Thiên Chúa, nên có một bản tính và cùng
một nguồn gốc ; hơn nữa v́ được
Chúa Kitô cứu chuộc nên họ đều được
mời gọi như nhau và cùng hưởng chung một
cùng đích nơi Thiên Chúa: càng ngày càng phải
nhận thức sự b́nh đẳng căn bản
giữa mọi người hơn. Dĩ nhiên mọi người
không bằng nhau v́ không có khả năng thể
chất như nhau và những năng lực trí tuệ
và tinh thần như nhau. Tuy nhiên phải vượt lên
trên và loại bỏ mọi h́nh thức kỳ thị
về những quyền lợi căn bản của con
người, hoặc trong phạm vi xă hội hoặc
trong phạm vi văn hoá, kỳ thị v́ phái tính,
chủng tộc, màu da, địa vị xă hội, ngôn
ngữ hay tôn giáo, v́ như vậy là trái với ư
định của Thiên Chúa. Do đó thực đáng
buồn khi những quyền lợi căn bản
của nhân vị cho đến nay vẫn chưa
được bảo đảm toàn vẹn ở
mọi nơi. Thí dụ, người ta không nh́n
nhận phụ nữ có quyền tự do chọn
lựa người chồng hay quyền tự do
chọn lựa bậc sống, hoặc quyền
được giáo dục và có văn hoá như nam
giới. Hơn nữa, dù có những khác biệt chính
đáng giữa con người với nhau, tuy nhiên nhân
phẩm như nhau của mọi người cũng
đ̣i hỏi người ta phải tiến tới
mức sống nhân đạo hơn và xứng hợp
với con người hơn. Thực vậy, những
chênh lệch quá đáng về kinh tế và xă hội
giữa những thành phần hay giữa những dân
tộc trong cùng một gia đ́nh nhân loại thực là
những gương xấu và đi ngược với
công bằng xă hội, lẽ phải, nhân phẩm và
nền hoà b́nh xă hội cũng như quốc tế. C̣n
các tổ chức của con người hoặc tư
hoặc công hăy nỗ lực phục vụ phẩm giá
cũng như cứu cánh của con người, đồng
thời hăy mạnh mẽ chống lại bất cứ
h́nh thức nô lệ nào trên phương diện xă
hội hay chính trị và bảo vệ những
quyền lợi căn bản của con người
trong bất cứ một chính thể nào. Hơn nữa,
các tổ chức ấy c̣n phải dần dần phù
hợp với những việc thiêng liêng là những
việc cao cả hơn hết, dù đôi khi phải
trải qua một thời gian khá lâu để đạt
tới mục đích hằng mong mỏi đó. (Gaudium et Spes, n. 29) 77. Cùng với sự giải phóng chính đáng nối
liền với việc rao giảng tin mừng, chỉ
muốn thực hiện những cấu trúc bảo
tồn quyền tự do con người, người ta
cần thiết phải bảo đảm tất cả
những quyền cơ bản của con người,
trong những quyền đó quyền tự do tôn giáo
chiếm chỗ quan trọng hàng đầu. (Evangelii Nuntiandi, n. 39) V. Tự Do Tôn Giáo
78. Thánh Công Đồng Vaticanô này tuyên
bố con người có quyền tự do tôn giáo.
Quyền tự do này hệ tại con người không
bị lệ thuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn
thể xă hội hay của bất cứ quyền bính
trần gian nào khác. Với ư nghĩa đó, trong lănh
vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động
trái lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm
hành động theo lương tâm, dù cho đó là hành
động riêng tư hay công khai, một ḿnh hay cùng
với người khác, trong những giới hạn chính
đáng. (Dignitatis Humanae, n. 2) 79. Chắc chắn sự hạn chế
quyền tự do tôn giáo của những nhân vị và
những cộng đồng, không những là một
kinh nghiệm đau buồn cho họ, nhưng nó xúc
phạm trước hết chính phẩm giá con người,
chưa nói tới tôn giáo mà những nhân vị và
những cộng đồng này tuyên xưng hay khái
niệm của họ về thế giới. Sự
hạn chế quyền tự do tôn giáo và sự xúc
phạm tôn giáo là trái nghịch với phẩm giá con
người và những quyền khách quan của con người…
không chút nghi ngờ, trong trường hợp này chúng
ta đang đứng trước một bất công hoàn
toàn tác động đến những ǵ thật sâu xa
trong con người, những ǵ là đích thực nhân
bản. (Redemptoris Hominis, n. 17) 80. Không một uy quyền nhân loại nào
có quyền can thiệp trong lương tâm của
bất cứ ai. Lương tâm là chứng nhân cho
sự siêu việt của nhân vị, ngay cả trước
mặt xă hội, và trong tư cách đó, lương tâm
không thể bị xúc phạm. Tuy nhiên, lương tâm
không phải là một tuyệt đối phải đặt
trên chân lư và sai lạc ; và cũng vậy, bản tính
nội tại của nó giả thiết một tương
quan với chân lư khách quan, phổ quát và b́nh đẳng
cho mọi người, mà mọi người có thể
và phải t́m kiếm. Trong tương quan này với chân
lư khách quan, quyền tự do lương tâm gặp
được sự biện minh của nó, tức là
một điều kiện cần thiết để t́m
chân lư xứng đáng với con người và là
sự gắn bó với chân lư một khi người ta
biết chân lư cách thích hợp. (Sứ điệp ngày thế giới hoà
b́nh, 1991, n. 1) 81. Cũng vậy nếu sứ vụ
của chúng ta là loan báo những chân lư chắc
chắn và một sự cứu rỗi cần thiết,
th́ sứ vụ ấy không thi hành bằng sự cưỡng
ép bên ngoài, nhưng chỉ bằng những con
đường hợp pháp của việc giáo dục
nhân bản, của việc thuyết phục bên trong,
của việc đàm thoại thông thường,
sứ vụ ấy cung hiến ân huệ cứu rỗi
của ḿnh, luôn biết tôn trọng tự do nhân
vị của những con người văn minh. (Ecclesiam suam, n. 75) 82. Trước hết, sự tự do tôn
giáo là một đ̣i hỏi bất khả nhượng
của mọi người, là một viên đá góc
trong toà nhà các quyền nhân bản; cho nên, sự
tự do tôn giáo là một nhân tố thiết yếu v́
lợi ích của các nhân vị và của toàn thể xă
hội, cũng như v́ sự phát triển cá thể
của mỗi người. Do đó mà đối
với từng cá nhân và các cộng đồng, sự
tự do tuyên xưng và thực hành tôn giáo ḿnh là
một yếu tố thiết yếu của việc
sống chung hoà b́nh giữa những con người. Hoà
b́nh, được xây dựng và củng cố trên
tất cả mức độ sống chung, cơ
bản dựa trên sự tự do và sự mở
rộng lương tâm đón chân lư. (Sứ điệp ngày thế giới hoà
b́nh, 1988, Nhập đề) 83. Tất cả những vấn đề
nhân linh được tranh căi nhiều nhất và
được giải quyết một cách khác biệt
nhau, đều gắn liền với một vấn
đề trọng yếu, là vấn đề tự do
của con người. Chắc hẳn rằng thời đại
chúng ta đă đạt tới một cảm nhận
hết sức mănh liệt và bén nhạy về tự
do. "Thời nay, phẩm giá con người là đối
tượng của một ư thức ngày càng mănh
liệt", theo như Công Đồng đă nhận
định trong tuyên ngôn Dignitatis Humanae về tự do tôn
giáo (Dignitatis Humanae, n. 1) Do đó mới có vấn đề
đ̣i lại cho con người quyền được
"hành động dựa theo những lựa chọn
riêng tư của ḿnh và trong tinh thần trách nhiệm
tự do thật sự, không phải dưới sức
ép của một cưỡng bức, nhưng được
huớng dẫn bởi ư thức về bổn phận
của ḿnh" (Dignitatis Humanae, n. 1). Cách riêng, quyền
tự do tôn giáo và tôn trọng lương tâm trong hành
tŕnh tiến đến chân lư ngày càng được
cảm nhận như là nền tảng của các
quyền lợi con người xét trong toàn thể (x.
Redemtoris Hominis, n. 17 ; Libertatis Conscientia, n. 19). (Veritatis
Splendor, n. 31) CHƯƠNG
III GIA Đ̀NH
I.
Cơ Chế Gia Đ́nh II.
Hôn Nhân III.
Con Cái Và Cha Mẹ IV.
Gia Đ́nh, Giáo Dục
Và Văn Hóa V.
Đặc Tính Thánh Thiêng
Của Sự Sống Nhân Linh VI.
Nạn Phá Thai Và Làm
Chết Êm Dịu VII.
Án Tử H́nh VIII.
Phẩm Giá Người
Nữ I.
Cơ
Chế Gia Đ́nh
84.
Bởi v́ Đấng Tạo Hoá đă đặt gia
đ́nh làm nguồn gốc và nền tảng cho xă
hội con người, nên gia đ́nh trở thành "tế
bào đầu tiên và sống động của xă
hội" (Apostolicam
Actuositatem, n. 11). Gia
đ́nh có những liên hệ chặc chẽ và
sống động với xă hội v́ nó làm thành
nền tảng cho xă hội và không ngừng tiếp
sức cho xă hội bằng việc phục vụ
sự sống : chính giữa ḷng gia đ́nh đă sinh
ra các công dân và chính trong gia đ́nh mà các công dân
ấy lần đầu tiên thực tập các nhân
đức xă hội, là linh hồn cho sinh hoạt và
sự phát triển xă hội. Như
thế, v́ bản chất và ơn gọi của nó,
thay v́ đóng khung trên chính ḿnh, gia đ́nh rộng
mở ra với những gia đ́nh khác và với xă
hội, và chu toàn vai tṛ xă hội của ḿnh. (Familiaris
Consortio, n. 42) 85.
Cấu trúc cơ bản đầu tiên đối
với "một sinh thái học nhân bản " là
gia đ́nh, trong ḷng gia đ́nh con người nhận
lấy những khái niệm quyết định liên
quan tới chân lư và sự thiện, trong gia đ́nh con
người học biết thế nào là yêu và
được yêu và, do đó, làm thành một nhân
vị cụ thể có nghĩa ǵ. Ở đây nói
tới gia đ́nh xây dựng trên hôn nhân, nơi sự
hiến thân hỗ tương của người nam và
người nữ tạo ra một môi trường
sống, trong đó đứa trẻ có thể sinh ra và
phát huy các khả năng của ḿnh, ư thức
được phẩm gia của ḿnh và chuẩn bị
đối phó với vận mạng độc nhất
và không thể thay thế của ḿnh. Ngược
lại, thường xảy ra việc con người không
muốn thực hiện những điều kiện
đích thực về việc sinh sản loài người,
và con người đi tới chỗ tự coi ḿnh và
coi chính mạng sống ḿnh như là một tổng
thể những cảm giác để hưởng
thụ chớ không như một công tŕnh phải hoàn
thành. Từ đó phát sinh sự thiếu tự do,
bắt phủ nhận nhiệm vụ ràng buộc ḿnh cách
vững bền với một người khác và
nhiệm vụ sinh con, hoặc là đưa tới
chỗ xem con cái như một trong những "sự
" nhiều này mà người ta có thể có hay không
có tuỳ theo sở thích của ḿnh, lại c̣n
cạnh tranh với những sự có thể khác.
Phải xem lại gia đ́nh như là cung thánh sự
sống. Thật vậy, gia đ́nh là thánh thiêng, nó là
nơi mà sự sống, hồng ân của Thiên Chúa, có
thể được tiếp nhận cách xứng
hợp và được bảo vệ khỏi nhiều
cuộc tấn công nó phải chịu đựng, gia
đ́nh là nơi sự sống có thể phát triển
theo những yêu sách thuộc sự lớn mạnh nhân
bản đích thực. Đôi với điều người
ta gọi là văn hoá sự chết, gia đ́nh là nơi
phát sinh văn hoá sự sống … (Centesimus
Annus, n. 39) 86.
Nhưng con người chỉ sống trong môi trường
xă hội của ḿnh, nơi gia đ́nh giữ một
vai tṛ chính. Vai tṛ này có thể thái quá, tuỳ
những thời gian và không gian, khi nó được
thực thi có hại cho những tự do cơ bản
của nhân vị. Thường quá thẳng nhặc và
kém tổ chức, những khung cảnh xă hội trong các
xứ đang phát triển vẫn c̣n cần thiết
trong một thời gian, tuy nhiên phải nới lỏng
từ từ ảnh hưởng quá đáng của nó.
Nhưng gia đ́nh tự nhiên, một vợ một
chồng và bền vững, như Thiên Chúa đă
ấn định và Kitô giáo đă thánh hoá, phải là
"nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ
giúp nhau đạt được một sự khôn
ngoan rộng lớn hơn và điều hoà các
quyền nhân vị với những yêu sách khác
thuộc đời sống xă hội" (GS, nn. 50-51) (Populorum
progressio, n. 36) 87.
Ở trong "dân của sự sống và v́ sự
sống", trách nhiệm của gia đ́nh có tính
quyết định: đó là một trách nhiệm
xuất phát từ chính bản tính của nó - là làm nên
một cộmg đồng sự sống và t́nh yêu, xây
dựng trên hôn nhân - và từ sứ vụ phải
"giữ ǵn, mặc khải và thông truyền t́nh yêu"
(Familiaris Consortio, n. 17). Chính t́nh yêu của Thiên Chúa mà
cha mẹ là những kẻ đuợc kêu mời
hợp tác và giải thích qua sự truyền thông
sự sống và trong việc giáo dục, theo ư định
của Cha (x. GS, n. 50) (Evangelium
vitae, n. 92) 88.
Là hạch nhân đầu tiên của xă hội, gia
đ́nh có quyền được hưởng mọi
sự nâng đỡ của Nhà Nước để hoàn
thành đầy đủ sứ vụ riêng của ḿnh.
Những luật pháp của Nhà Nước như
thế, phải được diễn đạt cách nào
để có thể khuyến khích những điều
kiện sống tốt cho gia đ́nh, giúp gia đ́nh chu
toàn những trách nhiệm riêng ḿnh. Trước cơn
cám dỗ ngày nay vẫn mănh liệt để hợp
thức hoá, như điều thay thế cho sự
phối hợp hôn nhân, những h́nh thức phối
hợp mà, do bản tính của chúng và đặc tính
tạm bợ của chúng, không thể nào biểu
lộ ư nghĩa gia đ́nh cũng không bảo đảm
lợi ích của nó, th́ một trong những bổn
phận đầu tiên của Nhà Nước là
khuyến khích và bảo vệ qui chế gia đ́nh
đích thực, tôn trọng gương mặt tự
nhiên cũng như những quyền bẩm sinh và không
thể thay thế của nó. (Sứ
điệp ngày thế giới hoà b́nh, 1994, n. 5) II.
Hôn
Nhân
89.
Theo ư định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền
tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn,
tức là gia đ́nh, v́ chính cơ chế hôn nhân và t́nh
yêu vợ chồng đều qui hướng về
việc truyền sinh và giáo dục con cái là triều
thiên của cơ chế và t́nh yêu ấy (x. GS, n. 50) (Familiaris
Consortio, n. 14) 90.
Theo ư định của Thiên Chúa, phái tính hướng
về t́nh yêu vợ chồng. Trong hôn nhân, ái ân
trở thành dấu chỉ và bảo đảm của
sự hiệp thông tinh thần. Giữa hai tín hữu, dây
liên kết hôn nhân được thánh hoá bằng bí tích. "Nhờ
khả năng t́nh dục, người nam và người
nữ hiến thân cho nhau qua những hành vi dành riêng cho
vợ chồng. T́nh dục không chỉ là hành vi sinh lư,
nhưng liên can đến những điều thâm sâu
nhất của nhân vị. Tính dục chỉ thực
sự xứng đáng với con người, khi nó là
thành phần không thể thiếu của t́nh yêu
giữa người nam và người nữ đă cam
kết hiến thân cho nhau trọn vẹn suốt đời"
(Familiaris
Consortio, n. 11) Những
hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật
và thanh khiết của đôi vợ chồng đều
cao quí và chính đáng. Được thi hành cách
thật sự nhân linh, những hành vi ấy biểu
hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ
đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan
lạc và biết ơn (GS, n. 49). Khả năng sinh
dục là nguồn vui và khoái lạc: "Chính
Đấng Sáng Tạo đă muốn rằng trong
nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng
cảm thấy một sự vui thú và thoả măn nơi
thân xác và tinh thần. V́ vậy vợ chồng
chẳng làm điều ǵ xấu xa khi t́m kiếm và
tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ
đón nhận những ǵ Đấng Sáng Tạo đă
ban cho. Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết
độ" (Piô XII,
diễn văn 29 Oct 1951). Nhờ
sự kết hợp của vợ chồng, hai mục
đích của hôn nhân được thực hiện:
lợi ích của chính đôi vợ chồng và lưu
truyền sự sống. Không thể tách rời hai ư
nghĩa hoặc hai giá trị này của hôn nhân mà không
làm biến chất đời sống tinh thần
của vợ chồng cũng như phương hại
đến lợi ích của hôn nhân và tương lai
của gia đ́nh. Như thế t́nh yêu vợ chồng
đ̣i hỏi người nam và người nữ
phải chung thuỷ vừa phải sẵn sàng đón
nhận con cái. (CEC
nn. 2360-2363) 91.
Đấng Tạo Hoá đă thiết lập và ban
những định luật riêng cho đời sống
chung thân mật và cộng đoàn t́nh yêu vợ
chồng. Đời sống chung này được
gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là
sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại. Như
vậy bởi một hanh vi nhân linh, trong đó, hai
vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận
nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh
một định chế vững chắc có giá trị
trước mặt xă hội nữa. V́ lợi ích
của lứa đôi, của con cái và của xă
hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không
lệ thuộc sở thích của con người. Chính
Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm
những lợi ích và mục tiêu khác nhau; những
điều ấy hết sức quan trọng đối
với sự tiếp nối nhân loại, sự phát
triển cá nhân và phần roi đời đời
của mổi thành phần trong gia đ́nh, quan trọng
đối với phẩm giá, sự vững chắc, an
b́nh và thịnh vượng của chính gia đ́nh và
của toàn thể xă hội loài người. Tự
bản chất, chính định chế hôn nhân và t́nh
yêu lứa đôi qui hướng về sự sinh
sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh
diễm phúc của hôn nhân. Như thế, bởi giao
ước hôn nhân, người nam và người
nữ "không c̣n là hai, nhưng là một xương
thịt" (Mt 19, 6), phục vụ và giúp đỡ
lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết
trong con người và hành động của họ,
cảm nghiệm và hiểu được sự
hiệp nhất với nhau mỗi ngày đầy đủ
hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là
sự tự hiến của hai người cho nhau cũng
như lợi ích của con cái buộc hai vợ
chồng phải hoàn toàn trung tín và đ̣i hỏi
kết hợp với nhau bất khả phân ly . (Gaudium
et Spes, n. 48) 92.
Một sự chia sẻ nào đó uy quyền của Thiên
Chúa cũng biểu lộ qua trách nhiệm riêng biệt
được phó thác cho con người đối
với sự sống thật sự nhân bản. Đó
là một trách nhiệm đạt chóp đỉnh khi người
nam và người nữ, trong hôn nhân, sinh ra sự
sống, như Công Đồng Vatican II nhắc nhở
:"Chính Thiên Chúa đă phán " Người đàn
ông ở một ḿnh không tốt" (ST2, 18) và ngay
từ đầu Thiên Chúa đă dựng nên con người
có nam có nữ (Mt 19, 4), đă muốn cho phép con người
tham gia đặc biệt trong công tŕnh sáng tạo; nên
Chúa đă chúc phúc người nam và người
nữ:"Hăy sinh sôi nẩy nở cho nhiều" (St
1, 28)" (GS, n. 50). Khi nói tới "một sự chia
sẻ đặc biệt của người nam và người
nữ vào "công tŕnh sáng tạo của Chúa, Công
Đồng muốn nhấn mạnh rằng sinh ra
một đứa con là một biến cố nhân linh sâu
xa và có tính tôn giáo cao, bởi v́ việc sinh ra đó
bao hàm đôi vợ chồng đă trở thành một
xương thịt" (St 2, 24), và cùng một lúc, chính
Chúa, qua sự hiện diện của Người. (Evangelium
vitae, n. 43) III.
Con
Cái Và Cha Mẹ
93.
Khi vợ chồng kết hợp sinh một con người
mới, con người mới đó mang vào thế
giới với ḿnh một h́nh ảnh của Chúa và
một sự giống đặc biệt với Chúa:
trong sinh học về sự sinh sản có ghi chép gia
phả của nhân vị. Khi
khẳng định rằng vợ chồng, với tư
cách là cha mẹ, là những công sự viên của Chúa
Sáng Tạo trong việc thụ thai và sinh một hữu
thể nhân linh mới, chúng ta không chỉ quy chiếu
về những luật sinh học; nói đúng hơn, chúng
tôi muốn nhấn mạnh rằng trong t́nh phụ
tử và mẫu tử nhân linh, chính Chúa hiện
diện theo một cách thức khác với điều ǵ
xảy ra trong bất cứ việc sinh sản nào khác
"trên trái đất". Thật vậy, chỉ
từ Chúa mới có thể có "h́nh ảnh " này,
sự "giống" này, là điều riêng biệt
cho hữu thể nhân linh, như điều đó
xảy ra trong việc sáng tạo. Sinh sản là sự
tiếp tục sáng tạo. (Gratissimam
Sane, n. 9) 94.
Khi biểu lộ t́nh cha của Thiên Chúa và sống
lại t́nh cha ấy trên mặt đất này (Ep 3, 15),
người nam được mời gọi đứng
ra bảo đảm sự phát triển thống
nhất của mọi thành phần trong gia đ́nh.
Để chu toàn trách vụ này, ông cần phải
quảng đại lănh lấy trách nhiệm đối
với sự sống được thai nghén trong ḷng
người mẹ, cần phải chú tâm chia sẻ
cố gắng giáo dục con cái với vợ ḿnh (x.
GS, n. 52), công việc ấy sẽ không bao giờ làm
chia rẽ gia đ́nh, nhưng làm cho gia đ́nh
được vững mạnh trong sự hiệp
nhất và ổn định, nên một lời
chứng về đời sống kitô hữu trưởng
thành để hướng dẫn con cái vào trong kinh
nghiệm sống động về Chúa Kitô và về
Hội Thánh một cách hữu hiệu hơn. (Familiaris
Consortio, n. 25) 95.
Chắc chắn rằng sự b́nh đẳng về
phẩm giá và trách nhiệm giữa người nam và
người nữ đủ biện minh cho người
nữ dấn thân vào các vai tṛ xă hội. Đàng khác,
muốn thật sự đề cao phẩm giá phụ
nữ, th́ cũng cần phải nh́n nhận rơ ràng vai
tṛ làm mẹ và lo việc gia đ́nh của phụ
nữ có giá trị so với tất cả những vai
tṛ công cộng và tất cả những chức
nghiệp khác. Sau nữa cũng c̣n cần phải làm
sao để tất cả những vai tṛ và những
chức nghiệp ấy đuợc liên kết chặt
chẽ với nhau, nếu người ta muốn cho
sự phát triển xă hội và văn hoá được
nhân bản thật sự và trọn vẹn. (Familiaris
Consortio, n. 23) IV.
Gia
Đ́nh, Giáo Dục Và Văn Hoá
96.
Bổn phận giáo dục bắt nguồn từ trong
ơn gọi đầu tiên của đôi bạn là
dự phần vào công cuộc sáng tạo của Thiên
Chúa: khi sinh ra một ngôi vị mới trong t́nh yêu và
do t́nh yêu, một ngôi vị mang sẵn trong ḿnh ơn
gọi phải lớn lên và phát triển, bậc cha
mẹ cũng từ đó mà lănh nhận bổn
phận phải giúp đỡ hữu hiệu cho ngôi
vị ấy được sống một đời
sống nhân bản trọn vẹn. Như Công Đồng
Vatican II đă nhắc lại:"V́ là người
truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có
bổn phận hết sức quan trọng phải giáo
dục chúng, và v́ thế, họ phải đươc
coi là những nhà giáo đầu tiên và chính yếu
của chúng. Vai tṛ giáo dục này quan trọng đến
nỗi nếu thiếu sót sẽ khó ḷng bổ
khuyết được. Thật vậy chính cha mẹ
có nhiệm vụ tạo cho gia đ́nh một bầu khí
thấm nhuần t́nh yêu cũng như ḷng thành kính
đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho
việc giáo dục toàn diện của con cái họ
trong đời sống cá nhân và xă hội được
dễ dàng. Do đó gia đ́nh là trường học
đầu tiên dạy các đức tính xă hội mà
không một đoàn thể nào khác có thể vượt
qua được." (Gravissimum Educationis, n. 3). V́ cha
mẹ đă sinh ra con cái nên quyền và bổn phận
giáo dục là một điều nằm trong yếu tính
của họ; v́ tương quan giữa họ với
con cái là một t́nh yêu thương không thể thay
thế được, nên quyền và bổn phận giáo
dục của họ có tính cách độc đáo và cơ
bản so với bổn phận giáo dục của
những người khác, đó cũng là một cái ǵ
không thể thay thế và không thể chuyển nhượng
được, cho nên cũng không thể khoán trắng
cho người khác hay bị người khác cưỡng
đoạt. 97.
Cũng giống như xă hội dân sự, gia đ́nh,
chúng tôi đă nói trên, là một xă hội thật
sự, có uy quyền riêng, tức là uy quyền phụ
tử. Cho nên, điều măi chắc chắn là trong
phạm vi do mục đích trực tiếp của nó
quyết định, gia đ́nh hưởng được
những quyền ít ra băng các quyền của xă
hội dân sự, đối với sự lựa
chọn và sử dụng tất cả những ǵ
cần cho sự bảo toàn thân nó và cho việc
thực thi một sự tự trị chính đáng. Ít
ra bằng, chúng tôi nói, bởi v́ xă hội gia đ́nh
so với xă hội dân sự chiếm một sự
ưu tiên logic và một sự ưu tiên thực tế,
cần cho các quyền lợi và các bổn phận
của nó. Nếu các công dân, nếu các gia đ́nh
đi vào trong xă hội nhân linh mà gặp ở đó,
thay v́ một sự nâng đỡ, lại là một
sự ngăn trở, thay v́ một cuộc bảo
vệ, lại là sự suy giảm các quyền của
họ, th́ xă hội đó đáng quăng đi hơn
là t́m kiếm. (Rerum
Novarum, n. 13) 98.
Vai tṛ xă hội của gia đ́nh chắc chắn không
thể giới hạn vào việc truyền sinh và giáo
dục, cho dầu hai công việc này là h́nh thức
đầu tiên không thể thay thế được
để diễn tả vai tṛ ấy. Gia đ́nh
dầu biệt lập hay kết thành hiệp hội,
đều có thể và phải dấn thân cho nhiều
công cuộc phục vụ xă hội, cách riêng là lo cho
những người nghèo, và trong mọi trường
hợp lo cho những người và những t́nh
cảnh mà các tổ chức từ thiện và cứu
tế công cộng không thể lo hết được.
Sự đóng góp xă hội của gia đ́nh có cái
độc đáo riêng mà càng ngày người ta càng
thấy rơ và càng phải tích cực cổ vơ nhiều
hơn, nhất là khi con cái bắt đầu lớn
dần, để làm cho tất cả mọi thành
phần trong gia đ́nh đều tham gia hết sức
có thể. (Familiaris
Consortio, n. 44) 99.
Đây là một sai lầm nghiêm trọng và tai hại
khi muốn quyền bính dân sự tự tiện thâm
nhập cho tới cung thánh gia đ́nh. Chắc chắn,
nếu có một gia đ́nh lâm vào cảnh khốn
đốn về vật chất và v́ thiếu các
nguồn lợi, gia đ́nh ấy không thể nào
tự ḿnh thoát ra khỏi được, th́ điều
chính đáng là, trong những lúc tận số như
vậy, công quyền phải ra tay giúp đỡ gia
đ́nh đó bởi v́ mỗi gia đ́nh là một thành
phần xă hội. Cũng vậy, nếu một gia
đ́nh có phần nào là kịch trường diễn
xuất những vi phạm nặng nề các quyền
lẫn nhau, th́ buộc công quyền tái lập ở
đó quyền của mỗi người. Làm như
vậy không phải giẫm chân trên các quyền người
công dân, nhưng bảo đảm cho họ một
sự bênh vực và một sự bảo vệ theo phép
công bằng. Nhưng, tất cả những ai nắm
giữ công quyền phải dừng lại tại đây;
thiên nhiên cấm họ vượt quá những giới
hạn này. (Rerum
Novarum, n. 14) 100.
Bên trong "dân của sự sống và v́ sự
sống", trách nhiệm của gia đ́nh là
quyết định ; đó là một trách nhiệm
xuất phát từ chính bản tính của nó - bản tính
đó là làm nên một cộng đồng sự
sống và t́nh yêu, xây dựng trên hôn nhân - và từ
sứ vụ của nó là "giữ ǵn, mặc
khải và truyền thông t́nh yêu" (Familiaris Consortio,
n. 17). Đây chính xác là chính t́nh yêu của Chúa, mà cha
mẹ là những người cộng tác và giải thích
trong việc truyền thông sự sống và trong
việc giáo dục, theo chương tŕnh của Cha (x.
GS, n. 50). Như vậy đó là một t́nh yêu cho nhưng
không, đón nhận, hiến thân: trong gia đ́nh,
mỗi người được nh́n nhận, tôn
trọng và kính nể bởi v́ họ là một nhân
vị, và, nếu có ai có những nhu cầu hơn, th́
sự chú ư và những chăm sóc đối với
họ phải nhiều hơn. Gia
đ́nh đóng một vai tṛ bao lâu các thành phần
của ḿnh hiện hữu, từ lúc sinh ra cho đến
chết. Gia đ́nh thực sự là "cung thánh
của sự sống, nơi mà sự sống, hồng
ân Thiên Chúa, có thể được đón nhận và
bảo vệ cách xứng hợp khỏi nhiều
cuộc tấn công nó phải đương đầu,
gia đ́nh là nơi sự sống có thể phát
triển theo các yêu sách của sự lớn lên nhân
bản đích thực" (CA, n. 39). Do đó vai tṛ
của gia đ́nh có tính quyết định và không
thể thay thế để xây dựng văn hoá
sự sống. V́
là Giáo Hội tại gia, gia đ́nh có ơn gọi loan
truyền, cử hành và phục vụ Tin Mừng sự
sống. Đó là một sứ vụ liên can trước
hết đến các đôi vợ chồng, được
kêu gọi lưu truyền sự sống, luôn ư
thức về ư nghĩa của sự sinh sản,
bởi sự sống là một biến cố đặc
biệt chứng tỏ sự sống nhân linh là một
hồng ân đă được nhân lănh th́ tới phiên
nó cũng phải được ban tặng. Trong
việc tạo ra một sự sống mới, cha
mẹ hiểu rằng đứa con, "nếu là hoa
quả của việc họ tự dâng hiến cho nhau t́nh
yêu, về phần nó, trở nên một hồng ân cho
cả hai: một hồng ân phát sinh từ một
hồng ân" (Gioan Phaolô II, Diễn văn tại
Hội Thảo của các Giám Mục Âu Châu, 1989, n. 5). (Evangelium
Vitae, n. 92) 101.
Tin Mừng sự sống nằm trong trung tâm sứ
điệp của Chúa Giêsu. Được Giáo Hội
đón nhận hằng ngày với t́nh yêu, Tin Mừng
ấy phải được rao giảng với ḷng can
đảm và trung thành như là một Tin Mừng cho
con người của mọi thời đại và
mọi văn hoá. Thời
rạng đông của ơn cứu chuộc, một con
trẻ sinh ra, sự sinh ra đó được loan báo
như một Tin Mừng: "Này tôi báo cho anh em một
Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho
toàn dân: hôm nay một Đấng Cứu độ
đă sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid" (Lc 2, 10-11).
Đă hẳn, cuộc hạ sinh của Đấng
Cứu Thế đă giải ra "niềm vui lớn"
này, ngày Giáng Sinh, ư nghĩa đầy đủ
của mọi sự sinh ra nhân linh cũng được
mặc khải như vậy, và như thế niềm
vui cứu thế xuất hiện như là nền
tảng và sự viên măn của niềm vui đi theo
sự sinh ra của mọi đứa con (Ga 16, 21). Chúa Giêsu
biểu lộ điều ở tận trung tâm sứ
vụ cứu chuộc của Người khi nói: "Phần
tôi, tôi đến, để cho chiên được
sống và sống dồi dào" (Ga 10, 10). Trên thực
tế, Chúa muốn nói về sự sống "mới"
và "muôn đời", đó là sự hiệp thông
với Chúa Cha, mọi người được kêu
gọi sống sự hiệp thông đó nhờ ân
sủng trong Chúa Con, bởi tác động của Chúa
Thánh Thần, Đấng Thánh Hoá. Chính xác trong sự
sống này mà các phương diện và những giai
đoạn sống của con người, tất
cả đều đạt được sự viên măn
của chúng. (Evangelium
Vitae, n. 1) V.
Đặc
Tính Thánh Thiêng Của Sự
Sống Nhân Linh
102.
Sự sống con người đến từ Thiên Chúa,
đó là một hồng ân của Chúa, là h́nh ảnh và
là dấu ấn, là sự chia sẻ hơi thở
sống động của Người. Như vậy
Thiên Chúa là Chúa duy nhất của sự sống này:
con người không thể định đoạt nó.
Chính Chúa đă lặp lại với ông Noê sau đại
hồng thuỷ: "Nhưng Ta sẽ đ̣i mỗi người
phải đền nợ máu các ngươi, tức là
mạng sống của các ngươi: Ta sẽ đ̣i
mỗi người phải đền mạng sống
của người anh em ḿnh" (St 9, 5). Và bản văn
Kinh Thánh để ư nhấn mạnh rằng đặc
tính thánh thiêng của sự sống có nền tảng
trong Chúa và trong hành động sáng tạo của Người:
"V́ Thiên Chúa đă làm ra con người theo h́nh
ảnh Thiên Chúa" (St 9, 6). (Evangelium
Vitae, n. 39) 103.
"Sự sống nhân linh là thánh thiêng bởi v́, ngay
từ đầu, nó bao hàm "hành động sáng
tạo của Chúa" và vẫn luôn giữ một
sự quan hệ đặc biệt với Đấng
Tạo Hoá, cùng đích duy nhất của ḿnh. Chỉ
một ḿnh Chúa là Chủ sự sống từ lúc nó
khởi đầu cho đến lúc kết thúc; không ai,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, có thể đ̣i cho
ḿnh quyền được trực tiếp huỷ
diệt một hữu thể nhân bản vô tội".
Bằng những lời nói đó, Huấn thị Donum
Vitae (n. 7) tŕnh bày nội dung trọng tâm mặc
khải của Chúa về đặc tính thánh thiêng và
về sự bất khả xâm phạm của sự
sống con người. (Evangelium
Vitae, n. 53) 104.
Tính bất khả xâm phạm của ngôi vị
phản ánh tính tuyệt đối bất khả xâm
phạm của chính Thiên Chúa, được biểu
lộ trước tiên và căn bản nơi bản tính
bất khả xâm phạm cuộc sống con người.
Dĩ nhiên, thật chính đáng khi nói đến
những quyền của con người, chẳng
hạn, quyền được khoẻ mạnh,
quyền cư trú, quyền được lao động,
có gia đ́nh, được giáo dục,… nhưng
thật sai lầm, - ngày nay người ta thường
lẫn lộn như thế - khi nói đến quyền
con người mà lại không cương quyết
bảo vệ quyền được sống như là
quyền đầu tiên, nguồn gốc và là điều
kiện của các quyền khác. Giáo Hội không
bao giờ chấp nhận những vi phạm quyền
sống là quyền của mọi người, quyền
này đă và đang bị xúc phạm do tư nhân hay do
chính các nhà cầm quyền. Chủ thể của
quyền này là con người, trong suốt quá tŕnh phát
triển của nó, từ khi h́nh thành trong bào thai cho
đến khi chết theo tự nhiên, và trong mọi t́nh
trạng, dù đau yếu hay mạnh khoẻ, què
quặt hay b́nh thường, giàu có hay nghèo khổ. (Christifideles
Laici, n. 38) 105.
Khi ưu ái và quảng đại đón nhận sự
sống, nhất là khi sự sống đó yếu
ớt và bịnh tật, Giáo Hội đang sống
một giai đoạn trọng đại trong sứ
vụ của ḿnh, c̣n cần thiết hơn nữa khi
nền "văn hoá sự chết" đang lan tràn.
Thật vậy Giáo Hội tin tưởng chắc
chắn rằng sự sống con người, dù có
yếu ớt hay đầy đau khổ, vẫn luôn luôn
là một hồng ân của Thiên Chúa tốt lành.
Chống lại sự bi quan và ích kỷ đang che
mờ thế giới, Giáo Hội ủng hộ sự
sống, và trong mỗi sự sống con người Giáo
Hội biết khám phá nét cao đẹp của
tiếng "Vâng", của tiếng "Amen" là
Đức Kitô (x. 2 Cr 1, 19; Kh 3, 14). Đối nghịch
với tiếng "không" đang tràn ngập và làm
cho thế giới ảm đạm, Giáo Hội
đưa ra tiếng "Vâng" sống động, bênh
vực cho con người và thế giới chống
lại những kẻ đang đe doạ và làm
tổn thương đến cuộc sống (Familiaris
Consortio, n. 30). Người giáo dân do ơn gọi hay do
nghề nghiệp có trách nhiệm trực tiếp hơn
phải đón nhận sự sống, cụ thể hoá
và hữu hiệu hoá tiếng "Vâng" của Giáo
Hội đối với sự sống con người. (Christifideles
Laici, n. 38) 106.
Lư trí chứng thực rằng có thể có những
đối tượng của hành vi nhân linh mà xem ra
"không thể phối trí để hướng
về" Thiên Chúa, bởi v́ tự căn rễ chúng
mâu thuẫn với sự thiện của con người
xét như là được tạo dựng theo h́nh
ảnh Thiên Chúa. Đó chính là những hành vi mà, trong
truyền thống luân lư của Giáo Hội, người
ta gọi là "xấu xa tự bên trong" (intrinsece
malum): chúng là xấu luôn luôn và do tự nơi chúng,
nghĩa là do chính đối tượng của chúng,
không tuỳ thuộc vào những ư hướng về
sau của người hành động và của hoàn
cảnh. Do bởi sự kiện này, dầu không hề
phủ nhận tầm ảnh hưởng của hoàn
cảnh và nhất là do ư hướng, Giáo Hội luôn
dạy rằng "có những hành vi luôn luôn là không
được phép, do chính chúng và tự nơi chúng,
chớ không tuỳ thuộc hoàn cảnh, mà là không
được phép một cách nghiêm trọng, do bởi
đối tượng của chúng" (Reconciliatio et
Paenitentia, n. 17). Trong khuôn khổ của sự tôn
trọng nhân vị, Công Đồng Vatican II đă khai
triển một cách rộng răi về vấn đề
các hành vi này: "Tất cả những ǵ đối
chọi lại với chính sự sống, ví dụ như
mọi hành vi giết người, diệt chủng, phá
thai, giết chết êm dịu và kể cả tự
tử có suy tính; tất cả những ǵ xâm phạm
đến sự toàn vẹn của ngôi vị con người,
như cắt bỏ một phần cơ thể, tra
tấn thể lư hoặc tinh thần, cưỡng
bức tâm lư; tất cả những ǵ xúc phạm
đến phẩm giá của con người, như
những điều kiện sống thấp kém, giam
cầm vô cớ, đày ải, nô lệ, măi dâm, buôn bán
phụ nữ và trẻ em; hoặc c̣n như những
điều kiện lao động tồi tệ hạ
thấp các công nhân xuống ngang hàng với công cụ
đổi chác, không coi trọng nhân cách tự do và
hữu trách của họ: tất cả những
việc thực hành ấy và những việc thực hành
tương tự khác hiểu theo nghĩa loại suy
đều thật sự là vô luân. Chẳng những làm
băng hoại nền văn minh, những thực hành
ấy c̣n làm mất danh giá của những kẻ
chủ động hơn là của những người
nhận chịu, chúng lăng mạ một cách trầm
trọng phẩm vị của Tạo Hoá" (GS n. 27). (Veritatis
Splendor, n. 80) VI.
Nạn
Phá Thai Và Làm Chết Êm Dịu
107.
Sự sống nhân linh nằm trong hoàn cảnh hết
sức bất ổn khi nó đi vào trong thế giới
và khi nó ra ngoài thời gian để đi vào cơi đời
đời. Lời Chúa không thiếu những sự
mời mọc phải chăm sóc và tôn trọng sự
sống, nhất là đối với sự sống mang
bệnh hoạn và già yếu. Nếu không có những
sự mời trực tiếp và minh nhiên phải
bảo toàn sự sống từ đầu, cách riêng
sự sống chưa sinh ra, cũng như sự
sống sắp chấm dứt, th́ điều đó
được giải thích dễ dàng v́ cả đến
khả năng xúc phạm, tấn công, hay, tệ hơn,
phủ định sự sống trong những hoàn
cảnh thể ấy, vẫn là xa lạ đối
với những viễn tượng tôn giáo và văn hoá
của dân Chúa. (Evangelium
Vitae, n. 44). 108.
"Không có ǵ cũng không có ai có thể cho phép
giết một hữu thể nhân linh vô tội, thai nhi
hay phôi thai, trẻ em hay người lớn, người
già, người bịnh bất trị hay đang
hấp hối. Không ai có thể van nài cử chỉ
giết người này cho ḿnh hay cho một kẻ khác
được giao phó cho ḿnh chăm sóc, cũng không nên
nghĩ tới điều đó, cách minh nhiên hay không.
Không một quyền bính nào có thể áp đặt cách
hợp pháp việc giết người hay ban phép đi
nữa. (Jura
et Bona, n. 2) 109.
Do đó, với thẩm quyền Chúa Kitô ban cho Phêrô và
những kẻ Kế Vị ngài, trong sự hiệp thông
với tất cả các Giám Mục Giáo Hội Công Giáo,
tôi khẳng định rằng giết trực tiếp
và hữu ư một hữu thể nhân linh vô tội, là
việc làm phi luân luôn luôn trầm trọng. Giáo lư này,
dựa trên luật pháp không viết ra, nhưng tất
cả mọi người khám phá ra nó trong tấm ḷng
ḿnh dưới ánh sáng của lư trí (x. Rm 2, 14-15), giáo
lư đó được xác nhận lại bởi Kinh
Thánh, được truyền thông qua Truyền
Thống Giáo Hội và được răn dạy
bởi Huấn Giáo thông thường và phổ quát. (Evangelium
Vitae, n. 57) 110.
Tôi muốn gởi một tư tưởng cách riêng
đến các chị em, những phụ nữ phải
cậy đến sự phá thai. Giáo Hội biết có
nhiều nguyên nhân đă có thể đè nặng trên
quyết định của các chị em, và Giáo Hội
không nghi ngờ rằng, trong nhiều trường
hợp, quyết định đó gây nên đau đớn
và có khi bi đát. Có lẽ vết thương trong linh
hồn các chị em chưa lành lặn. Trên thực
tế, điều đă xảy ra đă là và vẫn là
bất chính cách sâu xa. Nhưng chị em đừng có
ngă ḷng và đừng mất hy vọng. Chị em nên
hiểu biết điều ǵ đă xảy ra và
giải thích điều đó theo chân lư th́ hơn.
Nếu chị em chưa làm, th́ chị em nên lấy ḷng
khiêm nhượng và tin cậy mà sám hối: Người
Cha giàu ḷng thương xót đợi chờ chị em
để tha thứ chị em và ban b́nh an cho chị em
trong bí tích Hoà Giải. Chị em sẽ thấy rằng
không ǵ bị mất mát và chị em cũng có thể
xin lỗi đứa con của chị em từ nay
sống trong Chúa. Với sự trợ giúp của
những lời khuyên bảo và của những bạn
bè kinh nghiệm hiện diện, chị em có thể là
thành viên của những người bênh vực xác tín
nhất về quyền của mọi người đối
với sự sống, bằng chứng từ đau
đớn của chị em. Qua sự cam kết của
chị em pḥ sự sống, hoặc bằng cách
chấp nhận sinh ra những đứa con khác,
hoặc bằng cách tiếp nhận và chăm sóc
những ai đang cần kíp có người ở
gần họ, chị em sẽ cố gắng thiết
lập một cách thức mới mẻ giúp quí
trọng sự sống con người. (Evangelium
Vitae, n. 99) VII.
Án
Tử H́nh
111.
"Tự vệ chính đáng không những là một
quyền, nhưng c̣n là một trọng trách đối
với người có trách nhiệm bảo vệ
mạng sống kẻ khác. Việc bảo vệ công ích
đ̣i phải đặt kẻ xâm phạm bất chính
vào t́nh trạng không thể tác hại. V́ lư do này,
những nhà chức trách hợp pháp có quyền sử
dụng cả đến vũ khí để ngăn
chận những kẻ xâm phạm đến cộng
đồng dân sự được uỷ thác cho ḿnh"
(Saint Thomas d' Aquin, STh, II-II, 64, 7). Bổn
phận bảo vệ ích chung đ̣i buộc Nhà Nước
phải nỗ lực ngăn chận các vi phạm
về nhân quyền và về những quy tắc cơ
bản cho cuộc sống chung của công dân khỏi
lan tràn, đáp ứng bổn phận bảo vệ ích
chung đ̣i hỏi. Nhà hữu trách hợp pháp có
quyền và bổn phận đề ra h́nh phạt cân
xứng với tội phạm. Mục đích đầu
tiên của h́nh phạt là đền bù lại
những thiệt hại do lỗi lầm gây ra. Nếu
phạm nhân tự nguyện chấp nhận th́ h́nh
phạt có giá trị đền tội. Ngoài việc
bảo vệ trật tự công cộng và an ninh cho
mọi người, h́nh phạt c̣n có mục đích
chữa trị: trong mức độ có thể
được, h́nh phạt phải góp phần cải
hoá phạm nhân (CEC
nn 2265-2266) 112.
Trong viễn ảnh này, cũng phải đặt ra
vấn đề án tử, đối với án tử
người ta ghi nhận, trong Giáo Hội cũng như
trong xă hội dân sự, một khuynh hướng ngày càng
tăng là phải áp dụng án này rất hạn
chế, có khi đ̣i phải bỏ hẳn. Phải
đặt vấn đề này trở lại trong khuôn
khổ một bản án h́nh sự luôn luôn xứng hơn
với phẩm giá con người và như vậy, xét
cho cùng, hợp với ư định của Chúa đối
với con người và xă hội. Trên thực tế,
h́nh phạt xă hội tuyên phạt "phải sinh
hiệu quả trước tiên là đền bù
thiệt hại do tội mang vào" (CEC, n. 2266). Những
công quyền phải mạnh tay trước sự vi
phạm các quyền nhân vị và xă hội, bằng cách
bắt người có tội phải đền bù tương
xứng vơi tội, điều kiện để
được nhận lại cho hưởng quyền
tự do. Theo chiều hướng này, quyền bính cũng
đạt được chủ đích là bảo
vệ trật tự công cộng và sự an ninh cho nhân
vị, "c̣n mang lại cho kẻ tội phạm
một kích thích và một sự giúp đỡ để
sửa ḿnh và cải hoá" (CEC,
n. 2266). Chính
v́ để đạt được tất cả
những cứu cánh này, điều rơ ràng là mức
độ và tính chất h́nh phạt phải được
lượng giá và quyết định kỹ càng, và không
nên đưa tới biện pháp tột cùng là tiểu
trừ tội phạm, nếu không phải là gặp trường
hợp cần thiết tuyệt đối, khi việc
bảo vệ xă hội không thể cho phép làm khác hơn.
Nhưng, ngày nay, v́ chế độ h́nh sự
được tổ chức luôn luôn hiệu nghiệm
hơn, nên những trường hợp này khá hiếm,
nếu không phải là không hiện hữu trên thực
tế. (Evangelium
Vitae, n. 56) 113.
Giáo huấn truyền thống của Hội Thánh không
loại trừ án tử h́nh, khi đă xác minh đầy
đủ căn tính và trách nhiệm của phạm nhân,
nếu đây là biện pháp khả thi duy nhất để
bảo vệ hữu hiệu mạng sống con người
khỏi bị xâm phạm bất chính. Tuy nhiên, nếu
các phương tiện nhân đạo hơn cũng
đủ để bảo vệ an ninh con người
khỏi bị xâm phạm, nhà cầm quyền phải dùng
những phương tiện này, v́ đáp ứng hơn
với những hoàn cảnh cụ thể của công ích
và phù hợp hơn với phẩm giá con người.
Thực ra, ngày nay, v́ Nhà Nước có nhiều cách
để chế ngự hữu hiệu tội ác, làm
cho kẻ đă phạm tội không c̣n khả năng tác
hại, không dứt khoát tước đoạt khả
năng hối cải của họ, nên những trường
hợp tuyệt đối phải khử trừ
phạm nhân "từ nay khá hoạ hiếm, nếu không
muốn nói là thực tế không c̣n nữa". (CEC, n. 2267) VIII.
Phẩm
Giá Người Nữ
114.
Chắc chắn c̣n nhiều việc phải làm để
cho hoàn cảnh của người nữ và của người
mẹ không sinh ra một kỳ thị nào. Điều
khẩn cấp là phải đạt cho được
ở khắp nơi sự b́nh đẳng hữu
hiệu các quyền của nhân vị và do đó,
sự đồng đều mức lương cho
một việc làm ngang nhau, việc bảo vệ các bà
mẹ lao động, một sự thăng tiến công
bằng trong nghề, sự b́nh đẳng vợ
chồng trong quyền gia đ́nh, việc công nhận
tất cả những ǵ liên hệ với các quyền
và các bổn phận của người công dân trong
một chế độ dân chủ. Đó là một hành
vi công bằng, mà cũng là cần thiết. Trong chính sách
cho tương lai, người nữ sẽ luôn luôn dính
líu trong các vấn đề trầm trọng đang bàn
căi ngày nay; thời gian rảnh rỗi, bản chất
của sự sống, những cuộc di dân, những
dịch vụ xă hội, sự làm chết êm dịu,
ma tuư, sức khoẻ và những chăm sóc, sinh thái
học, v.v... trong tất cả những lănh vực này,
sự hiện diện xă hội đầy nghị
lực hơn của người nữ tỏ ra là quí
giá, v́ sự hiện diện đó góp phần biểu
lộ những mâu thuẫn của một xă hội
tổ chức chỉ theo những tiêu chuẩn của
hiệu lực và sản xuất, mà c̣n bắt phải
tái xác định những hệ thống, có lợi
cho những diễn tiến của sự nhân đạo
hoá, đặc điểm của "nền văn minh
t́nh yêu". (Lettre
aux femmes, n. 4) 115.
Một phần của cử chỉ anh hùng này là
chứng từ thinh lặng, nhưng phong phú và hùng
biện biết bao của "tất cả những người
mẹ can đảm tự hiến ḿnh hoàn toàn cho gia
đ́nh ḿnh, những người mẹ chịu đau
đớn khi sinh con, rồi sau đó sẵn sàng
chịu đựng tất cả những mệt
nhọc, đương đầu với tất cả
những hy sinh, để truyền thông cho chúng
những ǵ là tuyệt hảo nơi họ" (Gioan
Phaolô II, Bài giảng phong thánh, 1994). Để hoàn thành
sứ vụ ḿnh, "các người mẹ anh hùng này
không luôn gặp được một sự nâng đỡ
nơi những người xung quanh. Ngược lại,
những kiểu văn minh, thường được
các phương tiện truyền thông xă hội cổ
động và phổ biến, không yểm trợ t́nh
mẫu tử. Nhân danh nền phát triển và tính
hợp thời, người ta tŕnh bày như từ nay
đă lỗi thời, những giá trị của ḷng
trung tín, của đức khiết tịnh và hy sinh,
những đức tính mà một số người
vợ và người mẹ Kitô giáo đă làm vẻ
vang và c̣n tiếp tục làm vẻ vang … Hỡi các người
mẹ can đảm, chúng tôi cám ơn chị em, v́ t́nh
yêu không thể nói được của chị em! Chúng
tôi cám ơn chị em v́ chị em đặt niềm
tin dũng cảm vào Chúa và vào t́nh yêu của Người.
Chúng tôi cám ơn chị em v́ sự hy sinh cuộc đời
của chị em. Trong mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa
Kitô trả lại chị em ân huệ mà chị em đă
làm. Thật vậy Chúa Kitô có quyền phép trả
lại chị em mạng sống mà chị em đă mang
đến cho Người làm của lễ" (Gioan
Phaolô II, Bài giảng phong thánh, 1994). (Evangelium
Vitae, n. 86) 116.
"Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh
ḿnh, Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh
ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có
nam có nữ" (St 1, 27). Đoạn văn vắn
tắt này chứa đựng những chân lư cơ
bản về nhân chủng học: con người là chóp
đỉnh của tất cả trật tự sáng
tạo trong thế giới hữu h́nh; loài người,
khởi sự chính lúc người nam và người
nữ được kêu mời hiện hữu, kết
thúc tất cả công tŕnh sáng tạo; cả hai là
những hữu thể nhân linh. Người nam và người
nữ cùng một cấp bậc b́nh đẳng, cả
hai được tạo dựng nên giống h́nh
ảnh Thiên Chúa. H́nh ảnh này, giống h́nh ảnh Chúa,
thiết yếu đối với hữu thể nhân
linh, được người nam và người
nữ, trong tư cách là cha là mẹ, truyền thông cho
con cái: "hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều,
cho đầy mặt đất, và thống trị
mặt đất" (St 1, 28). Đấng Tạo Hoá
giao phó quyền "thống trị mặt đất"
cho loài người, cho tất cả mọi nhân vị,
cho tất cả mọi người nam và người
nữ, là những kẻ múc lấy phẩm giá và ơn
gọi ḿnh trong "nguồn gốc" chung của
họ. (Mulieris
Dignitatem, n. 6) 117.
Muốn biến đổi nền văn hoá có lợi
cho sự sống, th́ ư tưởng và hành động
của các người nữ đóng một vai tṛ
độc đáo và chắc chắn quyết định:
họ có trách nhiệm cổ vơ một "chủ nghĩa
nữ quyền mới", chủ nghĩa này không ngă
dưới sức cám dỗ đi theo những kiểu
cách nam giới, nhưng biết nh́n nhận và diễn
tả thiên tài nữ giới trong tất cả
những biểu lộ của sự sống trong xă
hội, cố gắng vượt qua tất cả
mọi h́nh thức kỳ thị, bạo loạn và khai
thác. Lấy lại sứ điệp cuối cùng
của Công Đồng Vatican II, tôi cũng gởi
tới các người nữ lời kêu gọi khẩn
thiết này: "Hăy giao hoà con người với
sự sống" (Sứ điệp cuối cùng Công
Đồng (1965) gởi cho phụ nữ). Các chị em
phụ nữ được kêu gọi chứng minh cho
ư nghĩa của t́nh yêu đích thực, của sự
hiến ḿnh và tiếp nhận kẻ khác được
thực hiện cách riêng biệt trong quan hệ vợ
chồng, nhưng cũng phải linh hoạt tất
cả những tương quan liên vị khác nữa.
Kinh nghiệm của t́nh mẫu tử làm cho chị em
ư thức sâu sắc đối với nhân vị
của kẻ khác và đồng thời trao cho chị
em một trách nhiệm đặc biệt: "T́nh
mẫu tử bao hàm một sự hiệp thông đặc
biệt với mầu nhiệm sự sống đang chín
muồi trong dạ người nữ. Loại tiếp xúc
duy nhất này với hữu thể nhân linh mới
đang mang thai, tới phiên nó, tạo ra một thái
độ đối với con người - không
những đối với đứa con riêng ḿnh nhưng
đối với con người nói chung - điều
đó đánh dấu sâu xa tất cả nhân tính người
nữ" (Mulieris Dignitatem, n. 18). Thật vậy, người
mẹ đón rước và mang trong ḿnh một người
khác, bà cho phép nó lớn lên trong ḷng bà, bà cho nó
một chỗ dành riêng cho nó nhưng vẫn tôn
trọng sự khác biệt của nó. Như vậy, người
nữ cảm thấy và dạy rằng những tương
quan nhân bản là đích thực, nếu chúng mở ra
đón nhận nhân vị của kẻ khác, nhân vị
được nh́n nhận và yêu thương v́
phẩm giá phát sinh từ sự kiện làm một nhân
vị, chớ không phải do những yếu tố khác
như sự hữu dụng, sức mạnh, lư trí,
vẻ đẹp, sức khoẻ. Đó là sự đóng
góp cơ bản mà Giáo Hội và nhân loại chờ
đợi ở người nữ. Đó là điều
tiên quyết cần thiết cho việc thay đổi văn
hoá đích thực này. (
Evangelium Vitae, n. 99) CHƯƠNG IV
TRẬT
TỰ XĂ HỘI I. Chỗ Đứng
Trung Tâm Của Nhân Vị IV. Tương Trợ
V. Tham Gia VI. Sự Tha Hóa
Và Sự Gạt Ra Bên Lề VII.Tự Do Xă Hội
VIII. Văn Hóa
IX. Sự Phát
Triển Nhân Bản Đích Thực XI. Tội Xă
Hội XI I.
Chỗ
Đứng Trung Tâm Của Nhân Vị
118. Theo nguyên
tắc cơ bản của quan niệm này - như
thấy từ những ǵ chúng tôi đă nói cho tới
đây - những hữu thể nhân linh là và phải là
nền tảng, mục đích và chủ thể của
tất cả mọi cơ chế biểu lộ sự
sống xă hội. Mỗi một hữu thể nhân linh,
v́ là cái ǵ nó là, phải được xem xét theo
bản tính xă hội từ thực chất (intrinsèque)
và trên b́nh diện quan pḥng nó được cất lên
trật tự siêu nhiên. (Mater
et Magistra, n. 219) 119.
Ngay trong đời sống kinh tế và xă hội,
phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện
của con người và lợi ích của toàn thể
xă hội cũng phải được tôn trọng và
thăng tiến. V́ con người là tác giả, là tâm
điểm và là cứu cánh của tất cả đời
sống kinh tế xă hội. (Gaudium
et Spes n. 63) 120.
Con người, đúng theo sự cởi mở từ bên
trong trí tuệ và cũng theo biết bao nhiêu nhu cầu
khác biệt của thân xác và cuộc sống tại
thế, vẫn viết nên lịch sử riêng tư kia
qua rất nhiều liên hệ, tiếp xúc, hoàn cảnh,
cơ cấu xă hội kết ḿnh với những người
khác; và con người làm điều ấy từ giây
phút đầu tiên hiện hữu trên trái đất,
từ giây phút thành thai và sinh ra. Con người, trong chân
lư đầy đủ của cuộc sống ḿnh,
của bản thể riêng ḿnh, và đồng thời là
của bản thể cộng đồng và xă hội
của ḿnh - trong phạm vi gia đ́nh, bên trong những
xă hội và những cảnh ngộ khác biệt, trong
khuôn khổ quốc gia hay dân tộc của ḿnh, (và có
lẽ c̣n hơn nữa là trong khuôn khổ bộ
lạc hay sắc tộc của ḿnh), ngay cả trong khuôn
khổ toàn thể nhân loại- con người đó là
con đường trước tiên mà Giáo Hội
phải đi qua khi thực hiện sứ mệnh
của ḿnh, con người đó là con đường
trước tiên và cơ bản của Giáo Hội, con
đường đă do chính Đức Kitô vạch ra,
con đường đi ngang qua, một cách bất
biến, mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Độ. (Redemptor
Hominis, n. 14 -43) 121.
Nhân vị là nền tảng và là cùng đích của
trật tự xă hội, bởi v́ nhân vị là
chủ thể những quyền bất khả nhượng
nó không nhận từ bên ngoài, nhưng những
quyền đó phát xuất từ bản tính của nó:
không có ǵ cũng không có ai có thể phá huỷ
những quyền đó, không một cưỡng
bức nào bên ngoài có thể tiêu diệt chúng, bởi
v́ chúng đâm rễ sâu trong phần nhân bản
nhất của nhân vị. Tương tự như
thế, nhân vị không hạn định trong những
yếu tố xă hội, văn hoá, và lịch sử
của nó, bởi v́ đặc tính của con người
có một linh hồn thiêng liêng, là hướng về
một cùng đích vượt xa những hoàn cảnh
hay thay đổi của đời sống ḿnh. Không
một quyền lực nhân bản nào có thể
chống lại sự phát triển của con người
xét như là nhân vị. (Sứ
điệp ngày thế giới hoà b́nh, 1988, n. 1) II.
Một Xă Hội Xây Dựng Trên Chân Lư
122.
Đó là lư do tại sao một xă hội chỉ
được chỉnh đốn đúng mức, mang
phúc lợi, biết tôn trọng nhân vị, nếu nó
được xây dựng trên chân lư, theo lời
cảnh cáo của thánh Phaolô: "Anh em hăy cởi
bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hăy
nói sự thật với người thân cận, v́ chúng
ta là phần thân thể của nhau" (Ep 4, 25). Điều
đó giả thiết rằng người ta thành
thật nh́n nhận các quyền và bổn phận
của nhau. (Pacem in Terris, n.
35) 123.
Chỉ một ḿnh Thiên Chúa, Sự Thiện tối thượng,
mới là nền tảng bất khả chuyển lay và
là điều kiện bất khả thay thế của
đời sống luân lư, tức của các giới răn
và đặc biệt của các giới răn tiêu
cực vốn luôn luôn và trong mọi trường
hợp ngăn cấm những hành vi bất khả dung
hợp với phẩm giá của mỗi một con người.
Như thế Sự Thiện tối thượng và
điều thiện luân lư giao nhau trong chân lư, chân lư
của Thiên Chúa Tạo Hoá và Cứu Chuộc, chân lư
của con người được Chúa tạo
dựng và được Thiên Chúa cứu chuộc.
Chỉ trên chân lư ấy mới có thể xây dựng
một xă hội đổi mới và mới giải
quyết được những vấn đề
phức tạp và gay cấn đang làm cho xă hội lung
lay mà vấn đề số một là làm sao thắng
vượt các thứ h́nh thức chuyên chế chủ
nghĩa dị biệt để mở lối cho tự
do đích thực của con người. "Chủ nghĩa
chuyên chế phát sinh từ hành động phủ
nhận chân lư hiểu theo nghĩa khách quan: nếu không
có chân lư siêu việt mà nhờ tuân phục nó con người
có thể đạt tới căn tính tṛn đầy
của ḿnh, th́ trong những t́nh cảnh này không tài nào
có được một nguyên lư vững chắc để
bảo đảm cho những mối quan hệ công
bằng giữa con người với nhau. Những
lợi ích của họ xét theo giai cấp, theo nhóm
hoặc theo quốc gia không thể nào không đưa
họ đến chỗ đối nghịch với nhau
(CA, n. 44). (Veritatis
Splendor, n. 99) 124.
Những tương quan giữa các cộng đồng
chính trị phải theo chân lư. Chân lư đ̣i hỏi trước
hết là người ta phải loại trừ tất
cả dấu vết kỳ thị chủng tộc trong
các tương quan này; và sau đó người ta
phải thi hành nguyên tắc là tất cả mọi
cộng đồng chính trị đều b́nh đẳng
trong phẩm giá nguyên thuỷ. Mỗi một cộng
đồng có quyền sống, quyền phát triển,
quyền chiếm hữu những phương tiện
cần thiết để thực hiện điều
đó, quyền lănh trách nhiệm ưu tiên để
vận dụng chúng; và mỗi cộng đồng có
thể xin cách hợp lư được hưởng
tiếng tốt và nhận lấy những danh dự
xứng đáng cho ḿnh. (Pacem
in Terris, 86) 125.
Dưới ánh sáng đức tin, sự liên đới
không chấm dứt ở nơi ḿnh nhưng tiến xa
hơn, đạt tới những chiều kích đặc
thù của Kitô giáo, đó là tính hoàn toàn nhưng không,
sự tha thứ và hoà giải. Lúc đó người lân
cận không c̣n chỉ là một người có
những quyền lợi và được b́nh đẳng
trên cơ bản với mọi người, mà y
trở thành h́nh ảnh sống động của Thiên
Chúa Cha, được Máu Chúa Kitô cứu chuộc và là
đối tượng của hành động không
ngừng của Chúa Thánh Thần. V́ vậy người
đó phải được yêu mến, ngay cả khi
người ấy là một thù địch, với t́nh
yêu mà Chúa yêu y, và người ta phải sẵn sàng hy
sinh cho y ngay cả mạng sống: "Hy sinh mạng
sống cho anh em ḿnh" (x. 1 Ga 3, 16). Lúc
đó, ư thức về Chúa là Cha chung, về mọi người
là anh em trong Chúa Kitô, "những người con trong
người Con", về sự hiện diện và
về hành động ban sự sống của Chúa Thánh
Thần, làm cho cái nh́n của chúng ta trên thế
giới như có một tiêu chuẩn mới để
giải thích. Xa hơn những liên lạc máu mủ và
tự nhiên, vốn đă mạnh và chặt chẽ
biết bao dưới ánh sáng của đức tin, c̣n
hiện ra một mẫu hiệp nhất nhân loại
mới mà cuối cùng sự liên đới phải
dựa theo. Cái mẫu hiệp nhất tối thượng
đó, phản ảnh đời sống thân mật Ba
Ngôi Thiên Chúa, là cái mà chúng ta, Kitô hũu, gọi là
hiệp thông. Sự hiệp thông đặc thù Kitô
đó, được bảo vệ kỹ càng, trải
rộng và phong phú hoá nhờ ơn Chúa, là linh hồn
của ơn gọi Giáo Hội phải nên "bí tích"
theo nghĩa đă tŕnh bày. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 40) III. T́nh Liên Đới
126. Liên đới không phải là
một t́nh cảm động ḷng thương mơ
hồ hay xúc động hời hợt, trước
những đau khổ của bao nhiêu người xa
gần. Trái lại, đó là cái quyết tâm bền
vững lo cho công ích, nghĩa là cho ích lợi của
tất cả và của từng người, bởi v́
tất cả chúng ta đều thực sự có trách
nhiệm về tất cả mọi người.
Một quyết tâm như vậy dựa trên xác tín
vững chắc rằng việc phát triển đầy
đủ bị ngăn trở bởi ḷng ham hố
lợi nhuận và ḷng thèm khát quyền bính nói ở
trên. Những thái độ và những "cơ
cấu tội lỗi" này, chỉ có thể
thắng được - dĩ nhiên với ơn Chúa -
nhờ một thái độ hoàn toàn đối
nghịch: dấn thân lo cho lợi ích tha nhân cách
sẵn sàng, theo nghĩa Tin Mừng nói, "chết
đi" cho người khác thay v́ khai thác, phục
vụ thay v́ đàn áp để mưu lợi riêng. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 38) 127. Trong tinh thần liên đới và
với những phương tiện đối thoại,
chúng ta sẽ học: ḷng tôn trọng tất cả
mọi nhân vị; ḷng tôn trọng các giá trị chính
hiệu và những nền văn hoá nơi kẻ khác;
ḷng tôn trọng quyền tự trị chính đáng và
quyền tự quyết của những kẻ khác; chúng
ta sẽ học: nh́n xa hơn bản thân chúng ta, để
hiểu và nâng đỡ những ǵ tốt nơi
kẻ khác; hiến những nguồn lợi riêng chúng
ta trong sự liên đới xă hội giúp phát triển
và tăng trưởng, dựa trên đức công b́nh
và chân lư; thiết lập những cơ cấu
biến sự liên đới xă hội và sự đối
thoại trở nên những đặc tính bền
vững cho thế giới chúng ta đang sống. (Sứ điệp ngày thế giới hoà
b́nh, 1986, n. 5) 128. Liên đới không phải chỉ là
bổn phận giữa người với người,
mà c̣n là bổn phận giữa các dân tộc với dân
tộc: Các dân tộc đă phát triển có bổn
phận rất khẩn cấp là phải giúp các dân
tộc đang phát triển" (GS, n. 86). Phải áp
dụng lời giáo huấn Công Đồng này. Đành
rằng một dân tộc có quyền hưởng
dụng ưu tiên tài nguyên thiên nhiên cũng như
của cải do chính ḿnh làm ra. Nhưng không phải v́
thế mà dân tộc đó giữ lấy tài sản cho
một ḿnh ḿnh hưởng dụng. Mỗi dân tộc
đều phải sản xuất nhiều hơn và khá
hơn, để cho mọi người dân trong nước
đó được một mức sống xứng
với phẩm giá con người và đồng
thời để giúp nhân loại cùng phát triển. Khi
c̣n có nhiều nước kém phát triển mỗi ngày
một đau khổ, th́ phải coi là chuyện thường,
nếu một nước giàu đem nhường
một phần tài sản của ḿnh để giúp các
nước đó; cũng là chuyện thường khi
một nước tiên tiến đào tạo giáo sư,
kỹ sư, chuyên viên, bác học để cho họ
đem hiểu biết và kinh nghiệm phục vụ các
nước đó. (Populorum Progressio, n, 48) 129. Để vượt qua đầu
óc cá nhân chủ nghĩa đang lan tràn vào thời nay,
cần có sự dấn thân cụ thể trong công tác
liên đới và bác ái, khởi sự ngay từ trong
gia đ́nh với việc vợ chồng nâng đỡ
nhau và các thế hệ săn sóc cho nhau. Theo đó gia
đ́nh cũng có thể được gọi là
một cộng đồng lao động và liên đới. 130. Trên con đường ấy,
tất cả mọi người chúng ta đều liên
đới. Do đó, chúng tôi thấy có bổn phận
nhắc nhở mọi người về thảm
trạng lớn lao ấy và về công cuộc phải
cấp bách thể hiện. Giờ hành động bây
giờ đă điểm: sự sống của bao
trẻ em vô tội, hy vọng của bao nhiêu gia đ́nh
ước muốn được một điều
kiện sống nhân bản, hoà b́nh thế giới, văn
minh nhân loại đang bị đe doạ. Hết
thảy mọi người và hết thảy mọi dân
tộc đều phải lănh lấy trách nhiệm. (Populorum Progressio, n. 80) 131. Việc thực hiện liên đới
bên trong mọi xă hội là một cái ǵ có thể
chấp nhận được, khi các thành phần nh́n
nhận nhau như những nhân vị. Những ai có
thế lực hơn v́ có nhiều của cải và hưởng
nhiều dịch vụ công cộng hơn, phải
thấy có trách nhiệm đối với những người
yếu kém hơn và phải sẵn sàng chia sẻ
với họ những ǵ ḿnh có. Về phần ḿnh,
những người yếu kém hơn, trong cùng một
hướng liên đới, không nên có một thái
độ thuần tuư tiêu cực hoặc phá hoại xă
hội, nhưng làm những ǵ thuộc phần ḿnh v́
ích lợi của mọi người, trong khi vẫn bênh
vực những quyền chính đáng của ḿnh. Các nhóm
trung gian, về phần ḿnh, không được chỉ
quan tâm cách ích kỷ tới những quyền lợi riêng
của ḿnh, nhưng phải tôn trọng quyền
lợi kẻ khác. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 39) 132. Như vậy, nguyên tắc liên đới,
như người ta nói hôm nay, mà tôi đă nhắc
tới trong thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (x. nn.
38-40), vừa có giá trị trong trật tự nội
bộ của mỗi quốc gia và cả trong trật
tự quốc tế, được coi như một
trong những nguyên tắc cơ bản trong quan điểm
của Kitô giáo về tổ chức xă hội và chính
trị. Nguyên tắc này nhiều lần được
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII nói tới, dưới danh
từ "thân hữu" mà chúng ta đă gặp trong
triết lư Hy Lạp. Đức Giáo Hoàng Piô XI nhắc
tới điều này bằng một danh từ không kém
ư nghĩa hơn là "bác ái xă hội", đang khi
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nới rộng ư niệm này
chuyển biến theo nhiều chiều kích mới trong
vấn đề xă hội, đă nói về một
nền "văn minh t́nh thương" (x.
RN, n. 25; QA, n. 3; Paul VI, Bài giảng bế mạc Năm
Thánh, 1975). (Centesimus Annus, n. 10) 133. Sự liên đới giúp chúng ta
thấy "tha nhân” - người, dân tộc hay
quốc gia - không phải như một dụng cụ
tầm thường mà người ta không tốn bao nhiêu
để khai thác khả năng lao động và
sức mạnh thể xác, và vứt bỏ khi không dùng
nữa, nhưng như một kẻ "giống ḿnh",
một trợ tá (x. St 2, 18- 20), mà người ta
phải cho tham dự, ngang hàng với chúng ta, vào
tiệc sống Thiên Chúa dọn cho tất cả
mọi người như nhau. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 39) IV. Tương Trợ 134. Giáo lư của Giáo Hội đă
đề ra nguyên tắc tương trợ. Theo nguyên
tắc này, "một xă hội cấp cao không
được can thiệp vào nội bộ xă hội
cấp thấp đến độ tước mất
thẩm quyền của nó, nhưng đúng hơn
phải nâng đỡ nó khi cần thiết, và giúp nó
phối hợp hoạt động với những xă
hội khác, để mưu cầu công ích.” (CA, n. 48;
x. QA, nn. 184-186). Thiên Chúa không muốn dành cho riêng ḿnh
việc thực thi mọi quyền hành. Người trao
lại cho mỗi thụ tạo những phần vụ
nó có thể thi hành theo khả năng của bản tính
riêng. Xă hội loài người phải bắt chước
cách lănh đạo này. Cách Thiên Chúa cai trị thế
giới cho thấy Người rất tôn trọng
quyền tự do của con người. Đó phải
là đường hướng chỉ đạo cho
những ai cầm quyền trong các cộng đồng
nhân loại. Họ phải xử sự như những
thừa tác viên của Chúa Quan Pḥng. Nguyên tắc hỗ trợ nghịch
với mọi h́nh thức duy tập thể, xác định
giới hạn cho việc can thiệp của Nhà Nước,
hoà hợp các tương quan giữa cá nhân và xă
hội, hướng tới việc thiết lập
một trật tự quốc tế đích thực. (CEC, nn. 1883-1885) 135. Cũng như bên trong mỗi một
cộng đồng chính trị, những tương
quan giữa các công quyền với những công dân,
những gia đ́nh và những đoàn thể trung gian,
phải được chi phối và quân b́nh bởi
nguyên tắc hỗ trợ, th́ cũng một nguyên
tắc đó phải chi phối những tương
quan giữa thẩm quyền công quốc tế với
những thẩm quyền công của mỗi quốc gia.
Vai tṛ của thẩm quyền quốc tế là khám xét
và giải quyết những vấn đề công ích
quốc tế đặt ra trong lănh vực kinh tế, xă
hội, chính trị hay văn hoá. Chính tính phức
tạp, tầm rộng và tính khẩn cấp của
những vấn đề này, không cho phép những người
cai trị của mỗi cộng đồng chính
trị được giải quyết chúng tuỳ ư.
Như vậy thẩm quyền quốc tế này không có
quyền hạn chế hay đ̣i dành cho ḿnh những hành
vi thuộc riêng thẩm quyền của những
cộng đồng chính trị khác. Ngược
lại thẩm quyền quốc tế đó phải ra
sức khơi dậy trên toàn thể thế giới
một t́nh trạng, trong đó không những thẩm
quyền của mỗi quốc gia, mà c̣n những cá nhân,
và những đoàn thể trung gian, có thể an tâm hơn
trong việc hoàn thành nhiệm vụ ḿnh, chu toàn
những bổn phận ḿnh và thi hành những quyền
hành của ḿnh. (Pacem in Terris, nn. 140-141) 136. Cần đồng ư trước
hết là: lănh vực kinh tế phải do sáng kiến
tư nhân điều khiển, hoặc họ hoạt
động riêng biệt, hoặc họ hoạt động
thành từng tổ hợp đeo đuổi theo một
mối lợi chung. (Mater et Magistra, n. 51) 137. Nhưng phải luôn nhớ nguyên
tắc này: sự hiện diện của Nhà Nước
trong lănh vực kinh tế, dầu có tính sâu rộng và
xâm nhập đến mấy, cũng không có mục
đích ngày càng giảm thiểu phạm vi tự do
của sáng kiến cá nhân riêng tư, nhưng hoàn toàn
ngược lại nó có mục đích bảo đảm
cho phạm vi hoạt động này có tầm rộng
bao la nhất nếu có thể, nhờ có sự bảo
vệ hữu hiệu những quyền cốt yếu
của nhân vị, cho tất cả và cho mỗi một
người. Và phải ghi nhận giữa những
quyền này cái quyền thuộc về mỗi một
nhân vị là và vẫn c̣n thông thường là người
có trách nhiệm đầu tiên về sự nuôi
sống ḿnh và gia đ́nh ḿnh. Điều đó bao hàm,
trong tất cả mọi hệ thống kinh tế,
việc cho phép và làm dễ dàng sự thi hành tự do
những sinh hoạt sản xuất. (Mater et Magistra, n. 55) 138. Về phương diện này, Rerum
Novarum đề ra một đường lối đem
tới những cải tổ chính đáng hầu có
thể tái lập giá trị của lao động như
là một hoạt động tự do của con người.
Những cải tổ này bao hàm việc xă hội và
quốc gia đều có trách nhiệm, đặc
biệt là để bảo vệ giới thợ
thuyền tránh khỏi nỗi kinh hoàng bị thất
nghiệp. Xét về phương diện lịch sử,
việc này đă xảy ra theo hai cách cùng đi về
một đường hướng: hoặc qua các chính
sách kinh tế nhằm bảo đảm mức phát
triển và toàn dụng; hoặc qua việc bảo
hiểm về thất nghiệp và những chương
tŕnh huấn nghệ có khả năng bảo đảm
một sự hoán chuyển êm thắm công nhân từ các
khu vực gặp khủng hoảng sang những khu
vực đang phát triển... …Nhà Nước phải
góp phần một cách trực tiếp lẫn gián
tiếp việc thực hiện những mục tiêu này.
Một cách gián tiếp và phù hợp với nguyên
tắc tương trợ, bằng cách tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho việc
tự do thực hiện sinh hoạt kinh tế, đem
lại những cơ hội làm việc và những
nguồn tài nguyên dồi dào. Một cách trực
tiếp và phù hợp với nguyên tắc liên đới,
bằng cách bảo vệ những kẻ yếu kém
nhất qua việc đặt ra một số những
giới hạn về tự trị của các phần
tử có quyền ấn định các điều
kiện làm việc và bằng cách bảo đảm
trong mọi trường hợp một sự trợ giúp
tối thiểu cho công nhân bị thất nghiệp. V. Tham Gia
139. Sự mong ước được
b́nh đẳng và tham gia, muốn cổ vơ một
kiểu xă hội dân chủ. Người ta đề
ra nhiều kiểu, thử nghiệm một số khác;
nhưng không kiểu nào thoả măn hoàn toàn và sự
nghiên cứu vấn đề vẫn rộng mở
giữa các khuynh hướng ư thức hệ và
thực nghiệm. Người Kitô hữu có bổn
phận tham gia vào việc nghiên cứu này và vào tổ
chức như vào sự sống xă hội chính trị.
Là một hữu thể có tính xă hội, con người
xây dựng vận mệnh ḿnh trong một loạt
những nhóm riêng, để cho ḿnh được hoàn
thành và để nên điều kiện cần
thiết cho ḿnh phát triển, th́ những nhóm đó kêu
gọi thiết lập một xă hội rộng răi hơn,
có tính quốc tế, tức là xă hội chính trị.
Tất cả sinh hoạt riêng phải được
đặt lại trong xă hội mở rộng này và,
qua chính sự đó, mang lấy chiều kích của công
ích. (Octogesima Adveniens, n. 24) 140. Điều cốt yếu đối
với tất cả hữu thể nhân bản là ư
thức ḿnh tham gia và chia sẻ cách hữu hiệu
những quyết định và những cố gắng
vạch ra vận mạng thế giới. Trong quá
khứ, bạo loạn và bất công thường
bị khích động trước h́nh thành sự
sống ḿnh. (Sứ điệp ngày thế giới hoà
b́nh, 1985, n. 9) 141. Đó là nhiệm vụ nghiêm túc
về công bằng và chân lư không cho phép các nhu cầu
cơ bản của con người tiếp tục không
được thoả măn và không cho phép để
chết những người đau khổ v́ thiếu
những nhu cầu ấy. Vả lại, cần giúp
đỡ những người yếu kém có được
khả năng chuyên môn, được nhập vào
những mạng lưới tương quan, được
phát triển những tư cách ḿnh để làm tăng
giá trị các khả năng và những tài nguyên cá nhân
ḿnh. (Centesimus Annus, n. 34) 142. Thiết lập những cơ
cấu chính trị pháp lư là điều phù hợp
với bản tính con người, v́ nhờ đó
tất cả mọi công dân, không phân biệt ai, có
thể mỗi ngày một có cơ hội tham gia cách
tự do và tích cực vào việc thiết lập
nền tảng pháp lư của cộng đoàn chính
trị, tham gia vào việc điều hành quốc gia và
xác định mục tiêu và phạm vi của những
cơ quan khác nhau, cũng như tham gia vào việc
lựa chọn người cầm
quyền. Chính
quyền không nên ngăn cản những hiệp hội
có tính cách gia đ́nh, xă hội hay văn hoá, những
đoàn thể hay tổ chức trung gian, cũng không nên
tước đoạt những hoạt động
hữu hiệu và chính đáng của các tổ
chức ấy; nhưng tốt hơn nên sẵn sàng
cổ vơ, trong trật tự. Về phía người công
dân, cá nhân hay đoàn thể, không nên trao cho chính
quyền một quyền hành quá lớn, cũng đừng
đ̣i hỏi ở chính quyền những giúp đỡ
cũng như những đặc ân quá đáng không
phải lúc, v́ như thế là làm giảm trách
nhiệm của cá nhân, gia đ́nh và cả các đoàn
thể xă hội. (Gaudium et Spes, n. 75) 143. Tất cả mọi công dân có
quyền tham gia vào đời sống của cộng
đồng ḿnh: đó là một xác tín được
chia sẻ cách chung. Nhưng, quyền nầy trở nên
vô hiệu khi tiến tŕnh dân chủ bị mất
nghị lực do chế độ ưu đăi và
những hiện tượng tham nhũng, không những
ngăn trở sự tham gia hợp pháp vào việc
xử lư quyền bính, mà c̣n ngăn cấm việc
sử dụng chính đáng những lợi ích và
những dịch vụ công cộng. (Sứ điệp ngày thế giới hoà
b́nh, 1999, n. 6. ) 144. Cùng một lúc với sự phát
triển khoa học và kỹ thuật tiếp tục
đảo lộn hoàn cảnh của con người,
những kiểu hiểu biết, lao động, hưởng
thụ và các tương quan của con người, th́
luôn luôn trong những bối cảnh mới này, phát
biểu một ḷng mong ước kép sinh động hơn
theo nhịp phát triển sự thông tin và sự giáo
dục của con người: mong ước được
b́nh đẳng, mong ước được tham gia,
hai h́nh thức biểu lộ phẩm giá và sự
tự do của con người. (Octogesima Adveniens n. 22) 145. Phẩm giá con người kéo theo
quyền tham gia tích cực vào đời sống công
cộng và quyền góp phần cá nhân vào thiện ích
chung. "Con người, với tư cách con người,
thay v́ là đối tượng và là một yếu
tố tiêu cực của đời sống xă hội,
th́ là và phải là, vẫn là chủ thể, nền
tảng và cùng đích của đời sống xă
hội" (Sứ điệp truyền thanh Giáng Sinh,
1994) (Pacem in Terris, n. 26) VI. Sự Tha Hoá Và Sự Gạt Ra Bên
Lề
146. Chủ nghĩa Mác-xít chỉ trích các
xă hội tư bản trưởng giả, cho là đă
tạo ra sự đánh mất sự sống con người
và biến nó thành một món hàng. Lời kết án này
dĩ nhiên dựa trên tư
tưởng sai lầm và không chính đáng về
sự tha hoá, phát xuất từ lănh vực các mối
tương quan giữa sản xuất và sở hữu,
nghĩa là đặt nó trên cơ sở vật
chất và, hơn nữa, chối bỏ tính cách
hợp pháp và giá trị tích cực của các tương
quan thị trường ngay cả trong lănh vực
của nó … (Nhưng) sự tha hoá với sự
mất ư nghĩa đích thực của cuộc đời,
cũng là một thực tế xảy ra tại các xă
hội phương Tây. Người ta nhận ra sự
kiện này qua mức độ tiêu thụ, khi sự tiêu
thụ làm người ta vướng vào mạng lưới
các thoả măn giả tạo và sai lầm, hơn là giúp
con người có kinh nghiệm đích thực và
cụ thể về nhân tính của ḿnh. Sự tha hoá cũng
thấy trong việc làm, khi được tổ
chức nhằm bào đảm những thu hoạch và
lợi nhuận tối đa mà không quan tâm tới
việc người thợ, qua lao động của
họ, có được thăng tiến nhiều hay ít
trong tính nhân bản của ḿnh, tuỳ theo cường
độ gia tăng của sự con người tham gia
vào một cộng đồng liên đới thật
sự, hay là sự cô lập con người thêm
trầm trọng trong một khối liên hệ gồm có
sự cạnh tranh thái quá và những loại trừ
lẫn nhau, trong đó con người chỉ được
coi như một phương tiện chớ không
phải là mục đích. Ư niệm tha hoá cần
được xích gần tới cái nh́n về
thực tại của Kitô giáo, để vạch
trần ở đó sự đảo ngược
giữa những phương tiện và mục đích;
khi con người không thừa nhận phẩm giá và nét
cao quư của nhân vị trong ḿnh hay nơi kẻ khác,
th́ con người đă tước bỏ khả năng
hưởng dụng chính đáng nhân tính của ḿnh và
khả năng thiết lập mối tương quan liên
đới và hiệp thông với những người
khác mà v́ họ Chúa đă dựng nên con người
đó. (Centesimus Annus, 41) 147. Con người thời nay xem như
luôn bị đe doạ bởi cái ḿnh làm ra, tức là
bởi thành quả của công lao bàn tay ḿnh, và hơn
nữa, của công lao trí óc ḿnh, của các xu hướng
thuộc ư chí ḿnh. Một cách quá nhanh chóng và nhiều
khi bất ngờ, các thành quả của hoạt động
đa dạng kia của con người, không chỉ là
và không hẵn là đối tượng cho sự "tha
hoá", nghĩa là đơn thuần bị cướp
mất khỏi tay kẻ đă làm ra chúng; nhưng ít ra
một phần nào, trong hướng có khi gián tiếp
của những hiệu quả, các thành quả kia quay
lại chống con người. (Redemptor Hominis, n. 15) 148. Vấn nạn luân lư đă nhận
được lời giải đáp của Đưc
Kitô, không thể loại trừ vấn nạn về
tự do, nhưng đặt vấn đề tự do vào
ngay giữa trung tâm, bởi lẽ không có luân lư
nếu không có tự do. "Con người quay vê điều
thiện luôn luôn trong t́nh trạng tự do" (GS, n.
17). Nhưng tự do nào ? Những con người
đương thời với chúng ta "rất ư
đề cao" tự do và "hăng say đeo đuổi
tự do", nhưng lại thường "cưng
chiều tự do một cách thiếu ngay thẳng",
coi tự do như là quyền được làm bất
cứ điều ǵ, miễn sao tạo được
thoả thích, kể cả điều xấu". Đối
lại với họ, Công Đồng tŕnh bày sự
"tự do thật" như sau: "Tự do
thật là dấu chỉ đăi ngộ nơi con người
chứng tỏ con người là h́nh ảnh của Thiên
Chúa. Bởi v́ Thiên Chúa đă muốn để cho con
người tự bàn hỏi với chính ḿnh (Hc 15, 14)
ngơ hầu con người có thể tự ḿnh t́m
kiếm Đấng Tạo Hoá và nhờ gắn bó
với Ngài một cách tự do mà đạt mức thành
toàn trong một t́nh trạng viên măn chân phúc" (GS, n.
17). Nếu trong hành tŕnh truy tầm chân lư, ḿnh có
quyền dược tôn trọng, th́ trước đó
mọi người có luật buộc luân lư nghiêm
trọng là t́m kiếm chân lư và, một khi đă
nhận biết chân lư, phải gắn bó với chân lư
(x. Dignitatis Humanae, n. 2). (Veritatis Splendor, n. 34) 149. Không những người ta không có
quyền coi thường, xét theo quan điểm đạo
đức, bản chất con người được
tạo dựng để hưởng tự do, nhưng
trên thực tế điều đó không thể
thực hiện được. Bất cứ nơi nào
mà xă hội được tổ chức bằng cách
giảm bớt cách độc đoán hay có khi băi
bỏ lănh vực cần để sự tự do
được thực thi cách hợp pháp, th́ sẽ
đưa tới kết quả là cuộc sống xă
hội sẽ dần dần tan ră và đi tới
chỗ suy đồi. (Centesimus Annus, n. 25) 150. Sự tự do là thước đo
phẩm giá và vẻ cao cả của con người.
Đối với những cá nhân và các dân tộc,
sống tự do là một thách đố lớn cho
sự tiến triển thiêng liêng con người và cho
sức mạnh luân lư các quốc gia. (Diễn văn tại cuộc Họp Khoáng
đại lần 5 LHQ, 1995, n. 12) 151. Sự tự do không những là
vắng bóng nền độc tài hay đàn áp, cũng
không phải là được phép làm ǵ th́ làm.
Sự tự do có một "logique" nội tại
định tính chất và nâng cao phẩm giá của nó:
nó được hướng về chân lư và nó
tự thực hiện trong sự t́m kiếm và thực
hành chân lư. Tách rời khỏi chân lư của nhân
vị, th́ nó biến thành sự vô kỷ luật trong
đời sống cá nhân và, trong đời sống chính
trị, thành quyền chuyên chế của những
kẻ mạnh nhất hay thành thái độ kiêu
ngạo của quyền bính. (Diễn văn tại cuộc họp Khoáng
đại lần 5 LHQ, 1995, n. 12) VII. Tự Do Xă Hội
152. V́ không phải là một ư thức
hệ, đức tin Kitô giáo không chủ trương
giam hăm các thực tại xă hội và chính trị
đổi thay vào một khuôn khổ cứng nhắc, và
nh́n nhận rằng cuộc sống con người
thể hiện trong lịch sử qua những điều
kiện khác biệt và bất toàn. Hơn nữa, Giáo
Hội, qua việc luôn luôn xác nhận giá trị siêu
việt của con người, lấy việc tôn
trọng tự do làm phương châm hành động
của ḿnh. (Centesimus Annus, n. 46) 153. Những tương quan giữa các
cộng đồng chính trị phải được
xử lư trong tự do. Điều này có nghĩa là không
một nước nào có quyền làm bất cứ ǵ
để uy hiếp cách bất công những nước
khác, hay là để xen cách quá đáng vào những công
việc của các nước đó. Ngược
lại, tất cả các nước phải đề
ra cho ḿnh việc góp phần, cho các nước khác, làm
phát triển ư nghĩa những trách nhiệm, khuyến
khích những sáng kiến mới và hữu ích, biết
tự ḿnh làm thăng tiến sự lớn mạnh
của ḿnh trong tất cả các lănh vực. 154. Chính v́ thế mối liên kết không
thể tách ĺa giữa chân lư và tự do - là phản
ảnh của mối liên kết thiết yếu
giữa sự khôn ngoan và thánh ư của Thiên Chúa- mang
một ư nghĩa vô cùng quan trọng đối với
đời sống con người trong khuôn khổ xă
hội - kinh tế và xă hội - chính trị. (Veritatis Splendor, n. 99) VIII. Văn Hoá
155. Giữa sứ điệp cứu
độ và văn hoá nhân loại có nhiều mối
liên hệ. Thực vậy, khi tự mặc khải cùng
dân Ngài cho tới khi tỏ ḿnh đầy đủ
trong Chúa Con nhập thể, Thiên Chúa đă nói theo văn
hoá của từng thời đại. Cũng vậy,
trải qua các thế kỷ sống trong nhiều hoàn
cảnh khác nhau, Giáo Hội đă sử dụng
những tài nguyên của các nền văn hoá khác
biệt để phổ biến và giải thích cho muôn
dân sứ điệp của Chúa Kitô trong khi rao
giảng, để t́m ṭi và thấu hiểu sâu xa hơn,
đễ diễn tả sứ điệp ấy cách
tốt đẹp hơn trong các lễ nghi phụng
vụ và trong cuộc sống muôn mặt của
cộng đoàn các tín hữu. Nhưng đồng
thời, Giáo Hội không bị ràng buộc cách độc
quyền và bất khả phân ly với một chủng
tộc hay quốc gia, với một lối sống
đặc thù hoặc một tập tục cũ hay
mới nào, v́ Giáo Hội được sai đến
với mọi dân tộc thuộc mọi nơi và
mọi thời. Trung thành với truyền thống riêng
và đồng thời ư thức sứ mệnh phổ
quát của ḿnh, Giáo Hội có thể hoà ḿnh với
nhiều h́nh thức văn hoá khác nhau. Nhờ đó,
chính Giáo Hội cũng như các nền văn hoá
ấy đều được phong phú hơn. Tin
Mừng của Chúa Kitô không ngừng đổi mới
cuộc sống và văn hoá của con người
đă sa ngă, chống đối và khử trừ các
sai lầm và tai hoạ phát sinh từ sức quyến rũ
thường xuyên của tội lỗi luôn luôn đe
doạ. Tin Mừng không ngừng tinh luyện và nâng cao
văn hoá các dân tộc. Những đức tính
của mọi thời được Tin Mừng làm cho
phong phú như từ bên trong, được củng
cố, bổ túc và tái tạo trong Chúa Kitô nhờ
những ân huệ bởi trời. Như thế trong khi
chu toàn bổn phận riêng, Giáo Hội cũng đồng
thời thúc đẩy và góp phần vào công cuộc phát
triển văn hoá nhân loại; và nhờ hoạt động
của ḿnh, ngay cả trong các nghi lễ phụng vụ,
Giáo Hội giáo dục cho con người đạt
tới tự do nội tâm. (Gaudium et Spes, n. 58) 156. Mọi hoạt động của con
người đều có mặt trong một nền văn
hoá và tương giao với nền văn hoá đó.
Việc h́nh thành tốt đẹp một nền văn
hoá, đ̣i hỏi sự đóng góp của mọi người
bằng óc sáng tạo, trí thông minh và sự thông
hiểu về thế giới và con người. Hơn
nữa, con người phải biết tự chế, hy
sinh, đoàn kết và sẵn sàng cổ vơ cho công ích.
Như vậy nhiệm vụ trước tiên và quan
trọng nhất cần thực hiện ngay trong trái tim
con người, và cách thức con người nỗ
lực để tạo dựng tương lai của
chính ḿnh tuỳ thuộc vào sự hiểu biết
về chính con người của ḿnh và định
mệnh của ḿnh. (Centesimus Annus n. 51) 157. Giàu hay nghèo, mỗi đất nước
đều có một nền văn minh do tiền nhân
để lại: đó là những cơ cấu
cần có cho đời sống vật chất và
những biểu tỏ cao thượng của đời
sống tinh thần như nghệ thuật, trí thức
và tôn giáo. Nếu những sinh hoạt tinh thần có hàm
chứa những giá trị nhân bản đích thực,
th́ thực là một lầm lẫn lớn, khi bỏ nó
để chỉ t́m những thể hiện vật
chất kia. Một dân tộc mà làm như thế là
bỏ mất cái ǵ quí giá nhất của ḿnh, và như
thế là sống mà bỏ mất lư do của cuộc
sống. Lời dạy dỗ sau đây của Chúa Kitô
cũng áp dụng cho các dân tộc: "Nếu người
ta được cả thế giới mà phải
thiệt mất mạng sống, th́ nào có lợi ǵ"
? (Mt 16, 26) (Populorum Progressio, n. 40) 158. Văn hoá là môi trường sinh
động có tính cách quyết định, trong đó
con người đến gặp Tin Mừng diện
đối diện. Cũng như văn hoá là kết
quả xuất phát từ cuộc sống và sinh
hoạt của một tập thể nhân loại, th́
đối lại cũng chính tập thể nhân
loại này lại được khuôn đúc trong
một phạm vi rộng bởi chính môi trường văn
hoá mà họ đang sinh sống. Nếu con người
và xă hội thay đổi, văn hoá cũng sẽ thay
đổi theo. Ngược lại, nếu văn hoá
đổi thay th́ con người và xă hội cũng
được văn hoá ấy biến đổi theo.
Nh́n trong viễn tượng ấy, ta càng thấy rơ hơn
tại sao Phúc Âm hoá và hội nhập văn hoá có liên
quan mật thiết và tự nhiên với nhau. Tin
Mừng và việc Phúc Âm hoá tất nhiên không đồng
nhất với văn hoá; chúng độc lập
với văn hoá. Nhưng Nước Thiên Chúa lại
đến với những con người đă có liên
hệ sâu xa với một nền văn hoá, và không
thể xây dựng Nước Thiên Chúa mà không vay mượn
một số yếu tố lấy từ các nền văn
hoá nhân loại. (Ecclesia in Asia, n. 21) 159. Khi thi hành sinh hoạt truyền giáo
của ḿnh giữa các dân tộc, Giáo Hội tiếp xúc
với những nền văn hoá khác biệt và tham gia
vào tiến tŕnh đối thoại … Giáo Hội
truyền thông cho họ các giá trị của ḿnh, đồng
thời nhận lấy những ǵ tốt đẹp
trong các nền văn hoá đó và đổi mới chúng
từ bên trong, (Redemptoris missio, n. 52) 160. Không thể hiểu về con người
theo phương diện kinh tế mà thôi, không thể
định nghĩa con người mà chỉ dựa vào
sự kiện nó thuộc một giai cấp nào. Người
ta hiểu con người cách đầy đủ hơn,
nếu người ta đặt nó trong bối cảnh
văn hoá của nó, xét tiếng nói, lịch sử
của nó, những quan điểm nó tán thành trước
các biến cố căn bản của đời
sống như sự sinh đẻ, yêu đương,
lao động và sự chết. Trung tâm mọi nền
văn hoá là thái độ của con người đối
với bí mật lớn lao nhất; bí mật về Thiên
Chúa. Kỳ thực, nền văn hoá của các nước
khác nhau là bao nhiêu cách bàn đến vấn đề
ư nghĩa của sự sống nhân vị: khi người
ta loại bỏ vấn đề này, văn hoá và
đời sống luân lư cùa các quốc gia sẽ
bị băng hoại. (Centesimus Annus, n. 24) IX. Sự Phát Triển Nhân Bản Đích
Thực
161. Đối với dân tộc cũng
như đối với một cá nhân, có thêm nhiều
của cải hơn không phải là mục đích
tối hậu. Mỗi một sự thăng tiến
đều có hai mặt. Tuy cần thiết để
con người nên người hơn, nhưng nó cũng
giam hăm con người như trong ngục thất
một khi nó trở thành giá trị lớn nhất ngăn
cản nh́n lên trời. Lúc đó, ḷng người
trở thành chai đá và tinh thần khép kín lại, con
người không c̣n đến với nhau v́ t́nh nghĩa,
nhưng chỉ v́ lợi lộc, sớm làm cho con người
chống đối nhau và chia rẽ nhau. Sự t́m
kiếm của cải mà thôi bấy giờ sẽ ngăn
trở sự phát triển con người và phản
lại sự cao cả bẩm sinh của con người:
đối với những quốc gia cũng như
đối với những con người, tội tham
lam là một h́nh thức lộ liễu nhất của
t́nh trạng luân lư thấp kém. (Populorum Progressio, n. 9) 162. Tóm lại, ngày nay, t́nh trạng
chậm tiến không phải là chậm tiến về
mặt kinh tế; nó cũng là chậm tiến về văn
hoá, về chính trị và về mặt nhân bản
chỉ thế thôi, như Thông điệp Populorum
Progressio đă nêu lên cách đây 20 năm. Ở đây
phải tự hỏi thực tại buồn thảm ngày
nay có phải là hậu quả, ít ra một phần,
của một quan điểm rất eo hẹp, tức là
quan niệm chủ ư nhắm tới sự phát triển
kinh tế trước tiên mà thôi. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 15) 163. Sự phát triển nhân bản
trọn vẹn - phát triển của mọi người
và của trọn vẹn con người, cách riêng
những người nghèo nhất và xấu số
nhất của cộng đồng - nằm tại chính
trung tâm của việc Phúc Âm hoá. Giữa việc Phúc
Âm hoá và việc thăng tiến con người -
sự phát triển, sự giải phóng -có những liên
hệ sâu xa. Đó là những liên hệ thuộc
trật tự nhân chủng học, bởi v́ con người
phải được Phúc Âm hoá không phải là
một hữu thể trừu tượng, nhưng nó có
liên quan tới các vấn đề xă hội và kinh
tế. 164. Sự phát triển kỹ thuật và
sự phát triển văn minh thời đại chúng ta
được đánh dấu bằng sự ưu
thắng của kỹ thuật, đ̣i hỏi một
sự phát triển cân đối giữa sự
sống luân lư và nền đạo đức. Sự
phát triển thứ hai xem ra, vô phúc thay, tụt hậu
luôn luôn. Chắc chắn sự phát triển này là
tuyệt vời và khó mà không thấy trong nó những
dấu chỉ đích thực về sự cao cả
của con người, mà năng lực sáng tạo
được mặc khải manh nha trong những trang sách
Sáng Thế, khởi từ sự diễn tả việc
sáng tạo ra nó, nhưng cũng chính sự phát
triển này không thể không sinh ra nhiều âu lo. Âu lo
thứ nhất liên can tới vấn đề thiết
yếu và cơ bản: sự phát triển này mà con người
là tác giả vừa là người bảo vệ, có làm
cho đời sống con người trên mặt đất
này ra “con người hơn" về mọi phương
diện không ? Có làm cho sự sống xứng với
“con người" hơn không" ? Người ta không
thể nghi ngờ có như vậy dưới một vài
khía cạnh. Nhưng câu hỏi đó nhất quyết
quay lại trên cái điều thiết yếu: con người,
với tư cách con người, trong bối cảnh
của sự phát triển này, có thật sự tốt
hơn không, nghĩa là trưởng thành hơn về
mặt thiêng liêng, ư thức hơn về phẩm giá
của nhân tính ḿnh, có trách nhiệm hơn, cởi
mở hơn với kẻ khác, đặc biệt
với những kẻ tay không nhất và những
kẻ yếu kém nhất, có sẵn sàng cho và giúp đỡ
mọi người không ? (Redemptor Hominis, n. 15) 165. Nhưng đồng thời cái quan
niệm “kinh tế" hay “vụ kinh tế",
đi kèm với từ “phát triển”, cũng bị
khủng hoảng. Thật vậy, ngày nay người ta
hiểu rơ hơn rằng việc tích trữ thuần tuư
các của cải và dịch vụ, dẫu cho rằng v́
lợi ích của đa số, cũng không đủ
để làm cho người ta được hạnh
phúc. Do đó, sự có sẵn những lợi lộc
thực mà khoa học và kỹ thuật, kể cả
tin học, đem lại trong thời gian vừa qua, cũng
không đưa tới sự giải phóng mọi h́nh
thức nô lệ. Kinh nghiệm những năm gần
đây, chứng minh ngược lại rằng, nếu
cái khối tài nguyên và khả năng được vào
tay con người, mà không được sử
dụng theo một ư định đạo đức và
một chiều hướng nhằm ích lợi đích
thực của nhân loại, th́ nó sẽ dễ dàng quay
ngược lại chống con người đễ
đàn áp con người. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 28) 166. Nếu để xúc tiến việc
phát triển, cần phải có những chuyên viên ngày
càng nhiều, th́ càng cần phải có nhiều hơn
nữa những nhà hiền triết biết suy nghĩ sâu
xa để t́m kiếm một thuyết nhân bản
mới, nhờ đó con người hiện đại
t́m được lại chính ḿnh, bằng cách tự
nhận ra những giá trị cao quí của t́nh yêu, t́nh
bạn, cầu nguyện và chiêm ngắm. Như vậy
sẽ hoàn thành sự phát triển đích thực,
sự phát triển đó, đối với mỗi người
và tất cả mọi người, đi từ
những điều kiện ít xứng đáng với
con người tới những điều kiện
xứng đáng với con người hơn. (Populorum Progressio, n. 20) X. Công Ích
167. Phải hiểu công ích là “toàn
bộ những điều kiện của đời
sống xă hội cho phép những tập thể hay
những phần tử riêng rẽ có thể đạt
tới sự hoàn hảo riêng một cách đầy
đủ và dễ dàng hơn (GS, n. 26; x. GS, n. 74). Công
ích liên quan đến đời sống của mọi
người, đ̣i hỏi mỗi người phải
thận trọng, nhất là những ai đang cầm
quyền. Công ích gồm ba yếu tố căn bản: Trước hết công ích phải tôn
trọng con người với tư cách là người.
Nhân danh công ích, chính quyền có bổn phận tôn
trọng các quyền căn bản và bất khả nhượng
của con người. Xă hội phải giúp cho các thành
viên thực hiện ơn gọi của ḿnh. Đặc
biệt công ích cho con người thực thi các
quyền tự do tự nhiên không thể thiếu để
phát triển ơn gọi làm người: như:
quyền hành động theo qui tắc ngay thẳng
của lương tâm ḿnh, quyền bảo vệ đời
tư và quyền được tự do chính đáng,
cả trong phạm vi tôn giáo nữa “(GS, n. 26). Kế đến, công ích phải bước
đến sự an lạc xă hội và sự phát
triển của chính tập thể. Mọi bổn
phận xă hội đều quy về sự phát
triển. Nhân danh công ích, nhà cầm quyền có
nhiệm vụ làm trọng tài giữa các quyền
lợi riêng tư khác nhau; phải giúp mỗi người
có được những ǵ cần thiết để
sống đúng với phẩm giá “con người":
lương thực, áo quần, sức khoẻ, việc
làm, giáo dục và văn hoá, được thông tin
đầy đủ, quyền xây dựng một gia
đ́nh, v.v... (x. GS, n. 26) Sau hết, công ích c̣n phải kiến
tạo hoà b́nh, bảo tồn một trật tự
đứng đắn được lâu bền và
ổn định. Điều này giả thiết
rằng quyền bính phải bảo đảm an ninh cho
xă hội và cho các thành viên của xă hội bằng
những phương thế liêm chính. Công ích đặt
nền tảng cho quyền tự vệ chính đáng
của cá nhân và tập thể. (CEC, nn. 1906-1909). 168. Sự lệ thuộc nhau một ngày
một chặt chẽ hơn và dần dần lan
rộng trên toàn thể thế giới, v́ thế công
ích - tức là toàn bộ những điều kiện
của đời sống xă hội cho phép những
tập thể hay những phần tử riêng rẽ có
thể đạt tơi sự hoàn hảo riêng một
cách đầy đủ và dễ dàng hơn - ngày nay
mỗi lúc một nới rộng tầm phổ quát hơn
và do đó bao hàm những quyền lợi và nghĩa
vụ của toàn thể nhân loại. Bất cứ
tập thể nào cũng phải tôn trọng nhu cầu
và những nguyện vọng chính đáng của các
tập thể khác; hơn thế nữa, phải tôn
trọng công ích của toàn thể gia đ́nh nhân
loại. Trật tự này phải phát triển
mỗi ngày một hơn, phải đặt nền
tảng trên chân lư, xây dựng trong công b́nh, nuôi dưỡng
nhờ t́nh yêu; phải dần dần t́m được
trong tự do sự quân b́nh mỗi ngày mỗi hợp
với nhân bản hơn. Để chu toàn được
những điều trên, phải có sự đổi
mới tâm thức và những sự thay đổi sâu
rộng trong xă hội. Thánh Thần Chúa, Đấng
điều khiển những biến chuyển thời
gian và canh tân bộ mặt trái đất với
sự quan pḥng kỳ diệu, đang hiện diện
trong cuộc tiến hoá này. Men Tin Mừng đă và
đang làm dậy lên trong ḷng con người sự
đ̣i hỏi phải có nhân phẩm, một đ̣i
hỏi không thể cưỡng chế được. 169. Quyền bính chỉ được hành
xử hợp pháp khi mưu cầu công ích cho tập
thể liên hệ và đạt tới mục đích
ấy bằng các phương thế mà luân lư cho phép.
Nếu các nhà lănh đạo đưa ra những
luật bất công hay sử dụng những biện pháp
trái luân lư, lương tâm không buộc phải tuân
theo. “Trong những trường hợp này, quyền bính
không c̣n là quyền bính nữa mà thoái hoá thành áp
bức" (PT, n. 51). (CEC, n. 1903) 170. Nếu người ta xem xét kỹ lưỡng
khái niệm nội tại của công ích, một bên, và
bên kia, bản chất và nhiệm vụ của
quyền bính, không ai mà không thấy chúng liên kết
với nhau bằng một sự cân xứng cần
thiết. Thật vậy trật tự xă hội, khi
thỉnh cầu có một quyền bính để
khuyến khích công ích trong xă hội dân sự, đồng
thời cũng đ̣i hỏi quyền bính có thể
thực hiện điều đó cách hiệu nghiệm.
Do đó, những cơ chế dân sự - trong đó,
quyền bính h́nh thành, thực thi và đạt mục
đích - phải có một h́nh thức và một
hiệu năng nhờ đó chúng có thể đưa
tới công ích qua những con đường và
những phương tiện đáp ứng xứng
hợp với những thời gian khác biệt của
sự vật. (Pacem in Terris, n. 136) 171. Phải cứu xét những yêu sách
của công ích trên b́nh diện quốc gia: t́m việc
làm cho một số công nhân nhiều nhất; tránh
đào tạo những hạng ưu tiên, dầu trong
số những người này; duy tŕ một sự cân
đối công b́nh giữa tiền lương và
vật giá; cho một số lớn - hết sức có
thể - công dân hưởng dụng các của cải
và dịch vụ; loại trừ hay giảm thiểu
những mất quân b́nh giữa các khu vực: canh nông,
kỹ nghệ, dịch vụ; quân b́nh sự lan
rộng kinh tế với sự phát triển những
dịch vụ công công thiết yếu; thích nghi, trong
mức độ có thể, những cơ cấu
sản xuất với những tiến bộ khoa
học và kỹ thuật; tiết chế mức
sống đă cải thiện của các thế hệ
hiện nay bằng cách lưu ư đến một tương
lai tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Hơn nữa công ích có những yêu sách
trên b́nh diện quốc tế: tránh tất cả h́nh
thức cạnh tranh bất chính giữa các nền kinh
tế của những nước khác nhau ; tán thưởng,
qua những thoả thuận phong phú, sự hợp tác
giứa những những nền kinh tế quốc gia;
hợp tác làm phát triển kinh tế của những
cộng đồng chính trị c̣n lạc hậu. (Mater et Magistra, nn. 79-80) 172. Bởi v́ ở thời đại chúng
ta người ta coi công ích hệ tại hơn hết
trong việc bảo vệ những quyền và những
bổn phận của con người, nên những người
chăm lo việc công phải bận tâm cách riêng
về việc bảo đảm sự công nhận và tôn
trọng những quyền này, sự dung hoà chúng
với nhau, bênh vực chúng và khích lệ chúng, để
cho mỗi người có thể chu toàn dễ dàng hơn
các bổn phận ḿnh. Bởi v́ “sứ vụ chính
của mọi quyền bính là bảo vệ những
quyền bất khả xâm phạm riêng của con người,
và làm thế nào cho mỗi người chu toàn dễ dàng
hơn các nhiệm vụ ḿnh". (Pacem in Terris, n. 60) 173. Trong mục đích này, những người
nắm giữ quyền bính phải được linh
hứng bằng một quan niệm lành mạnh về công
ích. Công ích bao gồm tổng thể những điều
kiện xă hội cho phép và tán thưởng, trong con người,
sự phát triển nguyên vẹn nhân vị của ḿnh.
Vả lại, chúng tôi cho là cần thiết việc
những tổ chức trung gian và những sáng kiến
xă hội khác nhau, mà qua đó người ta diễn
tả và thực hiện việc “xă hội hoá", hưởng
được một nền tự trị hiệu
nghiệm trước các quyền bính, đeo đuổi
những ích lợi riêng của họ trong những tương
quan về sự hợp tác liêm chính giữa họ và
về sự tùng phục những yêu sách của công ích.
Điều không ít cần hơn là những tổ
chức xă hội đó lấy h́nh thức cộng
đồng thực sự; điều đó có nghĩa
là các thành phần của các tổ chức đó
đươc coi và được xử sự như
những nhân vị, được khuyến khích tham
gia tích cực vào sự sống của chúng. Những tổ chức trong xă hội
hiện đại được phát triển và
trật tự ở đó được thực
hiện ngày càng hơn, nhờ có một sự quân b́nh
đổi mới: một bên là yêu sách hợp tác
tự trị về phía mọi người, cá nhân và
tập thể; một bên là sự phối hợp trong
lúc thuận tiện và sự hướng dẫn từ
các quyền bính. (Mater et Magistra, n. nn. 65-66) 174. Lợi ích chung cũng đ̣i hỏi các quyền dân
sự phải thực tâm cố gắng để đạt
được một hoàn cảnh trong đó các công dân
có thể thi hành dễ dàng những quyền của ḿnh
và đeo đuổi những bổn phận của ḿnh.
Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng, nếu các quyền
hành này không có những biện pháp xứng hợp cho
các vấn đề kinh tế, chính trị và văn hoá,
những bất đồng giữa các công dân có khuynh
hướng trở nên ngày càng ưu thắng, nhất
là trong khuôn khổ thế giới hiện đại, và,
do đó, các quyền con người trở thành vô
hiệu cách tuyệt đối. (Pacem
in Terris, n. 63) XI.
Tội Xă Hội
175.
Tuy nhiên cần phải tố cáo những cơ cấu
kinh tế, tài chánh và xă hội, mặc dầu do ư
muốn của con người điều khiển, thường
hoạt động một cách dường như máy móc,
làm nổi bật sự khác biệt giữa t́nh
trạng giàu có của người này và t́nh trạng
nghèo khổ của người kia. Các cơ chế
đó, do các nước mở mang hơn điều
khiển trực tiếp hay gián tiếp, do chính cách
thức chúng hoạt động, củng cố
quyền lợi của những nước điều
khiển, nhưng cuối cùng bóp nghẹt hay điều
kiện hoá kinh tế các nước kém mở mang. Sau
đây, chúng ta phải phân tích kỹ những cơ
chế đó, dưới khía cạnh đạo đức
và luân lư. 176.
Nói tội xă hội có nghĩa là, trước hết,
công nhận rằng, do một sự liên đới nhân
bản cũng mầu nhiệm và vô h́nh như thật
sự và cụ thể, tội một người
phản xạ cách nào đó trên những kẻ khác ...
Tuy nhiên có những tội, do chính đối tượng
của nó, là một sự công kích trực tiếp
đối với kẻ khác và - cách chính xác hơn,
nếu người ta hiểu theo ngôn ngữ Tin Mừng
- đối với anh em. Những tội đó xúc
phạm tới Thiên Chúa, bởi v́ nó xúc phạm
tới tha nhân. Thường thường người ta
chỉ rơ những tội đó bằng tính từ
"xă hội" và đó là nghĩa thứ hai
của từ ngữ... Cũng gọi là tội xă
hội tất cả tội nghịch cùng đức công
b́nh trong các tương quan hoặc giữa người
với người, hoặc giữa người với
cộng đồng, hoặc là giữa cộng đồng
với người…. Là tội xă hội tất
cả tội nghịch cùng công ích và những yêu sách
của nó, trong tất cả lănh vực rộng lớn
của các quyền và bổn phận người công dân. (Reconciliatio
et Paenitentia, n. 16) 177.
Nếu t́nh trạng hiện nay lệ thuộc vào
những khó khăn đủ loại, không phải vô
ích nếu nói tới những “cơ cấu tội
lỗi", những cơ cấu này như tôi đă
cho thấy trong Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia,
bắt nguồn từ tội cá nhân và do đó, không
luôn được liên kết với hành vi cụ
thể của những con người làm nẩy sinh ra
chúng, củng cố chúng và gây trở ngại cho
việc diệt trừ chúng. Như vậy những cơ
cấu ấy củng cố lẫn nhau, lan tràn và
trở thành nguồn gốc của những tội ác và
chúng điều kiện hoá cách ăn ở của người
ta. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 36)
CHƯƠNG V VAI TR̉
CỦA NHÀ NƯỚC I.
Quyền Phần Đời II.
Vai Tṛ Luật Pháp III.
Vai Tṛ Chính Phủ IV.
Giáo Hội Và Nhà Nước V.
Những H́nh Thức Chính
Phủ VI.
Dân Chủ I.
Quyền Phần Đời
Mọi
cộng đoàn nhân loại đều cần có
một quyền bính để quản trị nó.
Quyền bính này đặt nền tảng trên bản tính
con người. Quyền bính cần thiết để
tạo ra sự thống nhất cho cộng đoàn. Vai
tṛ của nó là bảo đảm tối đa cho công
ích xă hội. Quyền bính theo trật tự luân lư
đ̣i hỏi, phát xuất từ Thiên Chúa:" Mỗi
người phải phục tùng chính quyền, v́ không
có quyền bính nào không bởi Thiên Chúa, và những
quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết
lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính
là chống đối lại trật tự Thiên Chúa
đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ
chuốc lấy án phạt" (Rm 13, 1-2; x. 1 Pr 2, 13-17). Bổn
phận vâng phục đ̣i buộc mọi người
phải tôn trọng quyền bính cho xứng hợp;
đối với những người đang thi hành công
vụ, phải tôn trọng và tuỳ công trạng
của họ mà tỏ ḷng biết ơn và quí mến.
Hội Thánh c̣n giữ được bản kinh
của thánh Giáo Hoàng Clêmentê thành Roma cầu cho chính
quyền (x. 1 Tm 2, 1-2): "Lạy Chúa, xin ban cho họ
sức khoẻ, b́nh an, hoà thuận và ổn định,
để họ thực thi đúng đắn quyền
hành Chúa đă trao cho họ. Lạy Chúa là Chủ
Tể, là Vua Trời vĩnh cửu, chính Chúa ban cho con cái
loài người vinh quang, danh dự và quyền lực
trên mọi vật trần thế. Xin Chúa hướng
dẫn những dự định của họ theo
điều thiện hảo, theo những ǵ hợp ư Ngài,
để khi thi hành nhiệm vụ mà ngài trao cho,
với ḷng đạo đức, trong an b́nh và
quảng đại, họ nhận được ơn
Ngài phù hộ" (Saint Clément de Rome, Ad Cor., 61, 1-2). (CEC,
nn. 1897 -1900) 179.
Cũng thế, việc hành xử quyền bính chính
trị trong chính cộng đoàn hoặc trong các cơ
quan đại diện cho quốc gia luôn luôn phải
nằm trong giới hạn của trật tự luân lư
để đem lại kết quả và mưu cầu
công ích - công ích ở đây phải hiểu cách năng
động - tuỳ theo trật tự pháp lư đă
hoặc sẽ được thiết lập cách
hợp pháp. Trong trường hợp đó, mọi công
dân buộc phải theo lương tâm mà tuân phục. Và
do đó, những người lănh đạo
đương nhiên có trách nhiệm, có thế giá và có
uy quyền. (Gaudium
et Spes, n. 74) 180.
Vả lại, do chính trật tự luân lư mà cần
phải có, trong tất cả cộng đồng dân
sự, một quyền bính để cai trị; và
quyền bính đó không thể đi ngược
lại trật tự này mà không sớm bị tiêu
diệt, v́ thiếu nền tảng. Chính Chúa đă
cảnh cáo chúng ta: "Vậy, hăy lắng nghe, hăy
cố hiểu, hỡi các bậc quân vương; hăy
học cho biết, hỡi những vị đang nắm
quyền trên khắp cơi trần gian. Mở tai ra,
hỡi những ai đứng đầu trong thiên
hạ, đang tự hào v́ có đông đảo chư
dân. V́ chính Đức Chúa đă ban cho chư vị
quyền bính và chính Đấng Tối Cao đă ban
quyền thống trị. Cũng chính Người
sẽ kiểm tra các việc chư vị làm và ḍ xét
những điều chư vị toan tính. (Kn 6, 1-4) (Pacem
in Terris, n. 83) 181.
Về mặt luân lư, không phải người cầm
quyền làm ǵ cũng hợp pháp. Họ không được
xử sự cách chuyên chế, nhưng phải hành
động cho công ích v́ quyền bính là một sức
mạnh tinh thần đặt nền tảng trên
tự do và ư thức trách nhiệm (GS, n. 74): "Luật
pháp của loài người chỉ là luật khi phù
hợp với lẽ phải; có hiệu lực là
nhờ luật vĩnh cửu; khi xa ĺa lẽ phải, nó
không c̣n là luật nữa, nhưng là một sự
bất công, thậm chí là một h́nh thức bạo
lực" (Saint Thomas d'Aquin, STh, I-II, 93, 3 ad 2). (CEC,
n. 1902) II. Vai Tṛ Luật Pháp 182.
“Pháp trị" (état de droit) là điều kiện
cần thiết để xây dựng nền dân chủ
đích thực (Proposition 72). Muốn cho nền dân
chủ này phát triển, việc giáo dục công dân và
việc thăng tiến trật tự công cộng và
sự b́nh an là những việc làm cần thíết.
Thật vậy, “không có dân chủ đích thực và
vững bền mà không có công b́nh xă hội. Do đó
Giáo Hội phải lưu tâm rất nhiều vào
việc giáo dục lương tâm, phải chuẩn
bị những người lănh đạo xă hội
để lo cho đời sống công ở mọi
cấp bậc, phải khuyến khích giáo dục công dân,
tuân giữ luật pháp và những quyền nhân bản,
và phải cố công rất nhiều cho việc đào
tạo giai cấp chính trị về mặt đạo
đức". (Ecclesia
in 183.
Không nên v́ thế mà nghĩ rằng quyền bính không
bị một lệ thuộc nào; ngược lại, v́
quyền bính xuất phát từ khả năng điều
khiển theo lẽ phải, nên điều hợp lư là
người ta coi nó có quyền lực ràng buộc, là
do nơi trật tự các phong hoá, trật tự này
lại có Chúa làm nguyên thuỷ và cùng đích. Do đó
Đấng tiền nhiệm chúng tôi là Đức Piô
XII đáng kính, tuyên bố như sau: "Trật
tự tuyệt đối của kẻ sống và chính
cùng đích của con người - của con người
tự do, chủ thể những bổn phận và
những quyền bất khả xâm phạm, của con
người nguồn gốc và cùng đích của xă
hội - cũng coi “thành ấp” như một
cộng đồng cần thiết và có quyền bính;
không quyền bính là không có sự hiện hữu, không
có sự sống cho nhóm. Theo
lẽ phải và nhất là theo đức tin Kitô giáo,
trật tự này của vạn vật không thể có
nguồn gốc nào khác ngoài Chúa, hữu thể ngôi
vị và là Đấng sáng tạo mọi người;
đo đó, những quyền bính có được
phẩm giá là nhờ tham dự cách nào đó vào uy
quyền của chính Thiên Chúa" (Sứ điệp
truyền thanh Giáng Sinh, 1994). (Pacem
in Terris, n. 47) 184.
Giờ lịch sử chúng ta đang sống, làm tăng
cường cấp bách hơn những khí cụ pháp lư
có khả năng thăng tiến sự tự do lương
tâm cả trong lănh vực chính trị và xă hội.
Về phương diện này, sự phát triển
lần hồi và liên tục của một chế độ
pháp lư được công nhận trên b́nh diện
quốc tế, có thể là một trong những nền
tảng vững chắc nhất cho hoà b́nh và cho sự
phát triển đúng đắn của gia đ́nh nhân
loại. Đồng thời, điều cốt yếu
là thi hành những cố gắng song song, trên mức
độ quốc gia cũng như trên mức độ
vùng, thế nào cho tất cả mọi người,
dầu đang ở đâu, dược bảo vệ
bởi những quy luật pháp lư được nh́n
nhận trên b́nh diện quốc tế. (Sứ
điệp ngày thế giới hoà b́nh, 1991, n. 6). 185.
Bởi v́ quyền cai trị là điều phải có
do trật tự luân lư và xuất phát từ Thiên Chúa,
nếu những người điều khiển
quốc gia có ra những luật hay lệnh phải làm
một cái ǵ nghịch với trật tự này, và do
đó nghịch với ư muốn Thiên Chúa, lúc đó,
những luật này cùng những sự cho phép ấy không
thể bắt buộc lương tâm người công dân,
bởi v́ “phải vâng lời Chúa hơn vâng lời
người ta” (Cv. 5, 29); hơn nữa, trong trường
hợp tương tự, quyền bính thôi là quyền
bính và biến chất thành áp bức; theo giáo huấn
thánh Thomas d'Aquin: "Luật do con người chỉ có
tính chất luật bao lâu nó hợp với lẽ
phải; và với danh hiệu này, rơ ràng nó xuất phát
từ luật đời đời. Nhưng bao lâu nó
đi xa lẽ phải, nó bị công bố là một
bất công, và lúc đó nó không c̣n tính chất
luật nữa, nhưng đúng hơn nó là một h́nh
thức bạo tàn" ( (Pacem
in Terris, n. 51) 186.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII nhận thức rơ cần có
một lư thuyết đúng đắn về Nhà Nước
để có thể đảm bảo cho việc phát
triển b́nh thường các hoạt động thiêng
liêng và trần thế của con người, cả hai
hoạt động đều tối cần. Về
vấn đề này, trong một đoạn Thông điệp
Rerum Novarum, ngài tŕnh bày về tổ chức xă hội
dựa trên ba quyền- lập pháp, hành pháp và tư pháp
- mà vào thời đó là một chuyện mới lạ
trong giáo huấn của Giáo Hội. Cơ cấu này
phản ảnh một cái nh́n thực tiễn về
bản chất xă hội của con người, đ̣i
hỏi luật lệ có khả năng bảo vệ
tự do cho mọi người. Để đạt
tới mục đích đó, mỗi quyền cần
được quân b́nh với những quyền khác và
với những lănh vực trách nhiệm khác để
các quyền đó không đi ra ngoài ranh giới của
ḿnh. Đây là nguyên tắc “pháp trị", trong
đó luật pháp có tính cách tối thượng, và
không phải là ước muốn độc đoán
của cá nhân. (Centesimus
Annus, n. 44) 187.
Cần nhắc thêm rằng không một nhóm xă hội nào,
một đảng phái chẳng hạn, có quyền
chiếm đoạt vai tṛ chỉ đạo duy nhất,
v́ việc đó đưa tới sự huỷ
diệt nhân cách đích thực của xă hội và
của các cá nhân thành viên của quốc gia, như
sự đó xảy ra trong mọi chế độ
độc tài. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 15) III. Vai Tṛ Chính Phủ 188. Nhưng, nếu cấu trúc chính
trị và pháp lư này phải sinh ra những lợi ích
như người ta hy vọng, các công chức phải
ra sức đáp ứng những vấn đề
xảy ra, một cách hợp với những phức
tạp của hoàn cảnh và cũng hợp với
việc thi hành đúng theo nhiệm vụ ḿnh. Điều
này đ̣i hỏi, dưới những điều
kiện biến hoá không ngừng, các nhà lập pháp không
bao giờ quên những quy luật của luân lư, hay là
những dự định theo hiến pháp hay là lợi
ích chung. Hơn nữa, những quyền hành pháp
phải phối hợp các sinh hoạt của xă hội
theo một quyền tuỳ ư quyết định sau khi
hiểu biết hoàn toàn về luật pháp và sau khi
đă xem xét kỹ lưỡng những hoàn cảnh, và
các toà án phải bảo đảm đức công b́nh
một cách vô tư không bị ảnh hưởng
bởi chế độ ưu đăi hay áp bức.
Trật tự tốt xă hội cũng đ̣i hỏi các
cá nhân công dân và những tổ chức trung gian
phải được bênh vực cách hiệu
nghiệm bởi lề luật khi họ phải thi hành
quyền của ḿnh hay khi phải làm tṛn những
bổn phận của ḿnh. (Pacem in Terris, n. 69) 189. Hành động (của các quyền
bính) có một đặc tính hướng dẫn, khích
lệ, phối hợp, bổ sung và hội nhập. Hành
động đó phải được linh ứng
bởi nguyên tắc hỗ trợ, mà Đức Piô XI
đă phát biểu trong thông điệp Quadragesimo Anno:
"Điều hiển nhiên là người ta không
thể thay đổi hay làm lung lay nguyên tắc rất
quan trọng này về triết học xă hội; cũng
vậy người ta không thể cất đi khỏi
những tư nhân, để chuyển sang qua cộng
đồng, những quyền hạn mà họ có
khả năng chu toàn do sáng kiến riêng của họ
và bằng những phương tiện riêng của
họ. Như vậy sẽ là lỗi công bằng, đồng
thời làm rối loạn một cách rất tai hại
trật tự xă hội, nếu rút khỏi những nhóm
nhỏ hơn và ở cấp thấp hơn để
giao cho một tập thể rộng lớn hơn và
ở cấp cao hơn, những nhiệm vụ mà
họ có sức tự ḿnh hoàn thành. Chủ đích
tự nhiên của mọi can thiệp trong vấn đề
xă hội là giúp các phần tử đoàn thể xă
hội, chớ không phải tiêu diệt hay thôn tính chúng"
(QA, n. 23). (Mater et Magistra, n. 53) 190. Trong địa hạt chính trị
cần phải ghi nhận rằng tất cả
những yếu tố như chân lư trong các mối quan
hệ giữa những người bị trị
với những người cai trị, sự trong
suốt trong sự quản trị công cộng, thái
độ chí công vô tư, sự tôn trọng đối
với quyền lợi của các đối thủ chính
trị, việc bảo toàn quyền lợi cho những
người bị lên án trước những vụ xét
xử hay những án lệnh sơ thẩm, sự
sử dụng công bằng và liêm khiết những
nguồn vốn công cộng, sự từ chối
những phương tiện mờ ám hoặc bất
hợp lệ ḥng chiếm đoạt, ǵn giữ và gia
tăng quyền bính của ḿnh, đều là những
nguyên tắc thoạt tiên có cội rễ - cũng như,
ngoài ra, mang tính khẩn thiết đặc biệt -
ở nơi giá trị siêu việt của con người
và ở nơi những đ̣i buộc chân lư khách quan
của việc điều hành các Nhà Nước. (Veritatis Splendor, n. 101) IV.
Giáo Hội Và Nhà Nước 191. Nhiệm vụ thiết yếu
của quyền bính dân sự là bảo vệ và phát
huy những quyền lợi bất khả xâm phạm
của con người. Do đó, quyền bính dân sự
phải bảo vệ cách hữu hiệu quyền
tự do tôn giáo của mọi công dân bằng những
đạo luật chính đáng và những phương
tiện thích hợp khác, phải tạo nên những
điều kiện thuận lợi giúp phát triển
đời sống tôn giáo, nhờ đó các công dân có
thể thực sự hưởng dụng những
quyền lợi và chu toàn những nhiệm vụ đối
với tôn giáo, đồng thời xă hội sẽ
được hưởng nhờ những lợi ích
của công lư và hoà b́nh, phát sinh do ḷng trung thành
của con người đối với Thiên Chúa và thánh
ư Ngài. (Dignitatis Humanae, n. 6) V. Những H́nh Thức Chính Phủ
192. Có quyền bính là "do Thiên Chúa an
bài, nhưng việc định đoạt những
thể chế chính trị hay cắt cử người
cầm quyền, vẫn là quyền tự do của
mọi công dân" (GS, n. 74). Về mặt luân lư, các
thể chế chính trị có thể khác nhau miễn sao
các thể chế này mang lợi ích chính đáng cho
cộng đồng đă thừa nhận chúng. Các
thể chế có bản chất trái ngược
với luật tự nhiên, với trật tự công
cộng và các quyền căn bản của con người,
th́ không thể đem lại công ích cho những
quốc gia đang theo chế độ đó. (CEC, n. 1901) 193. Trong thời đại mới quan
niệm này đă bị chủ nghĩa chuyên chế
chống đối, chủ nghĩa này mang h́nh thức
Mácxit-Leninit chủ trương rằng một số người
nhờ có sự thông hiểu sâu xa hơn về
luật pháp trong lănh vực phát triển xă hội
hoặc v́ thuộc một giai cấp đặc
biệt nào đó, hoặc nhờ được
tiếp xúc với những nguồn sâu sắc hơn
của ư thức tập thể, nên không thể sai
lầm và như vậy có thể tự ban cho ḿnh uy
quyền tuyệt đối. Cần phải nói thêm là
chủ nghĩa chuyên chế phát sinh ra từ việc
chối bỏ chân lư theo nghĩa khách quan. Nếu không
có chân lư siêu việt, mà nhờ biết vâng phục chân
lư ấy, con người có thể nhận biết
được căn tính trọn vẹn của ḿnh,
sẽ không có một nguyên tắc chắc chắn nào
bảo đảm cho mối liên hệ chính đáng
giữa những con người. Tư lợi riêng
của họ thuộc giai cấp, bè nhóm hay quốc gia,
chắc chắn sẽ đưa họ tới chỗ
chống đối nhau. Nếu một phía không nh́n
nhận chân lư ưu việt, khi đó sức mạnh
của quyền bính sẽ ngự trị và mỗi người
sẽ sử dụng tối đa những phương
tiện sẵn có để áp đặt các quyền
lợi của ḿnh hoặc ư kiến của ḿnh,
bất chấp quyền lợi của người khác.
Khi đó con người chỉ c̣n được kính
trọng bao lâu mà họ c̣n có thể bị bóc lột
cho những mục đích vị kỷ. V́ vậy, căn
nguyên của chủ nghĩa chuyên chế của
thời đại mới là việc chối bỏ giá
trị siêu việt của con người, được
coi như là h́nh ảnh hữu h́nh của Thiên Chúa vô
h́nh, và, v́ vậy, tự bản chất là chủ
thể của những quyền mà không một ai có
thể xâm phạm, dù là cá nhân, dù một nhóm người,
dù một giai cấp, dù một quốc gia hay Nhà Nước.
Ngay cả đa số của một xă hội cũng
không thể chà đạp lên những quyền này
bằng cách chống lại thiểu số, bằng cách
cô lập, đàn áp hoặc bóc lột hay t́m cách tiêu
diệt thiểu số đó Văn hoá và chủ nghĩa chuyên
chế trong thực tế cũng chối bỏ Giáo
Hội. Nhà Nước hoặc đảng phái cho
rằng họ có khả năng hướng dẫn
lịch sử tới chỗ thiện hảo hoàn toàn và
tự đặt ḿnh ở trên mọi giá trị, nên
không thể chấp nhận một tiêu chuẩn khách
quan về thiện ác khác với ư muốn của
những người cầm quyền và, trong một
số hoàn cảnh, tiêu chuẩn như vậy có
thể được dùng để phán đoán
những hành vi của họ. Điều này giải thích
v́ sao chủ nghĩa chuyên chế t́m cách tiêu diệt
Giáo Hội hoặc ít ra t́m cách áp đặt Giáo
Hội dưới sự thống trị của ḿnh,
biến Giáo Hội thành công cụ của guồng máy
ư thức hệ của họ. Hơn nữa, nhà nước
chuyên chế thường sát nhập toàn bộ
quốc gia, xă hội, gia đ́nh, các tôn giáo và chính các
cá nhân vào trong guồng máy của họ. Giáo Hội
khi bảo vệ tự do của ḿnh, cũng đồng
thời bảo vệ con người, mà con người
phải tùng phục Thiên Chúa hơn là tùng phục con
người (x. Cv 5, 29), cũng như bảo vệ gia
đ́nh, các tổ chức xă hội và các dân tộc -
tất cả đều có quyền tự trị và
chủ quyền. (Centesimus Annus, n. 44-45) 194. Thật vậy, muốn lập ra h́nh
thức chính phủ Nhà Nước, hay là cách thức
thi hành những trách vụ chính phủ, người ta
phải chú trọng đến hiện trạng và điều
kiện của mỗi dân tộc: mà, những thứ
đó thay đổi tùy không gian và thời gian. Nhưng,
chúng tôi thiết nghĩ rằng sự kiện phù
hợp với bản tính con người là uốn
nắn sự sống chung các công dân bằng cách xây
dựng nó trên ba quyền hành đáp ứng cách
xứng hợp với ba nhiệm vụ chính của
quyền bính; trong một Quốc gia thể đó, không
những các trách nhiệm của quyền bính, mà c̣n
những tương quan hỗ tương của các công
dân và của các công chức công cọng được
ấn định bằng luật. Điều này đối
với công dân là một sự bảo vệ, trong
việc hưởng dụng các quyền của ḿnh cũng
như trong việc hoàn thành những bổn phận
của ḿnh. (Pacem in Terris, n. 68) 195. Để việc cộng tác của
các công dân có ư thức trách nhiệm về nhiệm
vụ đem lại kết quả tốt đẹp
trong đời sống chính trị thường ngày,
cần phải có một nền pháp lư thiết định,
giúp phân phối hợp lư các nhiệm vụ và các cơ
quan của công quyền và đồng thời giúp
bảo vệ một cách hữu hiệu quyền
lợi công dân mà không lệ thuộc vào ai. Quyền
lợi của cá nhân, gia đ́nh và đoàn thể cũng
như việc sử dụng những quyền đó
phải được công nhận, tôn trọng và
cổ vơ, nhưng đồng thời cũng phải chú
trọng tới bổn phận công dân của họ. Nói
tới bổn phận công dân, cần phải nhắc
tới nghĩa vụ phải đóng góp cho quốc gia
những phục vụ về tài lực cũng như
nhân lực mà công ích đ̣i hỏi. Chính quyền không
nên ngăn cản những hiệp hội có tính cách
gia đ́nh, xă hội hay văn hoá, những đoàn
thể hay tổ chức trung gian. Cũng không nên ngăn
cấm những hoạt động hữu hiệu và chính
đáng của các tổ chức ấy, nhưng tốt
hơn nên sẵn sàng cổ vơ và phải có đường
lối trong việc cổ vơ. Về phía người công
dân, cá nhân hay đoàn thể, không nên trao cho chính
quyền một quyền hành quá lớn, cũng đừng
đ̣i hỏi ở chính quyền những giúp đỡ
cũng như những đặc ân quá đáng không
phải lúc, v́ như thế là làm giảm trách
nhiệm của cá nhân, gia đ́nh và cả các đoàn
thể xă hội. (Gaudium et Spes, n. 75) 196. Khi nói đến việc cải
tổ các cơ chế, tự nhiên chúng ta nghĩ ngay
đến Nhà Nước. Chắc không nên xây dựng
trên sự can thiệp của Nhà Nước mọi hy
vọng cứu rỗi ! Nhưng từ khi chủ nghĩa
cá nhân đă thành công bẻ găy, hầu như bóp
nghẹt phong trào rộng lớn thuộc đời
sống xă hội, phong trào ngày xưa đă triển
nở cách phong phú và hài hoà thành rất nhiều nhóm
khác nhau nhất, chỉ c̣n lại có các cá nhân và Nhà
Nuớc. Sự biến dạng thể chế xă hội
không khỏi gây hại nghiêm trọng cho Nhà Nước,
v́ từ đó phải gánh vác tất những trách
vụ mà các nhóm đă mất tích không c̣n thi hành
nữa, và Nhà Nước thấy ḿnh bị đè
nặng dưới một số lượng gần như
vô tận của những trách vụ và trách nhiệm. (Quadragesimo Anno, n. 78) VI. Dân Chủ
197. Giáo Hội đánh giá cao hệ
thống dân chủ như là một hệ thống
bảo đảm cho người dân được tham
dự vào việc lựa chọn các quyết định
về chính trị, bảo đảm cho những người
bị trị được quyền bầu cử
lẫn quyền quy trách những người cai trị
họ và thay thế những người cầm
quyền này bằng các phương thế ôn hoà khi
cần. Như vậy Giáo Hội không thể khuyến
khích việc h́nh thành những nhóm cai trị thu hẹp
t́m cách lạm dụng quyền bính của quốc gia
cho những lợi ích riêng tư hoặc cho những
mục tiêu ư thức hệ. Một thể chế dân chủ chân chính
chỉ có thể có được trong một quốc
gia pháp trị và dựa trên căn bản một ư
niệm chính đáng về con người. Nó đ̣i
hỏi phải có những điều kiện cần
thiết cho việc thăng tiến cá nhân qua công
việc giáo dục và đào tạo theo những lư tưởng
chân chính, và cho sự nẩy nở "cá tính"
của xă hội, qua việc thành lập những cơ
cấu có sự tham gia và cùng chia sẻ trách nhiệm.
Ngày nay có khuynh hướng đ̣i hỏi rằng
thuyết bất khả tri và thuyết tương đối
hoài nghi là những triết thuyết và quan điểm
căn bản cho các h́nh thức dân chủ của đời
sống chính trị … Theo quan điểm này, phải
nhận rằng, nếu không có chân lư tối hậu
để hướng dẫn và chỉ huy hoạt động
chính trị, những tư tưởng và xác tín có
thể dễ bị thao túng v́ lư do quyền lực. Như
lịch sử đă chứng tỏ, dân chủ mà không
có giá trị đạo đức làm căn bản
dễ biến thành chế độ chuyên chế công
khai hoặc ngụy trang khéo léo. (Centesimus Annus, n. 46) 198. Giáo Hội tôn trọng quyền
tự trị hợp pháp của trật tự dân
chủ và không có tư cách để phát biểu
những thiên vị nghiêng về giải pháp có tính cách
định chế hay hiến chế này hay nọ.
Sự đóng góp của Giáo Hội vào trật tự
chính trị chính là cái nh́n của Giáo Hội về
phẩm giá của con người được
biểu lộ hoàn toàn trong mầu nhiệm Ngôi Lời
nhập thể. (Centesimus Annus, n. 47) 199. Trên thực tế, dân chủ không
thể nâng lên hàng chuyện thần thoại, đến
nỗi biến thành một cái ǵ thay thế luân lư hay
là liều thuốc trị bịnh vô luân. Cơ bản,
nó là một "hệ thống" và, như vậy,
nó là một dụng cụ chớ không phải là
một cùng đích. Đặc tính "luân lư"
của nó không phải là tự động, nhưng
tuỳ thuộc vào sự hoà hợp với luật luân
lư, mà dân chủ phải phục tùng như tất
cả mọi xử sự nhân bản: như vậy nó
tuỳ thuộc vào tính luân lư của những cùng
đích đang theo đuổi cũng như những phương
tiện đang sử dụng. Ngày nay nếu người
ta nghiệm thấy một sự đồng thuận
gần như phổ quát về giá trị của dân
chủ, phải coi đó như là một "dấu
chỉ thời đại" tích cực, như
Huấn Quyền Giáo Hội đă nhiều lần
nhắc tới. nhưng giá trị dân chủ duy tŕ hay
biến đi là tùy theo những giá trị nó biểu
hiện và khuyến khích. (Evangelium Vitae, n. 70) 200. Một khi người ta không tuân
giữ những yếu tố trên, chính nền tảng
của sự chung sống chính trị sẽ bị lung
lay và dần dà toàn bộ đời sống xă hội
sẽ bị lũng đoạn, đe doạ và suy thoái
(x. Tv 14, 3-4; Kh 18, 2-3; 9-24). Trong nhiều quốc gia, sau
sự sụp đổ của các ư thức hệ
nối liền chính trị với một quan điểm
chuyên chế về thế giới- mà ư thức hệ
đầu tiên là chủ nghĩa mácxit -, có một
mối nguy không kém quan trọng hiện đang h́nh thành
do t́nh trạng chối bỏ những nhân quyền cơ
bản và do sự kiện nuốt trửng khát vọng
tôn giáo trong khuôn khổ chính trị, một khát
vọng tiềm tàng trong ḷng mỗi người: đó
là mối nguy có sự liên minh giữa nền dân
chủ với chủ nghĩa tương đối
về luân lư, một chủ nghĩa làm cho t́nh
trạng chung sống giữa người dân với nhau
chẳng c̣n một qui chiếu nào vững chắc
về mặt luân lư và, một cách triệt để
hơn, bị tước đoạt mất khả năng
đón nhận chân lư. Thật ra, "nếu không có
một chân lư tột cùng nào để dẫn
đường và định hướng cho hoạt
động chính trị, các tư tưởng và các
niềm xác tín sẽ dễ dàng bị khai thác nhằm
phục vụ cho quyền bính. Một nền dân
chủ mà thiếu những giá trị th́ sẽ dễ
dàng biến thành một chủ nghĩa chuyên chế công
khai hoặc ngấm ngầm, như lịch sử
từng chứng minh" (CA, n. 46). Trong tất cả mọi lănh vực
của đời sống cá nhân, gia đ́nh, xă hội
và chính trị, nền luân lư - vốn đặt
nền tảng trên chân lư và, trong chân lư, mở
rộng cửa đón nhận tự do đích thực
-, có thể nói, cung ứng một nguồn phục
vụ độc đáo, bất khả thay thế và
rất cao về giá trị, chẳng những cho cá nhân
ngơ hầu con người tấn tới trong sự
thiện, mà c̣n cho xă hội ngơ hầu xă hội
thực sự phát triển. (Veritatis Splendor, n. 101 ) 201. Duy chỉ sự tôn trọng sự
sống có thể xây dựng và bảo đảm
những tài sản quí báu nhất và cần thiết
nhất của xă hội, như nền dân chủ và hoà
b́nh. Thật vậy, không thể có dân chủ thật
sự nếu người ta không công nhận phẩm giá
của mọi người và nếu người ta không
tôn trọng các quyền con người. Cũng không
thể có được hoà b́nh thật sự nếu
người ta không bảo vệ và nếu người
ta không nâng đỡ sự sống. (Evangelium Vitae, n. 101) CHƯƠNG VI KINH
TẾ I. Mục Đích Phổ
Quát của Của Cải Vật Chất II. Quyền Tư Hữu III. Hệ Thống Kinh
Tế IV. Luân Lư, Công B́nh Và
Trật Tự Kinh Tế V. Một Nền Thần
Học Thực Sự Giải Phóng VI. Sự Can Thiệp
Của Nhà Nước Và Nền Kinh Tế VII. Kinh Doanh VIII. Thuyết Kinh Tế
Và Thuyết Hưởng Thụ I. Mục Đích Phổ
Quát của Của Cải Vật Chất
202. Ở ngay trang đầu
của Kinh Thánh, ghi chép lời nầy: "Hăy lan tràn
khắp mặt đất, khắc phục trái đất"
(St 1, 28). Lời đó dạy chúng ta rằng tất
cả vũ trụ này được tạo dựng nên
cho con người: con người có bổn phận
phải dùng tài năng của ḿnh để tăng giá
trị của vũ trụ, và dùng việc làm của ḿnh
mà hoàn thành vũ trụ để hưởng dùng.
Nếu trái đất đă tạo dựng nên để
cung cấp phương tiện sinh sống và công
cụ thăng tiến cho mỗi người, th́
mỗi người có quyền t́m thấy ở đó
những điều kiện cần thiết cho ḿnh. Công
Đồng mới đây cũng đă nhắc lại
điều đó rằng: "Thiên Chúa đă tạo
dựng trái đất và mọi vật trên đó là
để mọi người và mọi dân tộc
sử dụng, v́ thế của cải trần gian
phải tràn đầy đồng đều trong tay
mọi người, theo luật công bằng, là một
luật đi liền với bác ái" (GS, n. 69). Định
luật này phải được ưu tiên trên
mọi quyền hạn khác, bất cứ là quyền nào,
kể cả quyền tự do buôn bán. Các quyền khác
không những không được cản trở mà trái
lại phải giúp định luật này thể
hiện dễ dàng, và bổn phận xă hội quan
trọng và cấp bách nhất là phải qui hướng
các quyền nói trên về cùng đích tiên khởi
của chúng. (Populorum Progressio, n. 22) 203. Nhưng Đấng
kế vị Đức Lêo XIII đă lặp lại xác
quyết hai phần này: sự cần thiết và do
đó sự hợp pháp của quyền tư hữu, và
cũng như những giới hạn đặt ra cho
quyền đó. Cũng thế, Công Đồng Vatican II
đă nhắc lại một cách minh bạch học
thuyết lâu đời bằng những lời lẽ
lặp lại như sau: "Khi sử dụng những
vật chất bên ngoài mà ta làm chủ một cách
hợp pháp, phải coi nó không phải chỉ là
của riêng chúng ta nhưng c̣n là của chung, theo nghĩa
nó có thể làm lợi không những cho người làm
chủ mà c̣n cho những người khác nữa"
(GS, n. 69). Và xa hơn một chút: "Quyền tư
hữu cũng như quyền làm chủ của cải
bảo đảm cho mỗi người một lănh
vực cần thiết để cá nhân và gia đ́nh
được tự trị. Các quyền này cũng
phải được coi như nằm trong phạm vi
quyền tự do của con người. Theo bản
chất, tài sản riêng cũng có tính cách xă hội,
đặt trên luật lệ hưởng chung của
cải" (GS. n. 71). (Centesimus Annus, n. 30) 204. Quyền tư
hữu, như chúng ta đă thấy trên kia, đối
với con người là thuộc quyền thiên nhiên.
Việc thực thi quyền này là một sự không
những được phép, nhất là cho ai sống
trong xă hội, mà cũng cần thiết tuyệt đối.
"Con người đươc phép có của riêng và
điều đó là cần thiết cho sự sống
con người”. (Saint Thomas d'Aquin, STh, II-II, 66, 2, c). Nhưng
nếu có ai hỏi việc sử dụng của
cải hệ tại cái ǵ, Giáo Hội trả lời
không do dự: "Dưới phương diện này,
con người không nên coi những sự vật bên ngoài
là của riêng, nhưng là của chung, đến
nỗi con người dễ dàng chia phần cho kẻ
khác khi họ cần. Do đó Thánh Tông Đồ đă
nói: "Hăy bảo những kẻ giàu ở đời
này,… cho cách dễ dàng, chia sẻ của cải ḿnh"
(Aquinas, STh, II-II, 66, 2, c). Dĩ nhiên không ai bị bắt
buộc cứu giúp tha nhân bằng cách lấy trong
phần của cải cần thiết cho ḿnh hay cho gia
đ́nh ḿnh, cũng không bắt buộc giảm bớt
trong cái ǵ mà những sự thích hợp hay lề thói
bắt buộc cho cá nhân ḿnh: "Thậy vậy, không
ai phải sống cách không thích đáng" (Aquinas, STh,
II-II, 32, a, 6, a). Nhưng khi người ta đă thâu
đạt những nhu cầu cần thiết và tài
sản, th́ người ta có bổn phận chia sẻ
của dư thừa cho người nghèo khó. “Cái ǵ c̣n
lại, hăy bố thí” (Lc 11, 41). Đó là một
bổn phận, không phải theo phép công bằng đúng
mức, trừ những trường hợp khẩn
cấp cực độ, nhưng đây là một
bổn phận theo bác ái Kitô giáo, dĩ nhiên đó là
một bổn phận mà người ta không thể
đeo đuổi thực hiện do luật đ̣i
hỏi. Nhưng trên những phán đoán của con người
và của luật lệ thuộc con người, c̣n có
lề luật và phán đoán của Chúa Kitô, Chúa chúng
ta, Người khuyên chúng ta bằng mọi cách phải
thường xuyên bố thí. “Cho th́ có phúc hơn là
nhận” (Cv 20, 35), Chúa dạy như thế. Chúa coi như
chính ḿnh được ban phát hay bị chối
của bố thí mà người ta sẽ làm hay từ
chối cho kẻ nghèo. “Mỗi khi các ngươi
bố thí cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta đây, là các ngươi đă làm
cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Vả lại, đây là tóm
tắt trong ít lời học thuyết này. Bất
cứ ai đă nhận lănh từ ḷng tốt lành
của Chúa một sự dư đầy hơn,
hoặc về những của cải bên ngoài và
thuộc về thể xác, hoặc về của cải
phần hồn, th́ họ phải nhận lănh với
mục đích để những của cải đó
giúp ḿnh nên trọn lành và đồng thời, coi ḿnh
như thừa tác viên của Chúa Quan Pḥng để
cứu giúp kẻ khác. Cho nên, ai có tài nói, đừng
có làm thinh; có dư của cải, đừng để
ḷng xót thương nguội đi trong đáy ḷng; có tài
cai trị, phải lưu tâm chia sẻ cả việc
thi hành lẫn những ơn lành của tài năng
đó cho người anh em ḿnh" (Saint Grégoire le Grand,
Evangelium Homiliae, 9, 8). (Rerum Novarum, n. 22) II. Quyền Tư Hữu
205. Người ta cũng
không nên đối nghịch tính hợp pháp của
quyền tư hữu với sự kiện Thiên Chúa
đă ban đất cho toàn thể nhân loại sử
dụng và thụ hưởng. Nếu người ta nói
rằng Thiên Chúa đă ban đất để sử
dụng chung cho mọi người, điều này có
nghĩa là con người không phải chiếm giữ
nó cách hồ đồ, nhưng có nghĩa là Thiên Chúa
không ấn định phần riêng cho người nào. Thiên Chúa đă giao cho
con người và những thể chế các dân tộc
tuỳ theo khôn ngoan mà ấn định giới hạn
của cải. Hơn nữa, mặc dầu bị phân
chia thành những tư sản, đất vẫn để
phục vụ công ích cho mọi người, bởi v́
không người nào giữa kẻ chết mà không
được nuôi sống bằng huê lợi đồng
ruộng. Ai không có đất th́ bổ sung bằng lao
động. Do đó người ta có thể khẳng
định đúng sự thật rằng lao động
là phương tiện phổ quát để lo cho nhu
cầu sự sống, hoặc người ta lao động
trên phần đất của ḿnh hay là trong nghề nào
đó mà phần thù lao chỉ lấy từ những
sản phẩm đất đai và trao đổi
với những sản phẩm đó. Do tất cả điều
nói đó, một lần nữa người ta thấy
quyền tư hữu hoàn toàn phù hợp với thiên
nhiên. (Rerum Novarum, nn. 14-15) 206. Như vậy người
ta cần phải tránh hai nguy hiểm. Thật vậy, cũng
như phủ nhận hay giảm nhẹ quá đáng phương
diện xă hội và công cộng của quyền sở
hữu, tức là chuyển sang chủ nghĩa cá nhân
hay đi song song với nó, cũng vậy nếu
phản đối hay là che đậy phương
diện cá nhân của nó, chắc chắn người
ta sẽ rơi vào chủ nghĩa tập thể hay ít
ra người ta có nguy cơ chia sẻ sự lầm
lạc với nó. Không thấy những quan điểm
đó, tức là liều ḿnh lao đầu vào sự
nguy hiểm (Ubi Arcano Dei Consilio) của chủ nghĩa
canh tân luân lư (modernisme moral), pháp lư và xă hội mà chúng
tôi đă tố giác ngay từ đầu Giáo Triều
của chúng tôi. Những người sau đây hơn
hết phải biết rơ điều đó, những người
mà ư muốn canh tân lôi kéo tới chỗ tố cáo
bất công Giáo Hội đă để cho một quan
điểm ngoại giáo về tư hữu len lỏi vào
trong huấn giáo của các nhà thần học, cần
phải thay thế bằng một quan điểm khác mà
họ gọi là quan điểm Kitô giáo, một cách vô
ư thức kỳ dị. (Quadragesimo Anno, n. 46) 207. Cần phải
nhắc lại một lần nữa nguyên tắc đặc
thù của học thuyết xă hội Kitô giáo: những
của cải trên thế giới này tự khởi
thuỷ nhằm mưu ích cho mọi người.
Quyền sở hữu là hợp pháp và cần thiết,
nhưng nó không huỷ bỏ giá trị của nguyên
tắc này. Thật vậy, tư hữu là như
mắc một món nợ xă hội, nghĩa là người
ta nhận ra trong việc tư hữu, như tính cách
nội tại, một chức năng xă hội,
được thiết lập và biện minh nhờ chính
nguyên tắc: của cải phải được dùng
cho mọi người. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 42). 208. Trước "những
việc mới" của thời nay, chúng ta đă
đọc lại về những mối liên hệ
giữa tài sản cá nhân hay tư nhân, và mục đích
phổ quát của những của cải. Con người
mở mang bằng việc sử dụng trí thông minh và
tự do, và, làm như thế, con người sử
dụng những sự vật ở thế gian này như
những vật và những dụng cụ và biến chúng
thành của riêng ḿnh. Nền tảng của quyền có
sáng kiến riêng tư và quyền tư hữu
được t́m thấy trong sinh hoạt này. Bằng
sức lao động của ḿnh con người tự
ḿnh dấn thân không phải chỉ cho riêng ḿnh mà c̣n
cho những người khác và với những người
khác: mỗi người cộng tác vào công việc và
phúc lợi người khác. Con người làm việc
để cung ứng cho những nhu cầu của gia
đ́nh ḿnh, cộng đồng ḿnh, quốc gia ḿnh và
sau hết cho toàn thể nhân loại. (Laborem exercens, n.
10) Hơn nữa con người cộng tác trong công
việc của những bạn đồng sở cũng
như trong việc của những nhà thầu và trong
việc tiêu thụ sản phẩm của các khách hàng,
trong một đường giây liên đới trải
dài từ từ. Quyền làm chủ các phương
tiện sản xuất, dù trong kỹ nghệ hay trong nông
nghiệp, trở nên chính đáng và hợp pháp nếu
nó cho phép một việc làm hữu ích; ngược
lại, quyền tư hữu đó trở nên bất
hợp pháp khi không được làm tăng giá
trị hay khi sử dụng để ngăn trở công
việc của những người khác trong việc
cố thu lợi không do kết quả của sự
mở rộng toàn bộ lao động và sự giàu
mạnh của xă hội, nhưng đúng hơn là do
việc hạn chế hoặc khai thác bất hợp pháp,
nạn đầu cơ, và sự phá vỡ t́nh liên
đới trong thế giới lao động (Laborem
Exercens. 14). Quyền làm chủ thuộc loại này không
chính đáng và tạo nên một lạm dụng trước
mặt Thiên Chúa và con người. (Centesimus Annus, n. 43) 209. Chúng ta phải
lấy làm chắc trước hết rằng cả
Đức Lêô XIII, cả các nhà thần học mà Giáo
Hội linh ứng và kiểm soát huấn giáo, không bao
giờ phủ định hay chối bỏ hai phương
diện, cá nhân và xă hội, dính dáng với tư
hữu tuỳ theo nó phục vụ tư lợi hay
chủ ư tới công ích; tất cả, ngược
lại, đều đồng ư rằng do thiên nhiên và
như vậy là do Đấng Sáng Tạo, mà con người
đă lănh nhận quyền sở hữu, vừa để
mỗi người có thể chu cấp cho sự
sống của ḿnh và kẻ khác, và, nhờ có thể
chế này, những của cải được Đấng
Sáng Tạo cho nhân loại sử dụng, hoàn thành cách
hiệu quả mục đích của chúng, điều
đó chỉ có thể thực hiện qua sự duy tŕ
một trật tự chắc chắn và có quy củ. (Quadragesimo Anno, n. 45) III. Hệ Thống Kinh
Tế
210. Hội Thánh phi bác các
ư thức hệ chuyên chế và vô thần đang
hoạt động dưới h́nh thức "chủ
nghĩa cộng sản" hoặc chủ nghĩa xă
hội". Mặt khác, Hội Thánh cũng phi bác trong
sự thực hành "chủ nghĩa tư bản",
chủ nghĩa cá nhân và việc coi luật thị trường
là qui luật tối thượng trên lao động
của con người (x. CA, nn. 10, 13, 44). Điều hành
kinh tế chỉ dựa trên kế hoạch tập trung
sẽ phá huỷ tận gốc các mối liên hệ xă
hội; điều hành chỉ dựa theo qui luật
thị trường sẽ vi phạm công bằng xă
hội "bởi v́ thị trường không thể
thoả măn được những nhu cầu muôn
mặt của con người" (CA, n. 34). Người
tín hữu phải tác động vào thị trường
và các sáng kiến kinh tế, để có được
một điều hành hợp lư dựa trên một
bậc thang giá trị đúng đắn và v́ công ích. (CEC, n. 2425) 211. Bây giờ trở
lại câu hỏi đầu tiên: có thể nói
được rằng sau khi chủ nghĩa cộng
sản sụp đổ, chủ nghĩa tư bản là
hệ thống xă hội ưu thắng và chủ nghĩa
tư bản phải là mục tiêu mà các quốc gia
đang cố gắng tái thiết nền kinh tế và xă
hội của họ, vươn tới? Đây có
phải là mẫu mực cần nên đề nghị
cho những quốc gia thuộc Thế Giới Thứ Ba,
là những quốc gia đang đi t́m kiếm
đường lối phát triển kinh tế và dân
sự thật sự ? Câu trả lời rơ ràng thật
phức tạp. Nếu coi chủ nghĩa tư bản có
nghĩa là hệ thống kinh tế thừa nhận vai
tṛ căn bản và tích cực của việc buôn bán,
thị trường, tài sản tư và trách nhiệm
đối với các phương tiện sản
xuất cùng với tính cách sáng tạo của con người
trong lănh vực kinh tế, th́ câu trả lời
chắc chắn là thuận cho dù có lẽ nên gọi là
nền kinh tế buôn bán, kinh tế thị trường
hoặc giản dị là kinh tế tự do mới
đúng. Nhưng nếu coi chủ nghĩa tư bản
như là một hệ thống trong đó tự do trong
khu vực kinh tế không bị ràng buộc trong một
khung cảnh pháp lư chặt chẽ bắt nó phục
vụ tự do con người và coi đó là một khía
cạnh đặc biệt của tự do này, mà
trọng tâm phải mang tính cách đạo đức và
tôn giáo, th́ câu trả lời chắc chắn là không. (Centesimus Annus, n. 42) 212. Phát triển kinh
tế và gia tăng sản xuất đều nhằm
phục vụ những nhu cầu của con người.
Đời sống kinh tế không chỉ nhằm vào
việc gia tăng các sản phẩm, lợi nhuận
hoặc quyền lực, nhưng trước tiên là
để phục vụ con người: con người
toàn diện và toàn thể cộng đồng nhân
loại. Hoạt động kinh tế được
điều hành theo những phương pháp riêng nhưng
phải tôn trọng các khuôn khổ luân lư và công
bằng xă hội, để đáp ứng ư định
của Thiên Chúa về con người (x. GS, n. 64). (CEC, n. 2426) 213. Có vẻ là trên b́nh
diện của từng quốc gia và trên b́nh diện liên
lạc quốc tế, thị trường tự do là
khí cụ hữu hiệu nhất để sử
dụng các tài nguyên và đáp ứng các nhu cầu. Nhưng
điều này chỉ đúng cho những nhu cầu
"có thể tiêu thụ được" bao lâu mà
nó có măi lực và đối với những tài nguyên
có thể "bán được" bao lâu nó có
thể có một giá thoả đáng. Nhưng có
nhiều nhu cầu của con người không thể
thoả măn nhờ thị trường. Đó là
nhiệm vụ thẳng nhặt về công b́nh và chân lư
không cho phép các nhu cầu của con người
tiếp tục không được thoả măn và
giết chết những người thiếu thốn
những nhu cầu đó. Hơn nữa, cần giúp
đỡ những người yếu kém có được
khả năng chuyên môn, được nhập vào ṿng
trao đổi và phát triển các tài khéo léo của ḿnh
để có thể tận dụng khả năng và tài
nguyên của ḿnh. Ngay cả trước khi có lập
luận về trao đổi đồng đều các
sản phẩm và về các h́nh thức công bằng chi
phối những thay đổi đó, vẫn có món
nợ đối với con người với tư cách
là con người, chỉ v́ phẩm giá tuyệt tác
của con người. Cái món nợ đó bao hàm
khả năng sống c̣n và đồng thời khả
năng tích cực đóng góp cho công ích của nhân
loại. Trong hoàn cảnh của Thế Giới Thứ
Ba, một vài mục tiêu được nêu ra trong thông
điệp Rerum Novarum vẫn c̣n có giá trị và trong
một vài trường hợp vẫn là mục đích
cần phải nhắm tới, nếu lao công của con
người và chính bản thân của con người
không bị giảm xuống mức chỉ là một món
hàng. Những mục tiêu này gồm có một mức lương
đủ để nuôi sống gia đ́nh, đủ
cho bảo hiểm xă hội trong lúc về già và khi
bị thất nghiệp, và bảo đảm tương
xứng cho các điều kiện làm việc. (Centesimus Annus, n. 34) 214. Cũng phải nêu rơ
rằng sự công b́nh của một hệ thống
kinh tế xă hội, và, dù sao, sự chuyển vận
đúng của nó, phải được đánh giá
dứt khoát theo cách mà người ta tưởng thưởng
công bằng lao động của con người trong
hệ thống này. Về điểm này, chúng ta
lại gặp nguyên tắc đầu của tất
cả trật tự đạo đức xă hội,
nghĩa là nguyên tắc sử dụng chung các của
cải. Trong tất cả hệ thống, không kể
những liên hệ cơ bản hiện hữu giữa
vốn và lao động, tiền lương, tức là
phần thưởng của lao động, vẫn là phương
cách nhờ đó đại đa số người ta
có thể tới được cách cụ thể
những của cải có mục đích sử dụng
chung, dầu đó là những của cải tự nhiên
hay những của cải kết quả của sự
sản xuất. Người lao công có được
những thứ của cải này là nhờ tiền lương
họ lănh như tiền thù lao công việc làm của
ḿnh. Do đó, tiền lương đúng đắn,
trong mỗi trường hợp, trở thành một
sự kiểm tra cụ thể về phép công b́nh
của tất cả hệ thống kinh tế xă
hội và cũng là của sự chuyển vận đúng
của nó. Đây không phải là một sự kiểm
tra duy nhất của sự kiện trên, nhưng sự
kiểm tra này đặc biệt quan trọng và, nói
được, đó là sự kiểm tra mấu
chốt. (Laborem Exercens, n. 19) 215. Nói tổng quát,
những cố gắng này nhằm duy tŕ cơ cấu
thị trường tự do, bảo đảm bằng
một hệ thống tiền tệ vững chắc và
sự hoà hợp trong những tương quan xă hội
tạo điều kiện cho một sự tăng gia
kinh tế đều đặn và lành mạnh, trong
đó dân chúng bằng công việc làm của họ có
thể xây dựng một tương lai tốt đẹp
hơn cho ḿnh và cho gia đ́nh ḿnh. Trong khi đó
những cố gắng này nhằm tránh việc biến
cơ cấu thị trường thành một chủ
điểm duy nhất trong đời sống xă hội,
và người ta muốn đặt nó dưới
sự kiểm soát công cộng, theo nguyên tắc hướng
về một mục tiêu chung cho các sản phẩm
vật chất. Trong chiều hướng này, cơ
hội làm việc dồi dào, một hệ thống an
ninh xă hội và huấn nghiệp vững chắc,
quyền tự do gia nhập nghiệp đoàn và hành
động hiệu quả của nghiệp đoàn,
sự trợ giúp trong trường hợp bị
thất nghiệp, các cơ hội được tham
gia dân chủ trong đời sống xă hội - tất
cả những việc này có nghĩa là đưa lao
động vượt ra khỏi t́nh trạng bị coi
là "một món hàng" và bảo đảm khả
năng lao động cách xứng đáng. (Centesimus Annus, n. 19) 216. C̣n một việc khác
nữa phải làm, việc này liên hệ chặt
chẽ với tất cả những ǵ nói trên. Cũng
như người ta không thể thành lập sự
thống nhất của đoàn thể xă hội trên
việc đấu tranh giai cấp, cũng vậy người
ta không thể trông đợi sự cạnh tranh tự
do đưa tới một thể chế kinh tế
chỉnh đốn hẳn hoi. Thật vậy chính
từ ảo tưởng này, cũng giống như
từ một nguồn nước nhiễm độc,
phát xuất tất cả những lầm lạc trong
khoa kinh tế cá nhân. Khoa này v́ do quên sót hay không
biết mà loại bỏ đặc tính xă hội và luân
lư của sự sống kinh tế, tưởng rằng
các quyền bính phải để sự sống này
theo phản ứng riêng của nó, một khi nó thoát
khỏi mọi cưỡng chế, sự tự do
thị trường và tự do cạnh tranh cung cấp
cho nó một nguyên tắc trực tiếp chắc
chắn hơn là sự can thiệp của bất
cứ một trí tuệ được sáng tạo nào
khác. Đă hẳn, giữ trong những giới hạn
đúng mức, sự cạnh tranh tự do là điều
hợp lư và hữu ích; nhưng không bao giờ nó có
thể làm mực thước điều chỉnh đời
sống kinh tế. Các sự kiện đă minh chứng
điều này từ khi người ta cho thực hành
những định đề của một chủ nghĩa
cá nhân thảm hại. Cho nên tuyệt đối
cần thiết đặt lại sự sống kinh
tế dưới luật một nguyên tắc hướng
dẫn chính đáng và hiệu nghiệm. Sự độc
tài kinh tế ngày nay kế tiếp sự cạnh tranh
tự do chắc không thể hoàn thành nhiệm vụ này;
nó càng không thể hoàn thành nhiệm vụ này v́,
tự bản chất nó là thái quá và bạo tàn,
nếu muốn nên hữu ích cho con người, nó
cần một máy hăm mạnh và khôn ngoan mà nó không
thể tự ḿnh có được. Như vậy th́
cần tới những nguyên tắc cao hơn và cao thượng
hơn để quản trị những quyền
lực kinh tế này một cách nguyên vẹn thẳng
nhặt, tức là phép công bằng và đức bác ái
xă hội. Phép công b́nh này phải thấm nhập hoàn
toàn chính những thể chế và đời sống
trọn vẹn của dân chúng; hiệu năng thực
sự thực hành của nó trên hết phải
được chứng tỏ qua sự tạo dựng
một trật tự pháp lư và xă hội nói được
là tạo h́nh cho tất cả đời sống kinh
tế. C̣n về đức bác ái xă hội, nó
phải là linh hồn của trật tự này, trật
tự mà quyền bính phải ra sức bảo vệ và
bênh vực cách hiệu nghiệm; nhiệm vụ họ
có thể chu toàn dễ dàng hơn nếu họ
muốn thoát khỏi những quyền hạn không
thuộc về lănh vực riêng của họ, như Chúng
tôi đă nói. (Quadragesimo Anno, n. 88) 217. Nền kinh tế làm
ăn buôn bán hiện đại có những khía
cạnh tích cực, căn bản của nó là quyền
tự do của con người trong lănh vực kinh
tế, cũng như trong nhiều lănh vực khác.
Quả thật, hoạt động kinh tế chỉ là
một lănh vực trong rất nhiều h́nh thức
hoạt động của con người, và trong lănh
vực này cũng như trong mọi lănh vực khác, có
quyền tự do cũng như bổn phận hành
xử tự do trong tinh thần trách nhiệm. Nhưng
cần ghi nhận là có sự khác biệt đặc
biệt giữa các chiều hướng trong xă hội
tân tiến và những xă hội trong quá khứ, ngay
cả thời gần đây. Nếu, ngày xưa,
yếu tố quyết định trong việc sản
xuất là đất đai và sau này thêm yếu tố
tư bản - được hiểu là toàn bộ
những cơ cấu và những dụng cụ dùng
trong công cuộc sản xuất - ngày nay yếu tố
quyết định là chính con người nhiều hơn,
nghĩa là khả năng hiểu biết xuất
hiện trong kiến thức về khoa học, khả năng
tổ chức liên đới cũng như khả năng
nhận ra nhu cầu của những người khác và
thoả măn những nhu cầu đó. (Centesimus Annus, n. 32) IV. Luân Lư, Công B́nh và
Trật Tự Kinh Tế
218. Bởi v́ nếu
đúng là khoa kinh tế và kỷ luật, th́ mỗi bên
theo lănh vực ḿnh, tùy thuộc những nguyên tắc
riêng, nhưng là điều lầm lạc nếu
khẳng định trật tự kinh tế và trật
tự xă hội rất xa nhau, rất lạ nhau, đến
nỗi cái thứ nhất không cách nào lệ thuộc vào
cái thứ hai. Chắc chắn, những luật kinh
tế, xây dựng trên bản tính sự vật và trên
khả năng hồn xác, dạy chúng ta những
mục đích nào, trong trật tự này, ở ngoài
tầm hoạt động con người, ngược
lại mục đích nào nó có thể theo, cũng như
những phương thế nào cho phép thực hiện
những mục đích đó ; về phía ḿnh, lư trí
kết luận rơ ràng, từ bản chất sự
việc và từ bản tính cá nhân và xă hội
của con người, mục đích tối hậu mà
Đấng Sáng Tạo ấn định cho trật
tự kinh tế toàn bộ. (Quadragesimo Anno , n. 42) 219. Phải giữ phép công
b́nh không những trong việc phân phối của
cải, nhưng cũng phải giữ đối
với các doanh nghiệp nơi phát triển những quá
tŕnh sản xuất. Thật vậy, trong bản tính con
người có ghi rơ họ có khả năng nhận
lấy trách nhiệm của ḿnh cũng như hoàn
thiện chính ḿnh, nơi nào mà họ thi hành sinh
hoạt sản xuất của ḿnh. Do đó, nếu các
cơ cấu, sự điều hành, những ngoại
cảnh của một hệ thống kinh tế tự nó
làm tổn thương phẩm giá nhân vị của
những người đươc sử dụng, làm cùn
nhụt cách hệ thống ư thức trách nhiệm
của họ, cản trở việc phát huy sáng
kiến riêng của họ, một hệ thống kinh
tế như thế đó là bất công, cho dầu,
theo giả thuyết, những của cải nó sản
xuất đạt được mức cao, và
được phân phối theo những luật công b́nh
và đồng đều. (Mater et Magistra, nn. 82-83). 220. Nhưng, nếu xem xét
sâu hơn, th́ rơ ràng việc canh tân xă hội hằng
ao ước lâu nay, phải được đi trước
do một sự canh tân hoàn toàn về tinh thần Kitô
giáo mà vô phúc thay những người chăm lo các
vấn đề kinh tế thường đánh mất,
bằng không, tất cả mọi cố gắng đều
hoá ra vô ích, người ta xây dựng không phải trên
đá, nhưng trên cát (x. Mt 7, 24). Và điều chắc
chắn là, cái nh́n Chúng tôi vừa đưa trên
hệ thống kinh tế hiện đại, thưa Chư
Huynh khả kính và các con yêu quí, đă cho thấy
hệ thống này chịu nhiều đau khổ sâu xa.
Rồi chúng ta đă khảo sát chủ nghĩa cộng
sản và xă hội, tất cả những h́nh thức
chủ nghĩa đó, dầu có êm dịu nhất, cũng
rất xa Tin Mừng. (Quadragesimo Anno, n. 127 -128) 221. Thật vậy Tôi
muốn mời những nhà chuyên môn khoa kinh tế và chính
những người hoạt động trong lănh
vực này, cũng như những người có trách
nhiệm chính trị, phải nhận ra sự cấp bách
của việc thực hành kinh tế và những chính sách
tương ứng phải nhắm tới lợi ích cho
mọi người và cho toàn diện con người.
Đó là một yêu sách không những của khoa đạo
đức, mà c̣n của một nền kinh tế lành
mạnh. Quả thật, kinh nghiệm xem ra chứng minh
rằng sự thành công kinh tế ngày càng tùy thuộc
vào việc người ta làm tăng giá trị
những con người và những khả năng
của họ, người ta khuyến khích sự tham
gia, người ta khai thác ngày càng hơn những
sự hiểu biết và những thông tin, người
ta phát triển t́nh liên đới. (Sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà B́nh 2000, n.
16) 222. Vả lại, chính
sự khai triển lịch sử mỗi ngày cho thấy
rơ hơn rằng một cuộc sống chung được
chỉnh đốn và có tính phong phú chỉ hiện
thực vói sự đóng góp trong lănh vực kinh tế,
giữa các tư nhân cũng như chính quyền,
sự đóng góp một trật, thực hiện trong
hoà hợp, trong những cân đối đáp ứng
với những yêu sách của công ích, chiếu theo
những hoàn cảnh hay thay đổi và những thăng
trầm của con người. (Mater et magistra, n. 86) V. Một Nền Thần
Học Thật Sự Giải Phóng
223. Giáo Hội Chúa Giêsu
Kitô là một sứ điệp loan báo tự do và là
một quyền lực giải phóng. Chân lư thiết
yếu này, trong mấy năm sau này, là đối tượng
của suy tư thần học, trong một sự chú tâm
mới đầy hứa hẹn. Sự giải phóng trước
hết và chủ yếu là giải phóng khỏi nô
lệ căn bản tội lỗi. Mục đích và cùng
đích của nó là sự tự do con cái Chúa, ân
huệ của ân sủng. Nó đ̣i hỏi, do hậu
quả tất nhiên, phải giải phóng nhiều
thứ nô lệ thuộc phạm vi văn hoá, kinh
tế, xă hội và chính trị, chung cuộc tất
cả những thứ nô lệ đó bắt nguồn
từ tội lỗi, và chúng tạo nên bao nhiêu cản
trở ngăn cản con người sống đúng như
phẩm giá của ḿnh ... Trước những vấn
đề khẩn cấp, một số người
bị cám dỗ lưu ư một chiều đến
sự giải phóng những nô lệ thuộc trật
tự trần thế và trần gian, dường như
họ muốn đưa xuống hàng thứ yếu
việc giải phóng khỏi sự tội và, do đó,
trên thực tế không c̣n gán cho nó tầm quan
trọng hàng đầu thuộc về nó. (Libertatis Nuntius, Introduction) 224. Một số người,
đứng trước việc chia sẻ cơm bánh,
bị cám dỗ đặt trong dấu ngoặc và hoăn
lại ngày mai việc rao giảng Tin Mừng: bánh trước
đă, rồi sau mới tới Lời. Đó là
một sai lầm nghiêm trọng nếu tách rời,
kể cả việc đối nghịch cả hai.
Vả lại ư thức Kitô giáo tự nhiên gợi ư
cho nhiều người thực hiện cả hai. (Libertatis Nuntius, VI, n. 3) 225. Trong mức độ
chúng thật sự có tính mác xít, những trào lưu này
tiếp tục liên hệ với một số luận
đề cơ bản không phù hợp với quan điểm
Kitô giáo về con người và xă hội ... Chúng ta nên
nhớ rằng thuyết vô thần và sự phủ
định nhân vị, quyền tự do và các quyền
của nhân vị, là nằm trong tâm điểm
thuyết mác-xít. Vậy thuyết này chứa đựng
những sai lầm trực tiếp đe doạ
những chân lư đức tin về kiếp sống
đời đời của con người. Hơn
nữa, muốn đem vào trong khoa thần học
một sự "phân tách" mà những chỉ tiêu
giải thích lại tùy thuộc quan niệm vô thần,
đó là nhốt ḿnh trong những mâu thuẫn tai
hại. (Libertatis Nuntius, VII, nn. 8-9) 226. Thật vậy, chúng
ta không nên không biết rằng có nhiều người
Kitô hữu quảng đại, nhạy cảm với
những vấn đề thảm hại thuộc bài tính
giải phóng, v́ muốn đưa Giáo Hội vào trong
cố gắng giải phóng, thường bị cám
dỗ qui sứ vụ của Giáo Hội vào trong
những chiều kích của một chương tŕnh
thuần tuư trần gian; qui các mục đích của Giáo
Hội vào một chủ trương coi con người
là trung tâm; qui phần rỗi mà Giáo Hội là sứ
giả và bí tích, vào một hạnh phúc vật
chất; qui sinh hoạt Giáo Hội, vào những sáng
kiến thuộc trật tự chính trị hay xă
hội, mà quên đi tất cả những bận tâm
thiêng liêng và tôn giáo. Nhưng nếu làm vậy, th́ Giáo
Hội sẽ mất ư nghĩa nền tảng của ḿnh.
Sứ điệp giải phóng của Giáo Hội không
c̣n ǵ đặc thù và cuối cùng sẽ dễ dàng
bị những hệ thống ư thức hệ và
những đảng phái chính trị chiếm giữ và
lạm dụng. (Evangelii Nuntiandi, n. 32) 227. Do đó, khi rao
giảng việc giải phóng và khi liên kết với
những người làm việc và chịu đau
khổ v́ ḿnh, Giáo Hội - không chấp nhận
chỉ giới hạn sứ vụ ḿnh vào lănh vực
tôn giáo, mà không nghĩ ǵ tới những vấn đề
trần gian thuộc con người - tái khẳng định
quyền tối thượng của ơn gọi thiêng
liêng của ḿnh, từ chối thay thế việc rao
giảng Vương Quốc bằng việc loan báo
những giải phóng nhân bản, và c̣n tuyên bố
rằng chính sự đóng góp của ḿnh vào trong
việc giải phóng cũng không trọn vẹn nếu
bỏ bê việc loan báo sự cứu rỗi trong Chúa
Kitô. (Evangelii Nuntiandi, n. 34,) 228. Có một sự khác
biệt lớn lao giữa các hoàn cảnh và cách
thế đặt vấn đề trong thế giới
ngày nay, hơn nữa c̣n là một thế giới đặc
trưng bởi nhịp độ biến chuyển nhanh
thêm măi. V́ vậy, cần phải hết sức tránh
thái độ tổng quát hoá và giản lược thái
quá. Tuy thế vẫn có thể ghi nhận một
số khuynh hướng có trong xă hội hiện
tại. Cũng như trong cánh đồng Phúc Âm,
cỏ lùng cùng hạt giống tốt cùng mọc lên,
th́ trong lịch sử, một sân khấu hằng ngày
vẫn thường diễn ra những cảnh trái ngược
phát xuất từ tự do của con người:
sự thiện và sự ác, bất công và công lư, lo
sợ và hy vọng vẫn tồn tại bên nhau, đôi
khi quấn chặt lấy nhau. (Christifideles Laici, n. 3) VI. Sự Can Thiệp
Của Nhà Nước Và Nền Kinh Tế
229. Vả lại Nhà Nước
có bổn phận canh chừng và hướng dẫn
việc áp dụng những quyền con người trong
lănh vực kinh tế; nhưng trong lănh vực này, trách
nhiệm đầu tiên không thuộc về Nhà Nước,
nhưng thuộc về các cá nhân và các đoàn thể
khác nhau hay những hiệp hội làm thành xă hội.
Nhà Nước không thể trực tiếp bảo đảm
việc thi hành quyền lao động cho tất cả
mọi công dân mà không kiểm soát tất cả đời
sống kinh tế và ngăn trở sự tự do
của các sáng kiến cá nhân. Dầu vậy, điều
này không có nghĩa là Nhà Nước không có thẩm
quyền trong lănh vực này, theo lời khẳng định
của những kẻ tán dương việc dẹp
bỏ hoàn toàn các luật lệ trong lănh vực kinh
tế. Ngược lại, Nhà Nước có bổn
phận nâng đỡ sinh hoạt các xí nghiệp
bằng cách tạo ra những điều kiện cho phép
có việc làm, bằng cách khuyến khích sinh hoạt
đó trong những trường hợp nó yếu kém
hay là bằng cách nâng đỡ nó trong những lúc
bị khủng hoảng. Nhà Nước c̣n có quyền
can thiệp khi t́nh trạng độc quyền đặc
biệt làm đ́nh trệ và cản trở công
cuộc phát triển. Ngoài nhiệm vụ điều hoà
và hướng dẫn công cuộc phát triển, trong
những hoàn cảnh hết sức đặc biệt,
Nhà Nước cũng có thể thực hiện vai tṛ
thay thế khi các lănh vực của xă hội hoặc
hệ thống kinh doanh quá yếu hoặc vừa
khởi sự không thể làm tṛn nhiệm vụ đ̣i
hỏi trước mắt. Những sự can thiệp có
tính cách phụ thuộc đó, v́ lư do khẩn cấp
liên quan tới công ích, phải càng ngắn thời gian
càng tốt để tránh việc loại bỏ vĩnh
viễn vai tṛ chuyên biệt của những nhóm này hay
những giới doanh thương này, đồng
thời cũng tránh nới rộng quá đáng lănh
vực hoạt động của Nhà Nước gây
tổn hại cho cả tự do kinh tế lẫn
tự do của công dân. (Centesimus Annus, n. 48) 230. Mỗi người có
quyền có sáng kiến trong sinh hoạt kinh tế,
sử dụng chính đáng các tài năng của ḿnh
để góp phần làm ra nhiều của cải cho
mọi người được hưởng, và
gặt hái những hiệu quả chính đáng do các
nỗ lực của ḿnh. Họ phải để tâm
tuân theo các qui dịnh do chính quyền hợp pháp đề
ra v́ công ích. (CEC , n. 2429) 231. Người ta có
thể nói cách hợp lư tới cuộc tranh đấu
chống lại một hệ thống kinh tế,
nếu hệ thống này được coi như
một phương pháp chủ trương duy tŕ vai tṛ
ưu thắng tuyệt đối của tư bản,
của việc làm chủ các phương tiện
sản xuất và đất đai, đi ngược
lại với bản chất tự do và cá nhân của
lao công con người (x. Laborem Exercens, n. 7). Trong khi tranh
đấu chống lại một hệ thống như
vậy, giải pháp được đề nghị
thay thế không phải là một hệ thống theo xă
hội chủ nghĩa mà thực chất chỉ là
thứ tư bản chủ nghĩa do quốc gia nắm
đầu, nhưng là một xă hội bảo đảm
quyền tự do làm việc, kinh doanh và góp phần.
Một xă hội như vậy không chống lại
thị trường, nhưng đ̣i hỏi thị trường
phải được những lực lượng trong
xă hội và quốc gia kiểm soát thoả đáng,
để bảo đảm thoả măn những nhu
cầu căn bản của toàn xă hội. (Centesimus Annus , n. 35) 232. Thực ra nếu
chỉ có sáng kiến cá nhân và luật cạnh tranh mà
thôi th́ không làm cho việc phát triển được
thành công mỹ măn. Không được phép liều lĩnh
để cho tài sản kẻ giàu và quyền lực
kẻ mạnh gia tăng, để cho sự cùng
cực của con người nghèo thêm rơ rệt và
để cho ách nô lệ của những kẻ bị
áp bức thêm nặng nề. V́ thế phải có chương
tŕnh để "nâng đỡ, khuyến khích,
phối hợp, thay thế và bổ khuyết" (MM, n.
44), hoạt động của các cá nhân và các đoàn
thể trung gian. Chính Phủ có quyền quyết định,
cả việc đặt ra những mục tiêu phải
theo đuổi, những đích điểm phải
đạt, những phương tiện phải dùng
để đi tới, và Chính Phủ cũng có
bổn phận phải thúc đẩy nghị lực
của tất cả những ai có trách nhiệm về
công cuộc chung này. Nhưng Chính Phủ phải lưu
tâm để các tư nhân và các tập thể trung
gian có thể giúp sáng kiến vào đó. Có như
thế mới tránh được nạn tập
sản hoá tuyệt đối với kế hoạch hoá
độc đoán, xâm phạm đến tự do và
việc sử dụng các quyền căn bản của
con người. (Populorum Progressio, n. 33) 233. Điều có
thực là ngày nay việc phát triển khoa học
kỹ thuật về sản xuất, cho chính quyền
những khả năng rộng lớn hơn để
giảm thiểu những bất quân b́nh giữa các lănh
vực sản xuất, giữa các phạm vi khác nhau bên
trong những cộng đồng chính trị, giữa
những nước khác nhau trên b́nh diện thế
giới. Sự phát triển đó cũng cho phép
hạn chế những biến chuyển trong những
thay đổi của cảnh ngộ kinh tế, cho phép
đương đầu với những hiện tượng
thất nghiệp từng loạt, trong viễn tượng
của những hậu quả tích cực. Do đó, chính
quyền, có trách nhiệm lo công ích, không thể không
cảm thấy ḿnh có nhiệm vụ thi hành trong lănh
vực kinh tế một hành động nhiều h́nh
thức, rộng lớn hơn, sâu xa hơn, hữu cơ
hơn; để đạt được mục đích
này, chính quyền cũng phải thích ứng với
những cơ cấu, những chuyên môn, những phương
thế, những cách thức. (Mater et Magistra, n. 54) 234. Trước hết
phải khẳng định rằng thế giới kinh
tế phát xuất từ sáng kiến cá thể của
tư nhân, dầu họ hành động riêng rẽ hay
phối hợp bằng nhiều cách để đeo
đuổi mục đích chung. Nhưng, bởi
những lư do mà các vị Tiền Nhiệm chúng tôi
đă thừa nhận, hơn nữa, chính quyền
phải hiện diện tích cực để cổ vơ
hợp lẽ sự phát triển sản xuất, cho
sự thăng tiến xă hội và v́ lợi ích
của mọi công dân. Hành động của chính
quyền có tính cách hướng dẫn, khích lệ,
phối trí, bổ sung và hội nhập. Hành động
này phải được linh ứng do nguyên tắc
hỗ tương, như Đức Piô XI nói trong Thông
Điệp Quadragesimo Anno (Tứ Thập Niên): "Đây
là một nguyên tắc cơ bản rất hệ
trọng thuộc triết lư xă hội mà người
ta không thể thay đổi hay làm lung lay; cũng như
người ta không thể cất khỏi tư nhân,
để sang cho kẻ khác, những đóng góp họ
có thể chu toàn bằng sáng kiến riêng ḿnh và
bằng những phương tiện riêng ḿnh. Như
vậy là phạm lỗi bất công, đồng
thời làm rối loạn trật tự xă hội cách
rất tai hại, nếu rút khỏi những nhóm
nhỏ hơn và ở cấp thấp hơn, những
nhiệm vụ mà họ có sức hoàn thành lấy,
để trao cho một tập thể rộng lớn hơn
và ở cấp cao hơn. Đối tượng tự
nhiên của mọi can thiệp trong vấn đề xă
hội là giúp các phần tử đoàn thể xă
hội, chớ không phải là phá huỷ hay thôn tính
họ." (QA, n. 23). (Mater et Magistra, nn. 51-53) 235. Công cuộc xă
hội hoá cũng kèm theo những nguy hiểm. Sự can
thiệp quá đáng của Nhà Nước có thể
đe doạ tự do và sáng kiến cá nhân. Hội Thánh
đề ra nguyên tắc hỗ trợ: "Một xă
hội cấp cao không được can thiệp vào
nội bộ xă hội cấp thấp đến độ
tước mất các thẩm quyền của nó, nhưng
đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần
thiết, và giúp nó phối hợp hoạt động
với những xă hội khác, để mưu cầu
công ích. (CA, n. 48). (CEC, n. 1883) 236. Nhà Nước có
bổn phận bảo vệ và duy tŕ những tài
sản chung như các môi trường thiên nhiên và môi
sinh nhân loại, là những thứ tài sản không
thể chỉ được bảo vệ bằng các
lực lượng của thị trường mà thôi.
Cũng như vào thời kỳ hệ thống tư
bản mới c̣n sơ khai, khi đó Nhà Nước có
bổn phận bảo vệ các quyền căn bản
của công nhân, và ngày nay với hệ thống tư
bản mới, Nhà Nước và toàn thể xă hội
có bổn phận phải bảo vệ những tài
sản tập thể, ngoài những tài sản khác, làm
nên khung cảnh trong đó mỗi người có
thể theo đuổi hợp pháp những mục tiêu cá
nhân của ḿnh. (Centesimus Annus, n. 40) 237. Nguyên tắc hỗ
trợ nghịch với mọi h́nh thức duy tập
thể. Nó xác định giới hạn cho việc can
thiệp của Nhà Nước, hoà hợp các tương
quan giữa cá nhân và xă hội, hướng tới
việc thiết lập một trật tự quốc
tế đích thực. (CEC n. 1885) 238. Nhưng nhận xét
tổng quát này cũng áp dụng cho vai tṛ của Nhà Nước
trong lănh vực kinh tế. Hoạt động kinh
tế, đặc biệt hoạt động của
một nền kinh tế thị trường, không
thể bị để rơi vào một khoảng
trống về thể chế, tư pháp hoặc chính
trị. Trái lại, nó phải bảo đảm cho
tự do cá nhân và quyền tư hữu cũng như
một hệ thống tiền tệ ổn định
và những dịch vụ công cộng hữu hiệu.
Nhưng nhiệm vụ chủ yếu của Nhà Nước
là thực hiện những bảo đảm này để
những người làm việc và sản xuất có
thể hưởng những kết quả do sức lao
động của ḿnh và như vậy sẽ cảm
thấy khích lệ để làm việc một cách có
hiệu quả và thẳng thắn. Thiếu sự
ổn định cộng với t́nh trạng tham nhũng
của các viên chức chính quyền và việc lan tràn
các nguồn làm giàu và thu lợi bất chính từ các
hoạt động bất hợp pháp và đầu cơ
tích trữ thuần tuư, là một trong những trở
ngại chính cho công cuộc phát triển và cho trật
tự của nền kinh tế. (Centesimus Annus, n. 48) 239. Những cố
gắng trên đây muốn thực hiện hữu
hiệu, th́ không thể để trong một t́nh
trạng phân tán và rời rạc, càng không thể
để đối chọi nhau v́ uy thế hay
quyền lợi. Hoàn cảnh hiện tại đ̣i
hỏi những chương tŕnh có phối hợp,
bởi v́ một sự giúp đỡ có kế
hoạch bao giờ cũng hữu hiệu hơn sự
giúp đỡ tùy cơ hội, do thiện chí của
từng người. Như Chúng Tôi đă nói ở trên,
cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, nêu rơ
mục tiêu, chỉ định phương tiện,
tập trung các nỗ lực, để đáp ứng các
nhu cầu hiện tại và những đ̣i hỏi
của tương lai. Hơn nữa, môt chương tŕnh
như thế, c̣n vượt quá những mục tiêu
của việc phát triển kinh tế và tiến bộ
xă hội: nghĩa là nó c̣n làm cho công cuộc sẽ
thực hiện có ư nghĩa, có giá trị, và làm cho
con người có thêm phẩm giá trong lúc chỉnh trang
thế giới. (Populorum Progressio , n. 50) VII. Kinh Doanh
240. Chúng ta vừa nói
tới sự kiện là người ta làm việc
với nhau, chia sẻ trong một "cộng đồng
lao động" bao gồm những lănh vực
rộng lớn hơn. Theo luật chung, một người
sản xuất một vật không phải cho ḿnh dùng,
nhưng cũng để những người khác có
thể sử dụng sau khi đă trả một giá
phải chăng mà đôi bên thoả thuận qua sự
mặc cả tự do. Chính khả năng tiên liệu
về nhu cầu của người khác lẫn việc
phối hợp các yếu tố sản xuất sao cho thích
hợp nhất để thoả măn những nhu cầu
đó tạo nên một nguồn tài sản quan
trọng khác trong xă hội văn minh. Ngoài ra, nhiều
sản phẩm không thể sản xuất đủ
được nếu chỉ có một cá nhân
đơn độc làm việc, nó đ̣i hỏi
sự hợp tác của nhiều người để
làm việc cho một mục tiêu chung. Tổ chức
một công tŕnh sản xuất như vậy, dự trù
thời gian sản xuất, bảo đảm đáp
ứng thuận lợi với những đ̣i hỏi
cần phải thoả măn và chấp nhận rủi ro
- tất cả cũng là nguồn gốc của tài
sản trong xă hội ngày nay. Theo cách này người ta
thấy rơ và có tính quyết định, vai tṛ của
việc làm con người có kỷ luật và có óc sáng
tạo và, như thành phần thiết yếu của
việc làm này, vai tṛ của khả năng đưa
ra sáng kiến và khả năng kinh doanh. Tiến tŕnh này, một
tiến tŕnh đem ánh sáng thực tế vào trong
huấn giáo về con người mà Kitô giáo vẫn thường
xác quyết, cần được xem xét cẩn
thận và thuận lợi. Quả thật, ngoài trái
đất ra, nguồn tài nguyên chính của con người
lại chính là con người. Sự thông minh giúp con người
có thể khám phá ra tiềm năng sản xuất
của trái đất và nhiều phương cách khác
nhau để thoả măn nhu cầu của con người.
Chính sự làm việc có kỷ luật, đồng
thời cộng tác chặt chẽ với những người
khác, đă giúp h́nh thành những cộng đồng
lao động mạnh mẽ hơn mà nhờ đó có
thể biến đổi môi trường tự nhiên và
nhân bản của con người. Tiến tŕnh này
đ̣i hỏi nhiều đức tính quan trọng như
đức tính chăm chỉ, cần cù, cẩn
trọng trong việc đảm đương những
mạo hiểm hợp lư, đức tính tín nhiệm và
trung tín trong các mối liên hệ giữa các cá nhân cũng
như ḷng quả cảm trong việc thi hành các
quyết định khó khăn và đau đớn, nhưng
cần thiết cho toàn bộ công việc làm ăn và
đón nhận những thất bại có thể
xảy ra. 241. Không có suy tư này,
người ta không thể hiểu ư nghĩa nhân đức
hăng hái làm việc, và người ta lại càng không
thể hiểu tại sao sự hăng hái làm việc
phải là một nhân đức; quả thật, nhân
đức, như khuynh hướng luân lư, là điều
cho phép con người nên tốt với tư cách con người.
Sự kiện này không thay đổi chút nào chuyên tâm
của chúng ta tránh cho, trong việc làm, chính con người
không bị một sự sút giảm nào về phẩm
giá riêng ḿnh, mà vẫn cho phép vật chất nên sung túc
hơn. Người ta cũng biết rằng, bằng
nhiều cách, có thể sử dụng lao động
chống lại con người, người ta có
thể phạt con người bằng hệ thống
lao động cưỡng bách trong các trại tập
trung, người ta có thể dùng lao động như
phương tiện đè nén con người, sau cùng người
ta có thể, bằng nhiều cách, khai thác lao động
nhân bản, nghĩa là chính con người lao động.
Tất cả sự này biện hộ cho trách nhiệm
luân lư là lo phối hợp sự hăng say làm việc
như là nhân đức, vào một trật tự xă
hội của lao động, điều này cho phép con
người "nên người hơn" trong việc
làm, và tránh cho con người không tự hạ giá
ở đó, khi bị hao ṃn những sức lực
thể xác ḿnh (điều này không thể tránh
được, ít ra cho tới một điểm nào),
và nhất là bằng cách làm tổn thương
phẩm giá và tính chủ quan riêng của ḿnh. (Laborem Exercens, n. 9) 242. Giáo Hội công
nhận vai tṛ hợp pháp của lợi nhuận
được coi như dấu hiệu chứng tỏ
việc làm ăn tiến triển khá. Khi một hăng xưởng
có lời, điều đó có nghĩa là những
yếu tố sản xuất đă được
sử dụng đúng và những nhu cầu tương
ứng của con người đă được
thoả măn đầy đủ. Vẫn có thể
xảy ra việc t́nh trạng tài chánh vững vàng mà
đồng thời thứ tài sản giá trị
nhất của một hăng xưởng là con người
lại bị hạ nhục và nhân phẩm của
họ bị chà đạp. Việc này, không những
về mặt luân lư không thể chấp nhận
được mà lại c̣n có ảnh hưởng tai
hại đối với hiệu năng kinh tế
của hăng xưởng. Quả thực, mục đích
của một hăng xưởng không phải chỉ
để kiếm lời, nhưng ngay trong chính bản
chất sống c̣n của nó là một cộng đồng
gồm những người muốn t́m cách thoả măn
những nhu cầu căn bản của ḿnh bằng các
cách thức khác nhau và tạo nên một nhóm người
đặc biệt để phục vụ toàn xă
hội. Lợi nhuận là thước đo lường
đời sống của một thương vụ, nhưng
không chỉ là một thứ đo lường duy
nhất; những yếu tố khác về nhân bản và
luân lư cũng phải được xét tới, mà trông
về lâu về dài ít ra cũng quan trọng không kém
cho đời sống của thương nghiệp. (Centesimus Annus, n. 35) 243. Mỗi người có
quyền sáng kiến trong sinh hoạt kinh tế, sử
dụng chính đáng các tài năng của ḿnh để
góp phần làm ra nhiều của cải cho mọi người
được hưởng, và gặt hái những
hiệu quả chính đáng do các nỗ lực của
ḿnh. Họ phải để tâm tuân theo các qui định
do chính quyền hợp pháp đề ra v́ công ích (x.
CA, nn. 32, 34) (CEC, n. 2429) 244. Trước những
trách nhiệm như vậy, Giáo Hội đưa ra giáo
huấn về xă hội của ḿnh như một
sự hướng dẫn cần thiết và lư tưởng,
một giáo huấn - như đă nói - công nhận giá
trị tích cực của thị trường và kinh
doanh, nhưng đồng thời cũng nêu lên rằng
chúng cũng phải hướng tới công ích. Giáo
huấn này cũng công nhận tính cách hợp pháp
của những nỗ lực của thợ thuyền
để có được sự tôn trọng đối
với nhân phẩm của ḿnh và được tham gia
rộng răi hơn trong các lănh vực của đời
sống trong các hăng xưởng kỹ nghệ để,
trong khi cộng tác với những người khác và dưới
sự hướng dẫn của người khác,
họ có thể, theo một nghĩa nào đó, làm
việc "cho chính ḿnh" (Laborem Exercens, n. 15), qua
việc sử dụng sự thông minh và sự tự do
của họ. (Centesimus Annus, n. 43) 245. Nên lưu ư rằng,
trong thế giới ngày nay, giữa nhiều quyền khác,
quyền có sáng kiến kinh tế thường bị bóp
chết. Thế nhưng nó là một quyền quan
trọng, không những chỉ cho các cá nhân, mà cũng
c̣n cho cả công ích. Kinh nghiệm cho thấy rằng
việc phủ nhận quyền này hay sự hạn
chế quyền này, nhân danh một sự "b́nh đẳng"
mạo xưng của mọi người trong xă hội,
nếu không tiêu huỷ trong thực tế, th́ cũng làm
suy giảm óc sáng kiến, nghĩa là cái nhân cách sáng
tạo của người công dân. Kết quả không
phải là một sự b́nh đẳng thật sự
mà là một sự "san bằng từ dưới".
Thay vào sáng kiến sáng tạo, người ta thích hơn
tính thụ động, sự tuỳ thuộc và sự
tùng phục cơ chế quan liêu, cơ chế này hành
động như cơ quan "tổ chức" và
"quyết định" duy nhất - nếu không
phải về sở hữu - về toàn bộ của
cải và các phương tiện sản xuất, đặt
mọi người vào một cái thế phải
phục tùng gần như tuyệt đối, tương
tự như sự tùy thuộc truyền thống
của công nhân vô sản vào tư bản chủ nghĩa.
Điều đó làm nẩy sinh một cảm giác
bị bóc lột hay tuyệt vọng, và điều
đó khiến người ta lănh đạm với
đời sống quốc gia, thúc đẩy nhiều
người bỏ xứ ra đi và c̣n cổ vơ cho
một thứ di tản "tâm lư". (Sollicitudo Rei Socialis, n. 15) 246. Phải ghi nhận trước
hết rằng cả hai h́nh thức kinh doanh này,
muốn đứng vững, phải luôn luôn thích
ứng với những cấu trúc, việc điều
hành, những sản xuất, những hoàn cảnh luôn
mới mẻ được ấn định do
những tiến triển khoa học và các kỹ
thuật, và cũng do những yêu sách di động và
những sở thích của người tiêu thụ.
Việc thích ứng này trước tiên phải
thực hiện do các thợ thuyền và chính những
người cộng tác. (Mater et Magistra, n. 87). 247. Tuy nhiên, những
chọn lựa có ảnh hưởng nhiều hơn trên
bối cảnh này, không được quyết định
bên trong mỗi cơ quan sản xuất, nhưng
phải bởi các công quyền, hay là những cơ
chế thẩm quyền thế giới, vùng hay quốc
gia, hay là những cơ chế tùy thuộc hoặc khu
vực kinh tế, hoặc loại sản xuất. Do
đó điều hợp thời - sự cần
thiết - là thấy hiện diện trong các quyền
lực hay các cơ chế này, không những những người
hùn vốn và những người đại diện
cho ích lợi của họ, mà c̣n những người
lao công và những kẻ đại diện cho các
quyền, các yêu sách, các ước vọng của
họ. (Mater et Magistra, n. 99) VIII. Thuyết Kinh Tế và Thuyết Hưởng
Thụ 248. Đây có ư nói tới
sự thăng tiến những con người chớ không
phải sự nhân số các sự vật mà con người
có thể sử dụng. Càng không có ư nói "ḿnh có
nhiều" th́ hơn "ḿnh là" như một nhà
triết học hiện thời và như Công Đồng
đă khẳng định (x. GS, n. 35). Thật vậy,
đă có một nguy hiểm thật sự và rơ nét:
đang khi sự thống trị của con người
trên thế giới vạn vật tiến triển
nhiều, th́ con người có nguy cơ mất
đường dẫn của sự thống trị
đó, thấy bản tính con người của ḿnh
bị tùng phục thế giới này nhiều cách và như
là chính ḿnh biến thành đối tượng của
những tṛ gian xảo đa dạng nhưng không
trực tiếp thấy rơ trong tất cả tổ
chức của đời sống cộng đồng,
trong hệ thống sản xuất, bởi sức ép
của những phương tiện truyền thông xă
hội. Con người không thể từ chối ḿnh cũng
không thể từ bỏ cái chỗ đứng của
ḿnh trong thế giới hữu h́nh, con người không
thể trở thành nô lệ vạn vật, nô lệ các
hệ thống kinh tế, nô lệ sản xuất, nô
lệ chính những sản phẩm của ḿnh. (Redemptor Hominis, n. 16) 249. Sự phát triển quá
mức, tức t́nh trạng một số giai tầng xă
hội sẵn có trong tay mọi thứ của cải
vật chất, làm con người dễ dàng trở thành
nô lệ của sự "chiếm hữu" và
của sự hưởng thụ tức khắc, không
nghĩ ǵ khác ngoài việc lo cho có nhiều đồ
vật hoặc lo thay thế luôn những thứ đă
có bằng những thứ khác tinh xảo hơn. Đó
là cái mà người ta gọi là văn minh "tiêu
thụ", đem theo với nó bao nhiêu là đồ
"phế thải" và "cặn bă”. "Có
được những vật chất và những
của cải tự nó không hoàn thiện được
con người, nếu điều đó không góp
phần làm trưởng thành và phong phú "hữu
thể" của ḿnh, nghĩa là thực hiện ơn
gọi nhân bản như là nhân bản". (Sollicitudo Rei Socialis, n. 28) 250. Đ̣i hỏi một
cuộc sống được thoả măn nhiều hơn
về phẩm chất tự nó là hợp pháp. Nhưng
người ta không thể không chú ư tới những trách
nhiệm và những hiểm nguy liên hệ tới giai
đoạn này của lịch sử. Cách thức
những nhu cầu này phát sinh và ấn định luôn
luôn đánh dấu bằng một quan niệm xác
thực nhiều hay ít về con người và sự
tốt lành thật sự của con người.
Một nền văn hoá để lộ quan niệm toàn
bộ về cuộc sống qua sự lựa chọn
về sản xuất và tiêu thụ. Chính tại đây
mà hiện tượng chủ nghĩa tiêu thụ
nảy sinh. Khi liệt kê các nhu cầu mới và các phương
tiện mới để thoả măn các nhu cầu đó,
người ta cần được hướng
dẫn bởi một h́nh ảnh toàn diện về con
người, trong đó phải tôn trọng tất
cả các chiều kích của con người và đặt
những chiều kích vật chất và theo bản năng
phụ thuộc các chiều kích nội tâm và tinh
thần. Nếu trái lại, chỉ có sự kêu gọi
trực tiếp đối với thị hiếu theo
bản năng của ḿnh - trong khi bằng nhiều cách
khác nhau bỏ quên thực tại về con người
với bản chất tự do và thông minh - khuynh hướng
và nếp sống tiêu thụ có thể được
tạo ra, nhưng về mặt khách quan nó không chính
đáng và làm hại cho sức khoẻ về thể xác
và sự lành mạnh về tinh thần. Không có ǵ sai
lầm khi muốn sống khá hơn; chỉ có lầm là
cách sống cho là khá hơn đó thực ra chỉ hướng
về chuyện "có" hơn là "được"
và muốn có hơn không phải để được
tốt hơn, nhưng để sống và coi hưởng
thụ như là mục đích tối hậu". (Centesimus Annus, n. 36). CHƯƠNG VII
LAO ĐỘNG VÀ TIỀN LƯƠNG I.
Bản
Chất Lao Động
II.
Lương Công B́nh và
Thù Lao Chính Đáng III.
Nơi Lao Động IV.
Thất Nghiệp V.
Những Nghiệp Đoàn VI.
Đ́nh Công 1.
Bản Chất Lao Động 251.
Ngay từ những trang đầu sách Sáng Thế, Giáo
Hội gặp được nguồn gốc của
niềm xác tín ḿnh là lao động làm thành một
chiều kích cơ bản của cuộc sống con người
trên trái đất. Sự phân tích những bản văn
này cho chúng ta ư thức rằng các bản văn đó
- đôi khi dưới một cách cổ xưa để
diễn tả tư tưởng - đă biểu lộ
những chân lư cơ bản về con người, và
đă là như vậy trong bối cảnh mầu
nhiệm sáng tạo. Các chân lư đó là những chân lư
quyết định về con người từ
khởi đầu và, đồng thời, vạch ra
những nét lớn của cuộc sống dưới
đất của con người, trong t́nh trạng công
chính nguyên thuỷ cũng như sau khi bức xé, do
tội, giao ước nguyên thuỷ của Đấng
Tạo Hoá với tạo vật nơi con người.
Khi con người, được tạo dựng "giống
h́nh ảnh Chúa… có nam có nữ" (St 1, 27), nghe
những lời này: "Hăy sinh sôi nẩy nở
thật nhiều, cho đầy mặt đất, và
thống trị mặt đất" (St 1, 28), mặc
dầu những lời này không trực tiếp và minh
nhiên qui chiếu về lao động, có lẽ chúng ám
chỉ gián tiếp về lao động, như là
một sinh hoạt phải thi hành trong thế giới. Hơn
nữa, những lời nói đó bày tỏ bản
chất sâu xa nhất của sinh hoạt đó. Con người
là h́nh ảnh Thiên Chúa nhứt thiết do uỷ
nhiệm đă nhận lănh từ Đấng Sáng
Tạo ra ḿnh, là khuất phục, thống trị trái
đất. Khi chu toàn uỷ nhiệm này, con người,
tất cả con người, phản ánh chính hành động
của Đấng Sáng Tạo vũ trụ. Lao
động, được hiểu như một sinh
hoạt "chuyển quá"- nghĩa là bắt
nguồn nơi chủ thể nhân bản, nó quay về
một đối tượng bên ngoài - giả
thiết con người thống trị đặc
biệt trên "trái đất", và tới phiên ḿnh
con người khẳng định và phát triển
sự thống trị này. Điều rơ ràng là dưới
danh từ "trái đất" như bản văn
Kinh Thánh nói, phải hiểu trước hết là cái
phần vũ trụ thấy được nơi con người
cư ngụ; nhưng theo nghĩa rộng người ta
có thể hiểu đó là tất cả thế
giới hữu h́nh ở trong tầm ảnh hưởng
của con người, nhất là khi con người
cố công đáp ứng các nhu cầu riêng của ḿnh.
Kiểu nói "thống trị mặt đất" có
một tầm mức vô tận. Nó chỉ tất
cả những nguồn tài nguyên mà trái đất (và
gián tiếp thế giới hữu h́nh) che giấu trong
ḿnh và nhờ sinh hoạt ư thức của con người,
có thể được khám phá và sử dụng cho
xứng hợp với con người. Như vậy
những lời này, đặt ở đầu Sách Thánh,
vẫn không ngưng có tính thời sự. Những
lời nói đó áp dụng cho tất cả mọi
thời đại đă qua của nền văn minh và
kinh tế, cũng như cho tất cả thực
tại hiện nay và cho những giai đoạn phát
triển mai sau mà có lẽ đă lộ nét trong mức
độ nào rồi, tuy phần lớn c̣n chưa
biết hay ẩn khuất đối với con người. (Laborem
Exercens, n. 4) 252.
Trong thời đại của chúng ta, vai tṛ của
sức lao động của con ngựi trở thành
quan trọng hơn nhiều và là yếu tố có tính
sản xuất cho cả của cải không phải
vật chất lẫn của cải vật chất. Hơn
nữa điều cũng rơ ràng là công việc của
một người lại liên hệ tự nhiên
với công việc làm của người khác. Hơn lúc
nào hết, làm việc là làm việc với người
khác và làm việc cho người khác: vấn đề
là làm việc ǵ cho người nào khác. Sự làm
việc đạt được nhiều kết
quả và hiệu năng hơn bao giờ hết
khiến người ta trở nên hiểu biết hơn
về khả năng sản xuất của trái đất
và ư thức sâu xa hơn về nhu cầu của
những người mà công việc nhằm tới. (Centesimus
Annus, n. 31) 253.
Trong ư định của Thiên Chúa, mỗi người
sinh ra là để được phát triển, v́
mỗi đời sống là một sứ mạng.
Từ khi mới sinh ra, mỗi người đă
được những đức tính và năng
khiếu như những mầm mống phải vun
trồng cho lớn lên, nhờ giáo dục của xă
hội hay cố gắng riêng của ḿnh, những đức
tính và năng khiếu đó lớn mạnh để
mọi người có thể đạt tới đích
mà Đấng Tạo Hoá đă chỉ định cho ḿnh.
Con người có trí tuệ và tự do, con người
có trách nhiệm về sự phát triển cũng như
về sự cứu rỗi của ḿnh. Con người
được những nhà giáo dục và những
kẻ sống chung với ḿnh giúp đỡ, nhưng cũng
đôi khi bị họ ngăn trở, nên, tuy bị
những ảnh hưởng thế nào đi nữa, th́
sự thành công hay thất bại của mỗi người
cũng là do chính mỗi người tạo nên: mỗi
người có thể nhờ sự thông minh và ư chí mà
lớn lên trong đạo làm người, mà có thêm giá
trị, mà sống ra người hơn. (Populorum
Progressio, n. 15) 254.
Lao động là công tŕnh trực tiếp của
những con người được sáng tạo theo h́nh
ảnh của Thiên Chúa, và được mời
gọi cùng nhau tiếp nối công tŕnh sáng tạo khi làm
chủ địa cầu (x. St 1, 28; GS, n. 34; CA, n. 31). Do
đó, lao động là một bổn phận: "Ai
không chịu làm việc th́ cũng đừng ăn”
(2 Th 3, 10; x. 1 Th 4, 11). Khi lao động, con người
biểu dương các ân huệ của Đấng Sáng
Tạo và những tài năng Chúa ban. Lao động c̣n
có giá trị cứu chuộc. Khi kết hợp với
Đức Giêsu, người thợ làng Nadareth và cũng
là Đấng chịu đóng đinh trên Đồi
Sọ, con người qua những vất vả lao động
(x. St 3, 14-19) được cộng tác với Con Thiên
Chúa trong công tŕnh cứu độ. Họ chứng
tỏ ḿnh là môn đệ của Đức Kitô khi vác
thập giá hằng ngày, qua việc chu toàn những
bổn phận trong sinh hoạt. (x. Laborem Exercens, n. 27).
Lao động có thể là một phương thế
thánh hoá và thấm nhuần các thực tại trần
thế bằng thần khí của Đức Kitô. (GLHTCG,
n. 2427) 255.
Đối với các tín hữu, chắc chắn
hoạt động cá nhân cũng như tập thể
của nhân loại, hoặc nỗ lực vĩ đại
của con người vất vả qua các thế
kỷ nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống,
tự nó vốn phù hợp với ư định của
Thiên Chúa. Thật vậy, được tạo
dựng giống h́nh ảnh Thiên Chúa, con người
đă nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất
cùng tất cả những ǵ chứa đựng trong
đó, cai quản vũ trụ trong công b́nh và thánh
thiện và khi nh́n nhận Thiên Chúa là Đấng
tạo dựng mọi loài, họ qui hướng về
Người chính bản thân ḿnh cũng như muôn
vật: như thế, khi con người chinh phục
tất cả, th́ Danh Chúa được tôn vinh
khắp địa cầu. (Gaudium
et Spes, n. 34) 256.
Con người phải chinh phục trái đất,
phải quản trị trái đất, bởi v́
với tư cách "h́nh ảnh của Thiên Chúa"
con người là một nhân vị, nghĩa là một
chủ thể, một chủ thể có khả năng hành
động theo chương tŕnh và theo lư trí, có
khả năng tự quyết định cho ḿnh và có
khuynh hướng tự hoàn thành. Chính trong tư cách nhân
vị mà con người làm chủ lao động. Chính
với tư cách nhân vị mà con người lao động,
con người hoàn thành những hành động khác
nhau thuộc quá tŕnh lao động; và những hành
động đó, không tùy thuộc vào nội dung khách
quan của chúng, tất cả phải giúp thực
hiện nhân tính con người, hoàn thành ơn gọi
riêng ḿnh do chính nhân tính của ḿnh: là một nhân
vị. (Laborem
Exercens, n. 6) 257.
Con người phải lao động bởi v́ Đấng
Sáng Tạo ra lệnh phải như vậy, và cũng
do chính nhân tính con người, mà thực thể và
sự phát triển đ̣i hỏi lao động. Con người
phải lao động v́ tha nhân, cách riêng v́ gia đ́nh
ḿnh, nhưng cũng v́ xă hội mà họ tùy thuộc,
v́ quốc gia mà họ là những đứa con, v́
tất cả gia đ́nh nhân loại mà họ là thành
viên, bởi họ là kẻ thừa hưởng lao
động của những thế hệ đi trước
họ và đồng thời là người đồng
lao động cho ngày mai của những kẻ đến
sau họ trong lịch sử tiếp nối. Tất
cả những cái đó làm thành trách nhiệm luân lư
của lao động hiểu theo nghĩa rộng
nhất. Khi phải xem xét các quyền luân lư của
mỗi người đối với lao động,
những quyền tương ứng với với
nhiệm vụ này, th́ người ta phải luôn
thấy trước mắt toàn bộ phạm vi của
những điểm đối chiếu mà lao động
của mỗi chủ thể lao động có chỗ
đứng trong đó. (Laborem
Exercens, n. 16) II.
Lương Công B́nh và Thù Lao Chính Đáng
258.
Nhưng, trong số bổn phận chính của chủ
nhân, phải coi như bổn phận hàng đầu là
trả cho mỗi người tiền lương tương
xứng. Chắc chắn, muốn ấn định
mức lương chính đáng, phải xem xét nhiều
quan điểm. Nhưng nói chung, người giàu có và
chủ nhân phải nhớ rằng khai thác cảnh nghèo
đói và khốn khổ, và lợi dụng t́nh
trạng bần cùng là những điều luật Chúa
và luật nhân loại đều kết án. Sẽ là
một tội ác kêu oán thấu trời, nếu tước
đoạt giá trị lao động của người
nào. "Các ngươi đă gian lận mà giữ
lại tiền lương của những thợ đi
cắt lúa trong ruộng cho các ngươi. Ḱa tiền lương
ấy đang kêu lên oán trách các ngươi, và
tiếng kêu của những thợ gặt ấy đă
thấu đến tai Chúa các đạo binh" (Gc, 5,
4). Sau
cùng, những người giàu có phải lấy ḷng
đạo xa lánh tất cả những hành vi tàn
bạo, tất cả những lừa đảo,
tất cả những thủ đoạn nặng lăi
tự bản tính xâm phạm phần tiền tích lũy
của người nghèo, phải làm thế v́ người
nghèo ít có sức tự vệ hơn, và v́ của
họ có là thánh thiêng hơn bởi kém cỏi hơn. Sự
vâng phục các luật này, Chúng tôi đ̣i phải như
vậy, tự nó thôi không đủ chấm dứt
tất cả mọi đối kháng và diệt trừ
các nguyên do của nó hay sao ? (Rerum
Novarum, n. 32) 259.
Khi ấn định tiền lương, người ta
cũng phải để ư tới những nhu cầu
của xí nghiệp và của những người đảm
trách xí nghiệp. Điều bất công là đ̣i
họ trả những tiền lương quá đáng
họ không thể gánh chịu mà không mang hại và lôi
kéo các công nhân vào thảm hoạ với họ. Dĩ
nhiên, nếu v́ chểnh mảng, vô lo, hoặc v́ không
lo lắng đủ để phát triển kinh tế và
kỹ thuật nên xí nghiệp ít có lợi nhuận, th́
xí nghiệp đó không được dựa vào hoàn
cảnh này như là một lư do chính đáng để
bớt lương công nhân. Nhưng nếu, đàng khác,
xí nghiệp thiếu hụt những nguồn lợi
để cung cấp cho các công nhân một thù lao
xứng đáng, hoặc là tại chính xí nghiệp
phải gánh nặng những sắc thuế bất công,
hoặc là xí nghiệp phải bán sản phẩm
với giá thấp cách bất công, th́ những kẻ làm
cho xí nghiệp này tới chỗ cùng cực như
thế mang tội bất công đáng phẫn nộ,
bởi v́ tại lỗi họ mà công nhân không
được tiền thù lao đáng lư họ phải
được, đang khi, dưới ảnh hưởng
của sự cần thiết, họ lănh lương dưới
mức họ có quyền đ̣i. (Quadragesimo
Anno, n. 72) 260.
Trong ngành nông nghiệp xem ra cần phải thiết
lập hai hệ thống bảo hiểm: một cho
những sản phẩm nông nghiệp, một nhằm
lợi ích các nhà nông và gia d́nh của họ. Do sự
kiện các thu hoạch ruộng đất theo đầu
người thường th́ thấp hơn thu hoạch
theo đầu người trong các khu vực kỹ
nghệ và dịch vụ, hoàn toàn xem ra không phù hợp
chút nào với phép công b́nh xă hội hay với
quyền b́nh đẳng, nếu thiết lập
những cơ chế bảo hiểm xă hội hay an ninh
xă hội, mà các nhà nông và gia đ́nh của họ
bị đối xử rơ ràng kém hơn cái điều
được bảo đảm cho khu vực kỹ
nghệ hay dịch vụ. Do đó chúng tôi cho chính sách
xă hội phải nhằm mục đích cung cấp cho
các công dân một cơ chế bảo hiểm không
biểu thị những khác biệt quá xa theo khu vực
kinh tế nơi họ làm việc, nơi họ
kiếm thu hoạch. (Mater
et Magistra, n. 135) 261.
Bên tiền lương, ở đây c̣n có thêm
nhiều cung cấp xă hội nhằm mục đích
bảo đảm sự sống và sức khoẻ các
người lao công và gia đ́nh của họ.
Những phí tổn liên hệ với những chăm sóc
cần thiết cho sức khỏe, nhất là khi gặp
tai nạn lao động, đ̣i buộc người lao
công phải dễ dàng được cứu tế và
điều này theo giá nhẹ hay có khi nhưng không,
trong mức độ có thể. Một khu vực khác
liên hệ với những trợ cấp là khu vực
của quyền nghỉ dưỡng: ở đây có ư
nói trước hết về sự nghỉ điều
hoà hằng tuần, gồm có ít nhất là ngày Chúa
nhật, và c̣n hơn nữa một sự nghỉ dưỡng
lâu dài hơn, mà người ta gọi là nghỉ thường
niên, hay tuỳ cơ sự nghỉ nhiều lần trong
năm, chia thành nhiều giai đoạn vắn hơn.
Sau hết, có vấn đề hưu trí, bảo
hiểm tuổi già và bảo hiểm những tai
nạn lao động. Trong khuôn khổ những
quyền chính này, có cả một hệ thống
những quyền phụ: với sự thù lao lao động,
những quyền này là dấu chỉ của một
định nghĩa đúng về các tương quan
giữa người lao công và người chủ. Trong
những quyền này, không bao giờ nên quên quyền
đối với những nơi và những cách
thế lao động không gây hại cho sức khoẻ
và không xúc phạm tới sự nguyên vẹn luân lư
của họ. (Laborem
Exercens, n. 19) 262.
Trước hết, người ta phải trả cho người
thợ một số lương đủ để
họ lo cho mạng sống ḿnh và cho mạng sống nhưng
kẻ thuộc về ḿnh. Dĩ nhiên, những thành
phần khác của gia đ́nh, mỗi người tùy
theo năng lực ḿnh, phải góp phần bảo dưỡng
gia đ́nh, với tư cách người gia đ́nh, không
những trong những gia đ́ng nhà nông, mà c̣n tại
nhà một số lớn thợ thầy hay các tiểu
thương gia. Nhưng không bao giờ được
lợi dụng tuổi con nít hay là sự yếu kém
đàn bà. Lao động của các bà me gia đ́nh chính
là tại nhà trước hết, hay là trong những nhà
phụ của gia đ́nh, và giữa những công
việc gia đ́nh. Do một lạm dụng nguy hại
bằng giá mấy phải bài trừ, mà các bà mẹ
gia đ́nh, v́ đồng lương kém cỏi của
người cha, buộc ḷng phải kiếm việc làm
có thù lao bên ngoài gia đ́nh, bỏ bê những bổn
phận rất riêng biệt thuộc phận sự
của người mẹ hơn hết: việc giáo
dục con cái. Như
vậy người ta sẽ không loại trừ một
cố gắng nào để bảo đảm cho
những người cha gia đ́nh có được
một trợ cấp khá dồi dào để
đương đầu với những trách nhiệm
b́nh thường của gia đ́nh. Nếu hiện
trạng sự sống kỹ nghệ không luôn cho phép
thoả măn yêu sách này, th́ phép công b́nh xă hội
buộc người ta phải mau thực hiện
những cải cách bảo đảm cho người
thợ trưởng thành một số lương tương
ứng với những hoàn cảnh này. Về phương
diện này, nên tôn trọng xứng đáng sáng
kiến của những ai mà, trong một ư định
rất khôn ngoan và rât hữu ích, đă nghĩ ra
những công thức cho những số phận khác nhau,
hoặc để giữ cân xứng tiền thù lao
với các trách nhiệm gia đ́nh, thế nào mà
sự gia tăng những trách vụ đó đi kèm
theo một sự nâng lên song song của tiền lương,
hoặc để cấp cho những cần thiết
ngoại lệ, nếu xảy ra. (Quadragesimo
Anno, n. 71) 263.
Người lao động có quyền hưởng đồng
lương công bằng. Không trả hoặc giữ
tiền lương lại, là một tội bất công
nghiêm trọng. Để định giá tiền lương
cho công bằng, phải lưu ư đến các nhu
cầu và đóng góp của mỗi người. Tùy
theo nhiệm vụ và năng suất của mỗi người,
t́nh trạng của xí nghiệp và công ích, việc làm
phải được trả lương sao cho con người
có đủ khả năng xây dựng cho ḿnh một
đời sống xứng hợp về phương
diện vật chất, xă hội, văn hoá và tinh
thần. Về phương diện luân lư, sự
thoả thuận giữa chủ và thợ không đủ
để định mức lương. (GLHTCG,
n. 2434) 264.
Sau cùng, tùy theo phận vụ và năng suất của
mỗi người, cũng như t́nh trạng của xí
nghiệp và công ích, việc làm cần phải
được trả lương sao cho con người
có đủ khả năng xây dựng cho ḿnh và gia
đ́nh một đời sống xứng hợp cả
về phương diện vật chất, xă hội, văn
hoá cũng như tinh thần. (Gaudium
et Spes, n. 67) 265.
Bây giờ chúng ta sang qua một điểm khác của
vấn đề, rất quan trọng, muốn tránh
sự thổi phồng quá đáng, cần phải định
nghĩa về điểm này cho đúng. Chúng tôi
muốn nói tới việc ấn định tiền lương. Người
ta cho rằng tiền lương một khi đă tự
ư thoả thuận bên này và bên kia rồi, khi trả lương
người chủ đă hoàn thành tất cả
những cam kết của ḿnh rồi và không c̣n
buộc phải làm ǵ khác. Chỉ lỗi công bằng
nếu người chủ từ chối trả hết,
hay là nếu người thợ từ chối hoàn thành
tất cả công việc và những cam kết của
ḿnh. Trong những trường hợp này, ngoại
trừ tất cả quyền khác, công quyền phải
can thiệp để bênh vực quyền của
mỗi bên. (Rerum
Novarum, n. 43) 266.
Như vậy người chủ và người thợ
muốn làm bao nhiêu giao ước và những giao ước
nào họ thích, nhất thiết họ phải thoả
thuận về con số tiền lương. Trên ư
muốn tự do của họ, có một luật công b́nh
thiên nhiên cao trọng hơn và lâu đời hơn,
đó là tiền lương phải đủ để
cho người thợ tiết độ và lương
thiện sống được. Nếu, bị sức
ép của sự cần thiết hay là bị thúc đẩy
bởi sợ một sự dữ lớn hơn, mà người
thợ nhận những điều kiện khắt khe,
không thể từ chối bởi v́ người
chủ hay người giới thiệu việc làm áp
đặt, th́ người thợ đó chịu đựng
một bạo lực trái với lẽ công b́nh. (Rerum
Novarum, n. 45) 267.
Hơn nữa, xă hội và quốc gia phải bảo
đảm mức lương bổng tương
xứng với việc sinh sống của công nhân và
gia đ́nh họ, kể cả có một số tiền
nào đó để tiết kiệm. Điều này
đ̣i hỏi cố gắng liên tục trong sự
cải thiện việc huấn luyện và cải
tiến khả năng của công nhân hầu công
việc làm của họ trở nên khéo léo và có
hiệu năng nhiều hơn, cũng như cần có
sự kiểm soát cẩn thận và những luật
lệ nhằm ngăn chận những h́nh thức khai
thác bỉ ổi, đặc biệt bất lợi cho
những công nhân yếu kém nhất, của những di
dân và những người sống bên lề xă hội.
Vai tṛ của các nghiệp đoàn lao động trong
việc thương thảo những mức lương
tối thiểu và những điều kiện làm
việc, có tính cách quyết định trong lănh
vực này. (Centesimus Annus, n. 15) III. Nơi Lao động
268. Việc làm chắc chắn có hai mặt, v́ nó
hứa hẹn tiền tài, lạc thú, thế lực, lôi
kéo lớp người này vào ích kỷ, lớp người
kia vào nổi loạn, Tuy nhiên nó cũng làm phát huy lương
tâm nghề nghiệp, ư thức bổn phận và t́nh
thương đối với người bên cạnh.
Tuy có tính khoa học và có tổ chức hơn,
việc làm có nguy cơ làm cho người thực
hiện nó mất tính nhân đạo, trở thành nô
lệ cho nó, bởi v́ việc làm chỉ có tính nhân
bản nếu nó được thực hiện cách thông
minh và tự do. Đức Gioan XXIII đă nhắc
lại sự khẩn cấp trả lại cho người
lao động phẩm giá của họ, bằng cách làm
cho họ thực sự tham gia vào việc chung: "cần
phải làm cho trở thành một cộng đồng nhân
vị, trong các tương quan, các trách vụ và các hoàn
cảnh của tất cả nhân viên của ḿnh"
(MM, n. 91). Hơn nữa, đối với người
Kitô hữu, việc làm của con người c̣n có
sứ mệnh cộng tác vào việc sáng tạo
thế giới siêu nhiên, một thế giới chưa
hoàn thành cho tới lúc chúng ta cùng nhau tạo thành
được Con Người như thánh Phaolô nói,
“con người đó hiện thực sự viên măn
của Chúa Kitô" (Ep 4, 13). (Populorum Progressio, n. 28) 269. Điều này đ̣i buộc các tương quan
giữa một bên là nhà thầu và người cai, c̣n
bên kia là những người góp sức lao động,
phải thấm nhiễm sự tôn kính, mến
chuộng, thông cảm, hợp tác sinh động và
trung thực, chuyên tâm tới việc chung; ước
chi việc làm được quan niệm và được
sống bởi các thành viên xí nghiệp, không những
như nguồn gốc thu hoạch, nhưng c̣n như
để hoàn thành một bổn phận và cung cấp
một dịch vụ. Điều đó c̣n bao hàm
sự kiện là những người thợ có thể
bắt người ta nghe tiếng nói của ḿnh, góp
phần ḿnh vào việc điều hành có hiệu
quả xí nghiệp và làm cho xí nghiệp phát triển.
Đấng Tiền Nhiệm chúng tôi là Đức Piô
XII nhận xét: "Nhiệm vụ kinh tế và xă
hội mà tất cả mọi người phải hoàn
thành, đ̣i buộc sinh hoạt của mỗi người
không hoàn toàn bị khuất phục quyền bính
kẻ khác" (Allocution, 1956). Một quan niệm nhân
bản về xí nghiệp chắc chắn phải
bảo tồn - quyền bính và sự hiệu năng
cần thiết của sự thống nhất chỉ
huy; nhưng nó không nên qui những kẻ cộng tác
của ḿnh vào hàng những người thừa hành câm
lặng, không cách nào phát huy kinh nghiệm ḿnh, hoàn toàn
thụ động trước những quyết định
diều khiển sinh hoạt của ḿnh. (Mater et Magistra, n. 92) 270. Sau hết, cần bảo đảm giờ làm
việc “nhân đạo" và thời gian nghỉ ngơi
tương xứng cũng như quyền biểu
lộ cá tính của ḿnh tại sở làm việc mà không
gặp sự xúc phạm tới lương tâm và nhân
phẩm của ḿnh. Đây là chỗ cần nhấn
mạnh một lần nữa về vai tṛ của các
nghiệp đoàn lao động, không phải chỉ có
nhiệm vụ thương thảo những khế
ước lao động, nhưng c̣n là những
“chỗ” mà công nhân có thể biểu lộ con người
của ḿnh. Những nghiệp đoàn này giúp phát
triển một nền văn hoá đích thực về
lao động và giúp công nhân có thể chia sẻ
một cách đầy đủ nhân tính trong cuộc
sống ở các nơi làm việc. (Centesimus Annus, n. 15) 271. C̣n về những người giàu có
và các người chủ, họ không nên đối
xử với người làm việc như một tên
nô lệ; điều chính đáng là họ biết tôn
trọng nơi người lao động phẩm giá
con người, c̣n được nâng lên do phẩm giá
người Kitô hữu. Việc làm thể xác, theo
chứng từ chung của lư trí và khoa triết học
Kitô giáo, thay v́ là một dấu chỉ đáng xấu
hổ, lại làm vinh hạnh cho con người, bởi
v́ việc làm đó là một phương tiện cao
thượng để bồi dưỡng sự
sống con người. Điều đáng xấu
hổ và vô nhân đạo là lợi dụng con người
như một dụng cụ đê hèn để thủ
lợi, là chỉ trả công tùy theo sức lực cánh
tay. Hơn nữa, Kitô giáo dạy phải quan tâm
tới những lợi ích thiêng liêng của người
thợ và lợi ích phần hồn người thợ.
Các chủ nhân có trách nhiệm lo cho người
thợ có đủ thời gian lo việc đạo ;
đừng để người thợ bị
quyến rũ theo những lôi cuốn bại hoại ;
đừng có ǵ làm yếu đi nơi họ tinh
thần gia đ́nh, hay những tập quán tiết
kiệm. C̣n phải ngăn cấm các chủ nhân không
được bắt những kẻ thủ hạ ḿnh
làm một công việc quá sức hay không xứng
hạp với tuổi tác hay phái tính của họ. (Rerum Novarum, n. 20) 272. Bởi thế cho nên Hội Thánh có thể và
phải trợ giúp cho xă hội hiện nay bằng cách
luôn luôn bền chí kêu gọi mọi người nh́n
nhận và tôn kính giá trị không thể thay thế
được của việc làm của người
nữ trong gia đ́nh. Điều đó đặc
biệt quan trọng đối với những ǵ có liên
quan đến công việc giáo dục; thực vậy
người ta sẽ loại bỏ được ngay
đến tận gốc rễ sự phân biệt
giả tạo giữa những việc lao động khác
nhau và những nghề nghiệp khác nhau, nếu người
ta thấy rơ được rằng tất cả
mọi người trong mọi lănh vực, đều
dấn thân với những quyền lợi giống y
nhau và một ư thức trách nhiệm như nhau. Và h́nh
ảnh của Thiên Chúa trong người nam và người
nữ nhờ đó mà được chiếu sáng hơn.
Cả khi phải nh́n nhận cho người nữ
được quyền tham gia vào các chức năng công
cộng như đă nh́n nhận cho người nam, xă
hội cũng phải được tổ chức làm
sao để những người vợ và người
mẹ không bị bó buộc cách cụ thể phải
đi làm việc ngoài gia đ́nh và phải làm sao ngay
khi họ hoàn toàn hiến ḿnh cho gia đ́nh, gia đ́nh
họ vẫn có thể sống và phát triển một
cách tương xứng. Ngoài ra c̣n phải vượt
qua năo trạng cho rằng danh dự của phụ
nữ là do việc làm ngoài xă hội hơn là do
hoạt động ở gia đ́nh. Nhưng để
đạt được điều ấy, nam giới
cần phải quí chuộng và thật sự yêu thương
người nữ với tất cả sự kính
trọng phẩm giá cá nhân của họ, và xă hội
cần phải tạo ra và phát triển những điều
kiện thích hợp cho công việc tại gia đ́nh. (Familiaris Consortio, n. 23) 273. Cũng vậy, mặc dầu đôi lúc người
ta đề cao quá đáng giá trị của việc làm,
nhưng không phải v́ thế mà không nh́n nhận
rằng chính Thiên Chúa đă truyền phải làm
việc và đă chúc lành cho công việc làm. Được
tạo dựng giống h́nh ảnh Chúa, “con người
phải cộng tác với Đấng Tạo Hoá để
hoàn thành công cuộc tạo dựng, cũng để
ghi dấu thiêng liêng của ḿnh trên trái đất"
(Paul VI, Lettre à la Cinquante-et-unième Session des Semaines Sociales
Francaises). Thiên Chúa đă ban cho con người trí thông
minh, óc tưởng tượng, và các giác quan, tức
là đă cho con người phương tiện để
như hoàn tất công cuộc của Ngài, bởi v́
mỗi một người khi làm việc, dù là người
nghệ sĩ hay thủ công, chủ nhân, công nhân hay nông
dân, đều làm công việc tạo dựng. Khi nghiêng
ḿnh làm việc trên một chất liệu rắn
rỏi, người lao động in vào đó dấu
vết riêng của ḿnh, đồng thời cho ḿnh thêm
tính kiên nhẫn, tài khéo léo và óc sáng tạo. Hơn
nữa, khi làm việc chung, cùng nhau chia sẻ niềm hy
vọng, đau khổ, hoài băo và niềm vui, th́
trở nên việc làm liên kết các ư chí, xích gần
các tâm trí, hàn gắn các tâm hồn; nhờ làm
việc mà con người khám phá ra ḿnh là anh em với
nhau. (Populorum Progressio, n. 27) IV. Thất Nghiệp
274. Khi xem xét những quyền người
lao động trong tương quan với “chủ nhân
gián tiếp này", nghĩa là trong tương quan
với toàn thể những hoàn cảnh mà, ở
cấp quốc gia hay quốc tế, có trách nhiệm
về đường hướng chính sách lao động,
người ta phải chú ư hơn hết đến
một vấn đề cơ bản. Đó là vấn
đề có được một việc làm, hay, nói
cách khác, vấn đề t́m được một
việc làm xứng hợp với tất cả
những ai có khả năng. Điều ngược
lại với một hoàn cảnh công b́nh và thích đáng
trong lănh vực này là nạn thất nghiệp, nghĩa
là thiếu việc làm cho những kẻ có khả năng
lao động. Có thể là thiếu việc làm nói
chung hay trong những lănh vực nhất định. Vai
tṛ của những hoàn cảnh mà người ta nói
ở đây dưới cái tên là chủ nhân gián
tiếp, là phải chống lại nạn thất
nghiệp, luôn luôn là một sự dữ và, khi nạn
thất nghiệp tới một số chiều kích nào
đó, có thể biến thành một tai hoạ xă
hội thật sự. Nó trở nên một vấn đề
cực kỳ đau đớn khi nạn nhân của nó
chính là những người trẻ, v́ sau khi được
đào tạo xứng hợp về văn hoá, kỹ
thuật và nghề nghiệp, giới trẻ không t́m ra
việc làm và, rất buồn ḷng, thấy người
ta tước đoạt ư muốn chân thành làm
việc của ḿnh và sự ḿnh sẵn sàng nhận lănh
trách nhiệm riêng của ḿnh trong việc phát triển
kinh tế và xă hội của cộng đồng.
Sự bắt buộc trợ cấp giúp cho những người
thất nghiệp, nghĩa là bổn phận bảo
đảm những trợ cấp cần thiết cho
sự nuôi sống những người thất
nghiệp và gia đ́nh của họ, là một bổn
phận phát xuất từ nguyên lư cơ bản
thuộc trật tự luân lư trong lănh vực này,
tức là từ nguyên lư được sử dụng
chung những của cải hay là, để nói cách
đơn giản hơn, quyền sống và được
nuôi sống. (Laborem Exercens, n. 18) 275. Mọi người phải được
quyền làm việc và chọn nghề, không bị
kỳ thị bất công, nam hay nữ, người
khỏe mạnh hay tàn tật, người địa phương
hay người nơi khác. (x. Laborem Exercens, nn. 19, 22-23). Tùy
hoàn cảnh xă hội phải giúp đỡ để
các công dân có công ăn việc làm. (GLHTCG, n. 2433) 276. Khởi đầu cuộc bàn
luận của chúng ta về các quyền con người,
chúng ta nhận xét rằng con người có quyền
sống, hưởng sự nguyên vẹn thân xác, và có
được những phương tiện thích
hợp để sống một đời sống
xứng đáng: những phương tiện đó
nhất thiết là lương thực, áo quần, nhà
ở, nghỉ ngơi, chăm sóc thuốc men, và sau cùng
những dịch vụ cần thiết mà xă hội
phải cung cấp cho mỗi người. Do đó, con
người cũng hưởng được quyền
được người ta săn sóc đến ḿnh
nếu con người bị tác hại đến
sức khoẻ, nếu bị yếu sức v́ lao động
và cực nhọc, nếu bị cô đơn trong
cảnh goá bụa, nếu bị tiêu hao v́ tuổi già,
nếu bị cưỡng bách thất nghiệp, và sau cùng
nếu thiếu những phương tiện nuôi
sống mà không do lỗi ǵ về phía con người
đó. (Pacem
in Terris, n. 11) V.
Những Nghiệp Đoàn
277.
Do sự kiện con người tự nhiên có tính xă
hội, nẩy sinh quyền tập họp nhau trong cùng
một nơi và liên kết với những nơi khác;
quyền gán cho các hiệp hội h́nh thức mà họ
cho là thích hợp nhất để đạt mục
đích lựa chọn ; và trong ḷng những hiệp
hội này, quyền hành động theo sáng kiến riêng
ḿnh và nhận rủi ro xảy ra cho ḿnh, và quyền
đưa các hiệp hội đó đến những
kết quả tốt. (Pacem
in Terris, n. 23) 278.
Những chỉ thị rất uy quyền của Đức
Lêo XIII có công lớn là đă phá những sự
chống đối này và lột vũ khí những
đa nghi này. Chúng c̣n có một danh nghĩa đẹp
hơn nữa để được ca ngợi, đó
là đă khích lệ những công nhân Kitô hữu
thực hiện những tổ chức nghề
nghiệp, đă chỉ đường cho họ đi,
và đă giữ lại trên con đường bổn
phận nhiều người thợ bị cám dỗ
dữ dội ghi tên vào những tổ chức chủ
nghĩa xă hội tự khoe khoang cách trơ trẽn là
sự bảo vệ và sự trợ giúp duy nhất
đối với những kẻ nghèo và bị áp
bức. Về vấn đề liên hệ với
việc thành lập những hiệp hội, Thông điệp
Rerum Novarum nhận xét rất hợp thời rằng
“người ta phải tổ chức và quản
trị những nhóm nghề nghiệp sao cho chúng cung
cấp cho mỗi thành viên của chúng, những phương
tiện thích hợp để thành viên đó có
thể đạt tới, qua con đường
thuận tiện nhất và ngắn nhất, mục
đích đă đề ra là hệ tại việc gia tăng
nhiều hết sức có thể, đối với
mỗi người, những của cải phần xác,
tinh thần và gia đ́nh" (RN, n. 41) ; nhưng điều
rơ ràng là phải nhằm sự hoàn thiện luân lư và
tôn giáo như mục tiêu chính; mục tiêu này trước
tiên phải điều tiết tất cả nền
kinh tế của những hiệp hội này (RN, n. 41).
Thật vậy, khi đă lấy tôn giáo làm nền
tảng cho tất cả luật lệ xă hội, không
khó ǵ việc ấn định những tương
quan với nhau cần thiết lập giữa các thành
viên để có được hoà b́nh và sự
phồn thịnh cho xă hội" (RN. N. 42). (Quadragesimo
Anno, nn. 31-32) 279.
Điều thường xảy ra là một việc làm
kéo dài quá lâu và quá mệt nhọc, và mức tiền
lương được xét là quá thấp, đưa
tới những cuộc nghỉ việc hữu ư và có
xếp đặt mà người ta gọi là đ́nh công.
Chính quyền có nhiệm vụ chữa trị cho cơn
bịnh rất thông thường và đồng thời
rất nguy hiểm này. Thật vậy những cuộc
nghỉ việc này, không những gây thiệt hại
cho chủ nhân và chính những thợ thuyền mà c̣n
cản trở thương mại và làm nguy hại
đến những lợi ích chung xă hội. V́
những cuộc nghỉ việc đó dễ biến thành
bạo loạn và hỗn độn, nên an ninh xă
hội thường bị ảnh hưởng. Nhưng
ở đây điều hiệu nghiệm hơn và
hữu ích hơn là uy quyền luật pháp đề pḥng
sự dữ và không để nó xảy ra, bằng cách
khôn khéo loại trừ những nguyên nhân xem ra tự
bản tính gây nên những xung đột giữa
thợ thuyền và chủ nhân. (Rerum
Novarum, n. 39) 280.
Trong công cuộc phát triển, con người tuy nhờ
có gia đ́nh làm nơi sinh sống, vẫn thường
có các tổ chức nghề nghiệp giúp đỡ.
Nếu lư do tồn tại của những tổ
chức đó là thăng tiến những lợi ích
của các hội viên ḿnh, chúng có trách nhiệm
lớn về việc giáo dục mà chúng có thể và
phải đồng thời thực hiện. Nhờ
sự thông tin chúng cung cấp, nhờ sự đào
tạo chúng đề xướng, những tổ
chức đó có thể làm rất nhiều để
giúp các hội viên ư thức được công ích và
những trách nhiệm của mỗi người đối
với quyền lợi đó. (Populorum
Progressio, n. 38) 281.
Trên nền tảng của tất cả những
quyền này và trong tương quan với sự cần
thiết mà chính các người lao động phải
bênh vực các quyền này, xuất hiện một
quyền khác: quyền lập hội, nghĩa là
quyền kết hợp với nhau, liên kết với
nhau, để bảo vệ những quyền lợi
trọng yếu của những người làm việc
trong những nghề khác nhau. Những sự hợp
nhất như vậy gọi là nghiệp đoàn.
Những quyền lợi trọng yếu của người
lao động đều chung cho mọi người,
tới mức nào đó ; nhưng đồng thời,
mỗi thứ lao động, mỗi nghề nghiệp
đều có đặc tính riêng của nó, phải
được phản chiếu cách riêng trong những
tổ chức này. (Laborem
Exercens, n. 20) 282.
Giữa những quyền lợi căn bản của
con người, đối với công nhân, cần
phải kể đến quyền được tự
do lập những hiệp hội để có thể
thực sự đại diện cho họ và góp
phần vào việc tổ chức đời sống
kinh tế một cách tốt đẹp. Ngoài ra, cũng
cần phải kể đến quyền tự do tham
gia vào hoạt động của những hiệp
hội này, mà không sợ bị trả thù. Nhờ
lối tham gia có tổ chức như trên, liên kết
với việc huấn luyện dần dần về
kinh tế và xă hội, mọi người càng ngày càng
ư thức hơn về bổn phận và trách nhiệm
của ḿnh. nhờ đó, tùy theo phương tiện và
khả năng riêng, chính công nhân tiến tới
mức cảm thấy ḿnh được góp phần vào
việc phát triển toàn bộ kinh tế và xă hội
cũng như vào việc mưu cầu ích chung. (Gaudium
et Spes, n. 68) 283.
Nhà Nước ban cho nghiệp đoàn một sự công
nhận pháp lư, sự công nhận này không phải là
không cho nghiệp đoàn này có một đặc tính
độc quyền, có nghĩa là chỉ nghiệp doàn
nào được thừa nhận là có thể đại
diện công nhân và chủ nhân, chỉ nghiệp đoàn
đó mới có quyền kư kết những hợp
đồng và những thoả thuận tập thể
của lao động. Sự gia nhập vào nghiệp
đoàn là tự do, và chỉ trong ư nghĩa này mà người
ta có thể đánh giá tổ chức nghiệp đoàn
này là tự do, v́ lẽ sự đóng góp cho nghiệp
đoàn và những sự góp phần riêng biệt khác
có tính bắt buộc đối với tất cả
những ai thuộc vào một loại ấn định,
công nhân cũng như chủ nhân, cũng như
những thoả thuận tập thể lao động
do nghiệp đoàn hợp pháp kư kết, cũng có tính
bắt buộc. Thật sự đă có tuyên bố chính
thức là nghiệp đoàn hợp pháp không loại
trừ sự hiện hữu những hiệp hội
nghề nghiệp thực tế. (Quadragesimo
Anno, n. 92) VII.
Đ́nh
Công
284.
Về mặt luân lư, đ́nh công là việc chính đáng,
khi đó là một phương thế không tránh
được hoặc cần thiết để đạt
được lợi ích tương xứng. Đ́nh công
không thể chấp nhận được về
mặt luân lư, khi kèm theo bạo động hoặc khi
chỉ được dùng nhằm những mục tiêu
không trực tiếp liên hệ đến các điều
kiện làm việc hay trái nghịch với công ích. (GLHTCG,
n. 2435) 285.
Khi hành động để bênh vực những
quyền chính đáng của các hội viên ḿnh,
những nghiệp đoàn cũng sử dụng phương
pháp “đ́nh công", nghĩa là cho ngưng việc làm,
như là tối hậu thư gởi cho những cơ
quan thẩm quyền và, hơn hết, gởi cho các
chủ nhân. Đó là một phương pháp học
thuyết xă hội Công Giáo công nhận là hợp pháp
dưới một số điều kiện và trong
những giới hạn chính đáng. Các công nhân
phải thấy ḿnh được bảo đảm có
quyền đ́nh công và không bị những h́nh
phạt cá nhân v́ tham gia đ́nh công. Mặc dầu công
nhận đ́nh công là một phương tiện đúng
và hợp pháp, người ta cũng phải nhấn
mạnh rằng nó là một phương tiện
cuối cùng, nói theo nghĩa nào đó. Người ta không
nên lạm dụng nó; người ta không thể
lạm dụng nó với ư chơi tṛ chính trị. Hơn
nữa, người ta không bao giờ có thể quên
rằng, nếu đây là những dịch vụ
thiết yếu cho sự sống xă hội, những
dịch vụ này phải luôn được bảo
đảm, kể luôn nếu cần, bằng những
biện pháp pháp lư xứng hợp. Lạm dụng
việc đ́nh công có thể làm tê liệt tất
cả đời sống kinh tế xă hội. Mà điều
đó nghịch lại những yêu cầu của công
ích xă hội, cũng tương ứng với bản
tính được hiểu rơ của chính lao động. (Laborem
Exercens, n. 20) 286.
Trong trường hợp xảy ra những tranh chấp
về kinh tế xă hội, cần phải cố
gắng đi đến một giải pháp ôn hoà. Nhưng
điều phải làm trước tiên là luôn luôn t́m
cách tạo một cuộc đối thoại chân thành
giữa các phe nhóm liên hệ. Tuy nhiên trong hoàn cảnh
hiện tại, đ́nh công, dầu là một phương
tiện cuối cùng, song vẫn là phương tiện
cần thiết để bênh vực những quyền
lợi riêng và thoả măn những đ̣i hỏi chính
đáng của công nhân. Dù sao cũng cần phải t́m
cách đưa tới thương thuyết và đối
thoại hoà giải càng sớm càng hay. (Gaudium
et Spes, n. 68)
CHƯƠNG
VIII SỰ
NGHÈO ĐÓI VÀ ĐỨC BÁC ÁI I.
Gương Mù Của
Sự Nghèo
Đói II.
Công Bằng Xă Hội III.
Đức Bác Ái và
Sự Chọn Lựa Ưu Tiên Dành
Cho Người Nghèo IV.
Nhà Nước Chăm
Sóc Bảo Vệ
287.
V́ thế tôi muốn lưu ư tới một số
chỉ dẫn có tính cách tổng quát, không loại
trừ những yếu tố đặc thù khác. Không
đi vào việc phân tích các con số và các thống kê,
chỉ cần nh́n vào cái cảnh vô số đàn ông,
đàn bà, trẻ con, người lớn, ông già bà lăo,
tắt một lời, những con người cụ
thể và độc nhất đang quằn quại dưới
gánh nặng không chịu đựng nổi của
khốn cùng. Họ là hàng triệu con người
sống không hy vọng v́ ở nhiều nơi trên trái
đất, t́nh trạng của họ đă ra xấu hơn
trông thấy. Đối diện với thảm cảnh
cùng cực và thiếu thốn của bao nhiêu anh
chị em chúng ta, chính Chúa Giêsu tới chất vấn
chúng ta (x. Mt 25, 31-46) (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 13) 288.
Khi người ta nh́n các lănh vực khác nhau - sản
xuất và phân phối lương thực, vệ sinh
sức khoẻ và nhà ở, nước dùng, các điều
kiện làm việc, cách riêng đối với phụ
nữ, tuổi thọ trung b́nh, và những chỉ
dẫn xă hội và kinh tế khác - bức tranh toàn
thể hiện ra làm người ta phải thất
vọng, hoặc khi người ta xem xét chính nó,
hoặc khi người ta so sánh nó với các dữ
kiện tương đương của các nước
mở mang hơn. Lúc đó từ "hố sâu"
tự nhiên đến trên môi. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 14) 289.
C̣n về phần những ai xấu số, Giáo Hội
cho biết rằng, theo phán đoán của chính Thiên Chúa,
sự nghèo khó không phải là một sự nhục nhă
và không nên hổ ngươi v́ phải đổ
mồi hôi trán mới có bánh ăn. Đó là điều
mà Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đă khẳng định
qua gương của Người, Người vốn
“giàu sang phú quí, nhưng đă trở nên nghèo” (2 Cr
8, 9) v́ phần rỗi loài người ; Người là
con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, đă muốn thành người
con bác thợ trước mắt thế giới; Người
đă đi tới chỗ tiêu hao một phần
lớn đời sống của Người trong
việc làm mướn. “Ông ta không phải là bác
thợ, con bà Maria sao ?" (Mc 6, 3) Bất
cứ ai để mắt nh́n xem kiểu mẫu
Thần Linh, sẽ hiểu dễ dàng hơn điều
Chúng tôi sắp nói: Phẩm giá thật sự của
con người và sự ưu tú của họ ở
tại các phong tục của họ, nghĩa là trong nhân
đức của họ; nhân đức là gia sản
chung của con người hay chết, ngang tầm
mức của mọi người, nhỏ và lớn. giàu
và nghèo; chỉ có nhân đức và các công nghiệp,
khắp nơi nào người ta gặp chúng, sẽ
được phần thưởng của mối phúc
đời đời. Hơn nữa con tim Chúa xem ra nghiêng
hơn về phía những giai cấp bất hạnh. Chúa
Giêsu Kitô gọi những nghèo là kẻ có phúc (x. Mt 5,
5), Người mời gọi cách yêu đương
tất cả những ai đau khổ và khóc lóc
phải tới với Người, để Người
an ủi họ, (x. Mt 11, 28) Người càng tỏ ḷng bác
ái dịu hiền hơn mà ôm ấp những trẻ
nhỏ và những kẻ bị áp bức. Những
học thuyết này chắc chắn có ư hạ thấp
tâm hồn cao ngạo kẻ giàu và làm nó ít kiêu hănh hơn,
nhưng lại đỡ dậy ḷng can đảm
của những kẻ đau khổ và gợi lên trong
họ ḷng nhẫn nhục. Với ḷng nhẫn nhục,
sẽ giảm bớt khoảng cách mà tính kiêu ngạo
muốn duy tŕ; nhờ vậy mà người ta không khó
làm cho hai bên nắm tay nhau và muốn kết hợp nhau
trong cùng một t́nh bạn. (Rerum
Novarum, nn. 23-24) 290.
Nên thêm ở đây rằng trong thế giới ngày
nay, có nhiều h́nh thức khác về nghèo khổ.
Một số trường hợp thiếu thốn hay
bị tước đoạt không đáng gọi là nghèo
khổ sao ? Việc phủ nhận hay giới hạn các
quyền của con người -chẳng hạn
quyền tự do tôn giáo, quyền tham gia vào việc xây
dựng xă hội, sự tự do lập hội hay
lập công đoàn hay tự do lấy những sáng
kiến về mặt kinh tế- những vi phạm
đó chẳng làm cho con người ra nghèo khổ cũng
bằng, nếu không hơn, việc thiếu của
cải vật chất sao ? Và một sự phát
triển mà không đếm xỉa tới sự nh́n
nhận đầy đủ các quyền ấy, có
phải là một sự phát triển theo chiều kích
con người không ? (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 15) 291.
Nhiều người, và có lẽ là đa số, ngày
nay không có những phương tiện để,
một cách hiệu nghiệm và thích hợp với con
người, đi vào trong một hệ thống xí
nghiệp mà lao động chiếm một chỗ đứng
trung tâm thật sự.… Như vậy nếu họ không
bị lợi dụng, th́ họ cũng đang sống
trong t́nh trạng ngoài lề, có thể nói công cuộc
phát triển kinh tế đă qua mặt họ khi không
giảm bớt được phạm vi đă hạn
hẹp của thứ kinh tế cổ xưa của
họ giúp họ sống c̣n.… Nhiều người khác,
tuy không bị loại ra ngoài lề, cũng sống
trong một hoàn cảnh phải phấn đấu để
có một cuộc sống tối thiểu.… Bất
hạnh thay, đa số dân chúng trong Thế Giới
Thứ Ba vẫn c̣n sống trong những t́nh trạng
như vậy. (Centesimus
Annus, n 33) II.
Công Bằng Xă Hội
292.
Thật vậy, ngoài phép công bằng giao hoán, cũng có
phép công bằng xă hội, đặt ra những
bổn phận mà chủ nhân và công nhân không có
quyền tránh né. Chính nhiệm vụ của phép công
bằng xă hội đặt ra cho các thành phần
cộng đồng phải làm tất cả những ǵ
cần thiết cho công ích. (Divini
Redemptoris, n. 51) 293.
Để thoả măn những đ̣i hỏi của công
bằng và lẽ phải mà vẫn tôn trọng
quyền lợi cá nhân và đặc tính của mỗi
dân tộc, cần phải hăng hái nỗ lực
để sớm chấm dứt những chênh lệch
kinh tế lớn lao kèm theo sự kỳ thị cá nhân
và xă hội; hiện nay những chệnh lệch
ấy vẫn tồn tại và c̣n gia tăng mai ngày. Cũng
vậy trong nhiều vùng, việc sản xuất và bán
nông phẩm đang gặp nhiều trở ngại
trầm trọng, do đó, cần phải nâng đỡ
nông dân tăng gia và tiêu thụ được sản
phẩm, lại phải thực hiện những
cuộc cải tổ và canh tân cần thiết hầu
thâu được lợi tức tương
đương; nếu không, họ sẽ măi là, như
thường xảy ra, những công nhân hạng hai. C̣n
các nông dân, nhất là những người thuộc
giới trẻ, phải cố gắng kiện toàn
khả năng chuyên nghiệp, nếu không nông
nghiệp không thể phát triển. Sự di chuyển là
điều cần thiết đối với nền
kinh tế đang phát triển, tuy nhiên sự công
bằng và quân b́nh đ̣i hỏi phải tổ
chức sự di chuyển ấy thế nào để
đời sống cá nhân cũng như gia đ́nh không
bị xáo trộn và bấp bênh. Những công nhân
từ một quốc gia hay một miền khác đến,
cũng là những người góp công vào việc phát
triển kinh tế của một nước hay một
miền, nên cần phải cố gắng tránh mọi
dị biệt về điều kiện lương
bổng hay việc làm. Hơn nữa, mọi người
nhất là chính quyền, phải coi họ như
những nhân vị, chứ không phải là những công
cụ sản xuất; phải giúp đỡ để
họ có thể đưa gia đ́nh đến và có
thể kiếm được một nơi nương
thân đàng hoàng; cũng phải cho phép họ dễ dàng
gia nhập đời sống xă hội của quốc
gia hay miền đất nào đón tiếp họ. Tuy
nhiên, nếu có thể, nên tạo cho họ có công
ăn việc làm ngay tại nguyên quán của họ.
Trong những t́nh h́nh kinh tế đang biến
chuyển cũng như trong những h́nh thái mới
mẻ của xă hội kỹ nghệ chẳng hạn,
hệ thống tự động đang được
phát triển, phải liệu sao cho mỗi người
có công việc đầy đủ và thích hợp,
đồng thời hấp thụ được
một sự huấn luyện thích ứng về kỹ
thuật và nghề nghiệp. Cũng cần phải
bảo đảm sự sống và nhân phẩm,
nhất là của những người v́ bệnh
tật, tuổi tác, phải sống trong những hoàn
cảnh khó khăn hơn. (Gaudium
et Spes, n.. 66) 294.
Anh em tất cả là những người đă nghe
tiếng kêu than của các dân tộc nghèo khổ, đang
ra sức đáp lại tiếng gọi ấy. Có
thể nói anh em là những tông đồ của công
cuộc phát triển hữu ích và thật sự; nghĩa
là không phải thứ phát triển chỉ nhằm có
của cải một cách ích kỷ và được yêu
mến v́ chính nó, nhưng là một thứ phát
triển dựa trên một nền kinh tế nhằm
phục vụ con người, phân phối đồng
đều cơm bánh hằng ngày cho mọi người,
như nguồn t́nh thương huynh đệ và
dấu chỉ của Chúa Quan Pḥng. (Populorum
Progressio, n. 86) 295.
Phép công bằng là một nhân đức luân lư đồng
thời là một quan niệm pháp lư. Thỉnh thoảng
người ta giới thiệu nó với cặp mắt
bịt lại; trên thực tế, bản tính riêng
của công bằng là chăm chú đến việc
bảo đảm sự cân bằng giữa các
quyền lợi và bổn phận, cũng như
khuyến khích việc chia đều những phí
tổn và những lợi lộc. Công bằng cải
thiện th́ không phá hoại; công bằng hoà giải th́
không thúc đẩy việc báo thù. Gốc rễ thâm sâu
nhất của nó, xét hết các thứ, nằm trong t́nh
yêu, mà diễn tả có ư nghĩa nhất là ḷng thương
xót. Cho nên, công bằng mà không có t́nh yêu thương
xót trở thành lạnh nhạt và đổ bể. (Sứ
Điệp Ngày Thế Giới Hoà B́nh, 1998, n. 1) 296.
Nhưng, như chúng tôi đă nhiều lần khẳng
định, bổn phận quan trọng nhất của
công bằng là cho phép mỗi quốc gia thăng
tiến sự phát triển riêng của ḿnh, trong khuôn
khổ một sự hợp tác không có tinh thần
thống trị về kinh tế cũng như chính
trị. Tính phức tạp của các vấn đề
được nêu lên chắc chắn thật to lớn
v́ sự chằng chịt hiện nay của các quốc
gia tuỳ thuộc; cho nên phải có can đảm
bắt tay duyệt lại những tương quan
giữa các nước, dầu có phải phân phối
về mặt quốc tế việc sản xuất,
cấu trúc của những trao đổi, kiểm soát
những tiền lời, hệ thống tài chánh – không
quên những hành vi liên đới nhân bản – đặt
thành vấn đề những kiểu mẫu tăng
triển của các nước giàu, biến đổi
những năo trạng để chúng công nhận
quyền ưu tiên của bổn phận quốc tế,
đổi mới những cơ quan quốc tế để
đạt hiệu quả lớn hơn. (Octogesima
Adveniens, n. 43) 297.
Ḷng thương xót chính hiệu, nói được là
nguồn mạch thâm sâu nhất của công bằng.
Nếu công bằng tự nó có nhiệm vụ “làm
trọng tài” giữa những con người để
phân chia cho họ theo đúng công bằng những
của cải vật chất, th́ ngược lại, t́nh
yêu và chỉ có t́nh yêu (và cũng là thứ t́nh yêu nhân
từ chúng ta gọi là “ḷng thương xót”), có
khả năng trả lại con người cho chính nó. Sự
thương xót thật sự Kitô giáo, trong một nghĩa
nào đó, cũng là sự hiện thân hoàn hảo
nhất của sự “b́nh đẳng” giữa
những con người, và như vậy cũng là
sự hiện thân hoàn hảo nhất của phép công
bằng, theo mức độ mà trong phạm vi riêng, nó
nhằm cũng một hậu quả. Nhưng sự b́nh
đẳng qua phép công bằng giới hạn trong lănh
vực những của cải khách quan và bên ngoài,
đang khi t́nh yêu và ḷng thương xót cho phép
những con người gặp nhau trong giá trị này là
chính con người, với phẩm giá riêng biệt
của nó. Đồng thời, “sự b́nh đẳng”
phát sinh từ t́nh yêu “nhẫn nại và nhân từ",
không tẩy xoá những khác biet.… (Dives
in misericordia, n. 14) 298.
Những nhà chuyên môn về các khoa học xă hội
lớn tiếng kêu gọi một sự hợp lư hoá
để tái lập trật tự trong cuộc sống
kinh tế. Nhưng trật tự này mà Chúng tôi tha
thiết đ̣i hỏi và Chúng tôi làm những ǵ có
thể làm giúp nó xuất hiện, chắc sẽ không
hoàn hảo bao lâu mà tất cả những h́nh thức
sinh hoạt con người không cùng góp phần cách hài
hoà để bắt chước và thực hiện,
hết sức có thể, sự thống nhất kỳ
diệu của chương tŕnh thần linh. Chúng tôi có
ư nói ở đây về trật tự hoàn hảo này
mà Giáo Hội không ngừng rao giảng, và chính lư trí
ngay thẳng đ̣i hỏi, trật tự này tin Thiên Chúa
là định hạn đầu tiên và cuối cùng
của mọi sinh hoạt được tạo
dựng, và chỉ đánh giá những của cải
đời này như là những phương tiện
thuần tuư phải sử dụng trong mức độ
chúng đưa tới mục tiêu này. Thay v́ coi rẻ
sự thực thi những nghề nghiệp có lợi này
là ít phù hợp với phẩm giá con người, khoa
triết học này ngược lại dạy chúng ta
thấy ở đó ư muốn lành mạnh của Đấng
Sáng Tạo, Người đă đặt con người
trên trái đất để con người canh tác nó
và bắt nó phục vụ tất cả những nhu
cầu của ḿnh. Vậy không cấm những ai
sản xuất, tăng gia của cải ḿnh cách lương
thiện; ngược lại, theo lẽ công bằng là
bất cứ ai phục vụ xă hội và làm giàu xă
hội, th́, tùy theo hoàn cảnh của họ, hưởng
dụng sự gia tăng những của cải chung,
miễn là, trong việc làm giàu, họ tôn trọng
luật Chúa và các quyền của tha nhân, và trong
việc sử dụng những của cải đó,
phải tuân theo những luật đức tin và lư trí.
Nếu mọi người, mọi nơi và luôn luôn, hành
động theo những luật này, th́ không những
việc sản xuất và chiếm hữu những
của cải thế giới này, mà c̣n việc tiêu
thụ các của cải đó, tiêu thụ rất
hỗn loạn ngày nay, sẽ mau chóng được
đưa về trong những giới hạn của
sự b́nh đẳng và sự phân phối công
bằng; đối lại tính ích kỷ buông lỏng,
sự sỉ nhục và là tội to lớn của
thế kỷ chúng ta, tính thực tại của các
sự kiện đưa ra luật điều độ
Kitô giáo này vừa rất êm dịu vừa rất mănh
liệt, luật đó dạy con người phải t́m
kiếm trước hết Nước Thiên Chúa và
sự công chính của Người, trong niềm tin
chắc rằng chính những của cải đời
này sẽ được ban thêm cho ḿnh, v́ có một
lời hứa rơ ràng về ḷng rộng răi của Chúa
(Mt 6, 33). (Quadragesimo
Anno, n. 136) 299.
Con người thời đại chúng ta càng ngày càng
ư thức mănh liệt về những chênh lệch
ấy, v́ họ thâm tín rằng những kỹ
thuật tân tiến và những năng lực kinh
tế của thế giới ngày nay có thể và
phải sửa đổi được những
tệ trạng kia. Muốn vậy, cần phải
cải tổ đời sống kinh tế, xă hội và
mọi người phải đổi mới tâm
thức và thái độ của ḿnh. Nhằm mục
đích ấy, nên qua bao thế hệ, với ánh sáng
Phúc Âm, Giáo Hội đă cố gắng hết sức
ḿnh hướng dẫn những nguyên tắc về công
b́nh và quân b́nh trong đời sống cá nhân, xă
hội và quốc tế cho hợp với những đ̣i
hỏi của lương tri nhân loại, nhất là
trong những ngày gần đây Giáo Hội càng
đưa ra những nguyên tắc ấy hơn. Trong khi
đặc biệt nh́n vào những đ̣i hỏi
của sự phát triển kinh tế, Thánh Công Đồng
muốn củng cố lại những nguyên tắc
đă nêu trên, đồng thời vạch ra một vài
hướng đi phù hợp với hoàn cảnh của
thời đại này. (Gaudium
et Spes, n 63) IV.
Đức Bác Ái và Sự Chọn Lựa Ưu Tiên Dành
Cho Người Nghèo
300.
Đức mến là điều răn mang tính xă
hội cao nhất. Đức mến tôn trọng tha nhân
và các quyền lợi của họ, đ̣i buộc
thực thi công ích mà chỉ có đức mến
mới giúp ta thực hiện được. Đức
mến thúc đẩy chúng ta sống dấn thân: “Ai t́m
cách giữ mạng sống ḿnh th́ sẽ mất, c̣n ai
liều mất mạng sống ḿnh, th́ sẽ bảo
tồn được mạng sống" (Lc 17, 33). (GLHTCG,
n. 1889) 301.
Như vậy không phải là dư thừa việc xét
lại và đào sâu dưới ánh sáng này những
chủ đề và những hướng đặc thù
mà Huấn Quyền đă nhắc lại những năm
gần đây. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây
một trong các điểm đó: việc lựa
chọn hay là t́nh yêu dành cho kẻ nghèo. Đó là
một sự lựa chọn, hay là một h́nh thức
riêng biệt của sự ưu tiên trong việc
thực hành đức bác ái Kitô giáo mà truyền
thống của Giáo Hội minh chứng. Đức bác
ái đó liên hệ tới sự sống của
mỗi Kitô hữu, bao lâu họ bắt chước
sự sống Chúa Kitô, nhưng cũng áp dụng cho
những trách nhiệm xă hội chúng ta và như
vậy là cho cách sống chúng ta, cho những quyết
định chúng ta phải lấy một cách có hệ
thống đối với vấn đề tư
hữu và sử dụng của cải. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 42) 302.
Đọc lại bức Thông Điệp Rerum Novarum
trong ánh sáng của thực trạng hiện nay giúp chúng
ta nhận thức được mối quan tâm thường
xuyên và sự xả thân của Giáo Hội đối
với những người đặc biệt
được Chúa Giêsu thương mến. Nội dung
của bản văn là một chứng từ tuyệt
hảo nói lên việc làm liên tục trong Giáo Hội
về điều được gọi là “thái độ
chọn lựa ưu tiên đứng về phía người
nghèo”, một lựa chọn mà tôi định nghĩa
như một “h́nh thức đặc biệt ưu tiên
trong việc thi hành công tác bác ái Kitô giáo”. (SRS, n. 42). (Centesimus
Annus, n. 11) 303.
Trong khi t́m cách thăng tiến phẩm giá con người,
Giáo Hội tỏ ra ưu tiên yêu thương người
nghèo và những người không có tiếng nói, v́ Chúa
đă tự đồng hoá ḿnh với họ một cách
đặc biệt (x. Mt 25, 40). T́nh thương ấy không
loại trừ ai, mà chỉ thể hiện một
sự ưu tiên trong phục vụ như toàn bộ
truyền thống Kitô giáo đă làm chứng. “Ưu
tiên yêu thương người nghèo và có những
quyết định xuất phát từ t́nh thương
ấy không ǵ khác hơn là muốn rộng tay đón
nhận lấy hết con số đông đảo
những người đói khát, túng thiếu, vô gia cư,
những người không được y tế chăm
sóc, và nhất là những người không hy vọng có
một tương lai tốt đẹp hơn. (Ecclesia
in 304.
Trong kinh Magnificat của Đức Maria, t́nh yêu thương
ưu ái đối với người nghèo khổ
được ghi lại cách tuyệt diệu. Vị
Thiên Chúa của giao ước mà người Trinh
Nữ Nadareth ca mừng trong niềm vui hớn hở
của tâm trí cũng chính là Đấng “hạ
bệ những ai quyền thế, nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường, kẻ đói nghèo Chúa ban của
đầy dư, người giàu có lại đuổi
về tay trắng…, dẹp tan phường ḷng trí kiêu
căng và t́nh thương Chúa trải qua bao thế
hệ, dành cho ai biết kính sợ Người".
Đức Maria được thấm nhuần tinh
thần “người nghèo của Đức Giavê
“theo lời cầu nguyện trong các Thánh Vịnh,
họ mong đợi ơn cứu độ từ Thiên
Chúa, và hoàn toàn tín thác nơi Ngài (x. Tv 25; 31; 35; 55) (Redemptoris
Mater, n. 37) 305.
Thánh Giacôbê nói “Nếu có người anh em hay chị
em không có áo mặc, không có cơm ăn, mà một người
trong anh em chỉ nói với họ rằng: “Chúc anh em
về b́nh an, hăy cố mặc cho ấm, cố ăn
cho no, rồi không cho họ ǵ cần cho thân xác họ,
th́ lời nói đó nào ích ǵ” ? (Gc 2, 15-16) Ngày nay không
ai mà không biết rằng, trên nhiều lục địa
biết bao người đang bị nạn đói hành
hạ; biết bao trẻ em thiếu ăn, đến
nỗi một phần lớn phải chết lúc c̣n
nhỏ tuổi; bao nhiêu người khác không phát
triển được về vật chất lẫn
tinh thần cũng v́ đó. Bao nhiêu miền đất
rộng lớn đang v́ thế mà phải sống trong
t́nh trạng tuyệt vọng thê thảm. (Populorum
Progressio, n, 45) 306.
Có lẽ có một số người ngày nay, làm
tiếng vọng trung thành cho các người ngoại
đạo thời xưa, đi tới chỗ tự làm
một binh khí tấn công Giáo Hội, bằng một
đức bác ái cũng lạ lùng. Người ta đă
thấy một ḷng nhân từ được các
luật dân sự thiết lập để thay thế
đức bác ái Kitô giáo. Nhưng đức bác ái Kitô
giáo này, hoàn toàn hiến ḿnh và không có hậu ư nào khác
ngoài việc phục vụ tha nhân, không thể bị
thay thế bằng một tổ chức nhân loại nào
khác. Chỉ duy Giáo Hội mới có nhân đức này,
bởi v́ người ta chỉ múc lấy được
nó nơi Trái Tim cực thánh Chúa Giêsu Kitô mà thôi, và
đi lạc xa Chúa Giêsu Kitô là đi xa Giáo Hội
của Người. (Rerum
Novarum, n. 30) 307.
Điều hiển nhiên là người Công Giáo
phải cảm thấy cách riêng bổn phận giúp
đỡ người đang vùng vẫy trong cảnh
thiếu thốn và bần cùng. Trở thành chi thể
của Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô là một
nguyên nhân cao thượng nhất cho họ. Thánh Gioan tông
đồ tuyên bố: “Căn cứ vào điều này,
chúng ta biết được t́nh yêu là ǵ: đó là
Đức Kitô đă thí mạng v́ chúng ta. Như
vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí
mạng v́ anh em. Nếu ai có của cải thế gian và
thấy anh em ḿnh lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng
động ḷng thương, th́ làm sao t́nh yêu Thiên Chúa
ở lại trong người ấy được
?" (1
Ga 3, 16-17) (Mater et Magistra, n. 159) V. Nhà Nước Chăm Sóc Bảo Vệ
308. Trong những hoàn cảnh hết
sức đặc biệt, Nhà Nước cũng có
thể thực hiện vai tṛ thay thế khi các lănh
vực của xă hội hoặc hệ thống kinh doanh
quá yếu hoặc vừa khởi sự không thể làm
tṛn trách nhiệm đ̣i hỏi trước mắt.
Những sự can thiệp có tính cách phụ trợ
đó, v́ lư do khẩn cấp liên quan tới công ích,
phải càng ngắn càng tốt để tránh việc
loại bỏ vĩnh viễn vai tṛ chuyên biệt
của xă hội và giới doanh thương đồng
thời cũng tránh nới rộng quá đáng địa
bàn hoạt động của Nhà Nước gây
tổn hại cho cả tự do kinh tế lẫn
tự do của công dân. Trong những năm gần đây mức
độ can thiệp đó đă lan quá rộng
tới chỗ tạo ra một loại Nhà Nước
mới, mệnh danh là “nhà nước an ninh –Etat du
bien-être". Việc này đă xảy ra trong một vài
quốc gia để đáp ứng hữu hiệu hơn
trước nhu cầu và các đ̣i hỏi, bằng cách
sửa chữa các h́nh thức nghèo túng và thiếu
thốn không xứng đáng với con người. Tuy
nhiên, do sự thái quá và lạm dụng, đặc
biệt là trong những năm gần đây, đă
khiến dư luận chỉ trích gắt gao Nhà Nước
an ninh, được gán cho danh xưng là “Nhà Nước
trợ cấp xă hội –Etat de l’assistance".
Những sự điều hành bê bối và những
khuyết điểm trong chế độ Nhà Nước
an ninh là do có sự hiểu sai về nhiệm vụ
đúng đắn của Nhà Nước. Một
lần nữa ở đây nguyên tắc hỗ trợ
phải được tôn trọng: một cộng
đồng ở mức cao hơn không được
can thiệp vào đời sống nội bộ của
một cộng đồng ở mức thấp hơn,
tước đoạt vai tṛ của nó, nhưng nên
hỗ trợ trong trường hợp cần thiết và
giúp phối hợp hoạt động của nó
với các hoạt động của những cộng
đồng c̣n lại trong xă hội, luôn luôn nhắm
tới mục tiêu công ích. Bằng việc can thiệp trực
tiếp và gạt bỏ xă hội ra khỏi trách
vụ của ḿnh, quốc gia trợ cấp xă hội làm
mất đi các năng lực của con người và
làm gia tăng quá đáng các công sở, những cơ
quan này mang nặng tính cách thư lại nhiều hơn
là hăng say trợ giúp các thân chủ của ḿnh và
do đó làm ngân sách chi tiêu gia tăng. Thực tế,
chính những người sống gần gũi nhất
và sống như là những người bạn láng
giềng với những người túng thiếu
mới hiểu và thoả măn được nhu cầu
của họ. Cần nói thêm là một vài loại nhu
cầu thường mong đợi được đáp
lại không phải chỉ bằng vật chất mà c̣n
có thể nh́n thấy nhu cầu sâu xa hơn của con
người. Người ta nghĩ đến t́nh
trạng của những người tị nạn,
những người di dân, những người già
cả, những người ốm yếu và tất
cả những người ở vào hoàn cảnh
cần được nâng đỡ như những
nạn nhân ghiền ma tuư, tất cả những người
chỉ có thể được trợ giúp hữu
hiệu bởi những người đem lại cho
họ, ngoài những sự săn sóc cần thiết, c̣n
có sự nâng đỡ trong t́nh anh em. (Centesimus Annus, n. 48) 309. Sở dĩ Giáo Hoàng Lêô XIII kêu
gọi nhà cầm quyền cải thiện điều
kiện sinh sống của người nghèo cho phù
hợp với công lư, chính v́ ngài đă nhận
thức đúng lúc rằng nhà cầm quyền có
bổn phận quan tâm tới công ích và bảo đảm
mọi giai tầng trong đời sống xă hội, luôn
cả đời sống kinh tế, cùng đóng góp
thực hiện công ích đó, đồng thời
vẫn trọng sự tự trị hợp lư của
mỗi giai tầng trong xă hội. Tuy nhiên điều này
không thể khiến chúng ta nghĩ rằng Đức
Giáo Hoàng Lêô mong đợi chính quyền sẽ
giải quyết mọi vấn đề xă hội. Trái
lại, ngài thường nhấn mạnh về
những giới hạn cần thiết trong sự can
thiệp của Nhà Nước và về bản chất
công cụ của Nhà Nước bởi v́ cá nhân, gia
đ́nh và xă hội có trước Nhà Nước, và
v́ Nhà Nước hiện hữu chỉ để
bảo vệ quyền lợi của những thực
thể này chứ không phải để bóp nghẹt
những quyền đó. (Centesimus Annus, n. 11) 310. Chúng ta đă nói, điều hợp lư
là cá nhân, gia đ́nh không bị Nhà Nước thôn tính.
Đúng là cá nhân và gia đ́nh có quyền hành động
cách tự do, bao lâu mà điều đó không xúc
phạm ích chung và không làm thiệt hại cho ai.
Dầu vậy, trách nhiệm của những người
cầm quyền phải chăm sóc cộng đồng và
các thành phần của nó; nói cộng đồng, là v́
thiên nhiên đă giao phó việc ǵn giữ cộng đồng
cho quyền tối cao, đến nỗi nền an ninh công
cộng không những là luật tối cao ở đây,
nhưng chính là nguyên nhân và lẽ sống của
quyền dân sự. (Rerum Novarum, n. 35)
CHƯƠNG
IX MÔI TRƯỜNG
I.
Phẩm
Tính Của Trật Tự Sáng Tạo II.
Những
Vấn Đề Liên Hệ Với Môi Trường III.
Sự Giám Hộ Môi Trường IV.
Ngành Kỹ Nghệ
I.
Phẩm
Tính Của Trật Tự Sáng Tạo. 311.
“Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp" (St
1, 25). Những lời này, chúng ta đọc trong chương
thứ nhất Sách Sáng Thế nói lên ư nghĩa của
công tŕnh Chúa đă thực hiện. Đấng Sáng
Tạo giao phó cho con người, chóp đỉnh
của tất cả tiến tŕnh sáng tạo, việc
canh giữ trái đất (x. St 2, 15). Do đó mọi người
đều có nhiệm vụ cụ thể liên quan đến
sinh thái học. Muốn hoàn thành những nhiệm
vụ đó, phải đón nhận một viễn
ảnh thiêng liêng và đạo đức vượt
qua những thái độ và “những kiểu sống
ích kỷ đưa tới chỗ làm khánh kiệt
những tài nguyên thiên nhiên". (Ecclesia
in 312.
Điều răn thứ bảy dạy phải tôn
trọng sự toàn vẹn của vạn vật. Thiên
Chúa đă ban thú vật, thực vật và những
vật vô tri, nhằm phục vụ lợi ích chung
của nhân loại trong quá khứ, hiện nay và tương
lai. (x. St 1, 28-31). Khi sử dụng các nguồn tài nguyên
khoáng chất, thực vật và động vật trong
vũ trụ, con người phải tôn trọng các
đ̣i hỏi của luân lư: Đấng Sáng Tạo
đă ban cho con người quyền bá chủ trên các
vật vô tri và những sinh vật khác, nhưng không
phải quyền tuyệt đối, v́ phải để
ư đến ảnh hưởng trên đời sống
của tha nhân, kể cả những thế hệ tương
lai; quyền này đ̣i chúng ta phải trân trọng
sự toàn vẹn của vạn vật (GLHTCG,
n. 2415) II.
Những
Vấn Đề Liên Hệ Với Môi Trường 313.
Mọi người đều biết rơ trong vài nơi
trên trái đất diện tích đất canh tác không
tương xứng với con số dân chúng hiện có;
hơn nữa, lại mất cân đối giữa
những tài sản của đất đai và sự
trang bị cần thiết để khai thác; sự t́nh
này đ̣i hỏi, về phía các dân tộc, một
sự hợp tác làm dễ dàng lưu thông hoặc các
của cải, hoặc các tài sản, hoặc chính
những con người. (Pacem
in Terris, n. 101) 314.
Điểm thứ hai dựa trên nhận xét mỗi ngày
một hiển nhiên hơn, có thể nói được
như vậy, về tính cách giới hạn của các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, một vài loại trong các
thứ này hễ cạn là hết, không lấy ở
chỗ khác được, như người ta thường
nói. Dùng những tài nguyên này như thể chúng vô
tận, với một quyền thống trị tuyệt
đối đe doạ khả năng phục vụ
của chúng không những đối với thế
hệ này mà nhất là đối với những
thế hệ mai sau. Điểm thứ ba liên quan
trực tiếp tới những hậu quả của
những mô h́nh phát triển nào đó trên phẩm
chất của sự sống trong những vùng kỹ
nghệ hoá. Chúng ta đều biết rằng việc
kỹ nghệ hoá luôn luôn thường gây ra một cách
trực tiếp hay gián tiếp sự ô nhiễm môi trường,
với những hậu quả nghiêm trọng cho sức
khoẻ dân chúng. Một lần nữa, hiển nhiên là
sự phát triển, ư muốn hướng dẫn phát
triển theo một kế hoạch, việc sử
dụng và cách dùng các tài nguyên, không thể tách
rời khỏi sự tôn trọng các đ̣i hỏi luân
lư. Một trong những đ̣i hỏi này, hiển nhiên
buộc phải giới hạn việc sử dụng
thiên nhiên hữu h́nh. Quyền thống trị Đấng
Tạo Dựng ban cho con người, không phải là
một quyền tuyệt đối và người ta không
thể nói tới tự do “sử dụng và lạm
dụng", hay định đoạt sự vật như
ḿnh muốn. Giới hạn mà chính Đấng Tạo
Dựng, ngay từ đầu, đă muốn con người
tuân giữ và được diễn tả cách tượng
trưng bằng lệnh cấm “ăn trái cây“ (x. St
2, 16-17), cho thấy một cách khá rơ ràng, trong khuôn
khổ của thiên nhiên hữu h́nh, chúng ta lệ
thuộc vào những quy luật không những có tính cách
sinh học, mà c̣n có tính cách luân lư, mà người ta
không thể vi phạm mà không bị thiệt hại. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 34) 315.
H́nh như chúng ta ngày càng ư thức hơn về
sự kiện là việc khai thác trái đất, hành
tinh trên đó chúng ta đang sống, cần phải có
kế hoạch hợp lư và đúng đắn. Đồng
thời việc khai thác đó khi nhằm những
mục đích không phải chỉ là kỹ nghệ mà
c̣n là quân sự, và việc phát triển kỹ
thuật khi không được kiểm soát và tổ
chức trên b́nh diện toàn cầu và theo một cách
thức thực sự nhân bản, thường hay bao hàm
một mối đe doạ cho môi trường tự
nhiên của con người, tha hoá môi trường này
trong những quan hệ của nó đối với thiên
nhiên và khiến nó xa rời thiên nhiên. (Redemptor
Hominis, n. 15) 316.
Điều cũng đáng quan ngại là vấn đề
môi sinh đi liền với chủ trương tiêu
thụ và có liên hệ mật thiết với chủ
trương đó. Con người, với ước
muốn có và hưởng thụ hơn là được
(être) và tăng trưởng, tiêu thụ những tài
nguyên của trái đất và của đời
sống riêng ḿnh một cách thái quá và hỗn loạn.
Việc tàn phá bừa băi thiên nhiên, căn nguyên là
một lầm lẫn về nhân chủng, bất
hạnh thay đă lan rộng trong thời đại chúng
ta. Khi khám phá ra khả năng biến đổi và theo
một ư nghĩa nào đó tạo dựng ra thế
giới qua lao động của ḿnh, con người quên
mất rằng việc này luôn luôn nhờ vào ân
huệ đầu tiên nguyên thuỷ của các sự
vật mà Thiên Chúa đă ban phát. Con người tưởng
rằng ḿnh có thể sử dụng trái đất
một cách độc đoán, buộc trái đất
phải phục tùng ḿnh một cách vô giới hạn,
dường như trái đất không có một h́nh thù
và một mục đích trước như Chúa đă
ban cho nó, những thứ đó con người phải
khai triển chớ không được phản bội
lại. Thay v́ thi hành vai tṛ của ḿnh như một
kẻ cộng tác với Thiên Chúa trong công cuộc
tạo dựng, con người lại đặt ḿnh vào
vai tṛ của Thiên Chúa và như vậy sẽ đi
tới chỗ tạo ra một sự nổi loạn nơi
thiên nhiên, khiến thiên nhiên bị con người nô
lệ hoá hơn là được cai quản. Trong
tất cả những việc này, trước hết
người ta ghi nhận cái nh́n của con người
thật nghèo nàn và chật hẹp, thôi thúc bởi ư
muốn làm chủ các sự vật hơn là liên
hệ chúng với chân lư và thiếu hẳn thái độ
vô tư, tự nguyện và đạo đức, phát
sinh từ niềm hân hoan khi đứng trước
tạo vật và vẻ đẹp giúp con người
nhận ra từ các vật hữu h́nh sứ điệp
của Thiên Chúa vô h́nh Đấng đă tạo
dựng nên chúng. Về phương diện này, nhân
loại ngày nay phải ư thức về nhiệm vụ
và bổn phận của ḿnh đối với các
thế hệ mai sau. (Centesimus
Annus, n. 37) 317.
Trong khi cái nh́n của con người bị biến
đổi như vậy do những h́nh ảnh người
ta chọn cho nó, th́ một sự biến dạng khác
xuất hiện, hậu quả cũng thê thảm và
bất ngờ của sinh hoạt con người. Đột
nhiên con người ư thức điều này: do một
sự khai thác bừa băi thiên nhiên, con người
liều lĩnh phá hoại nó và tới phiên ḿnh
lại làm nạn nhân của sự xuống cấp này.
Không những chỉ có môi trường vật chất
trở nên một đe doạ thường xuyên:
những ô nhiễm và những cặn bă, những cơn
bịnh mới, quyền lực phá hoại tuyệt
đối; nhưng cả cơ cấu nhân loại mà
con người không c̣n làm chủ nữa, như
vậy tạo ra cho ngày mai một môi trường có
thể con người không c̣n chịu đựng
nổi. Đó là vấn đề xă hội quy mô
lớn liên quan tới toàn thể gia đ́nh nhân
loại. Người Kitô hữu phải hướng
về những viễn ảnh mới này để
nhận lấy trách nhiệm về một vận
mạng từ nay có tính công cộng, với những người
khác. (Octogesima
Adveniens, n. 21) 318.
Ngoài việc huỷ hoại thiên nhiên một cách vô lư,
chúng ta cũng cần nói tới sự huỷ hoại
nghiêm trọng hơn đối với con người,
điều mà ít khi được người ta chú ư
tới. Mặc dầu người ta lo lắng một cách
đúng – tuy cũng chưa đủ – về việc
bảo vệ nơi sinh sống tự nhiên của các
loài thú đang bị đe doạ diệt chủng, v́
họ nhận định rằng mỗi loại thú
vật này đóng góp vào việc làm quân b́nh thiên nhiên
tổng quát, trong khi đó có rất ít nỗ lực
để bảo vệ các điều kiện luân lư
cho một “môi sinh nhân bản“ đích thực. Không
những Thiên Chúa đă ban cho con người trái đất,
mà con người phải sử dụng với sự tôn
trọng mục đích nguyên thuỷ, tốt lành mà v́
đó nó đă được giao phó cho ḿnh, nhưng
chính con người cũng là đặc ân của Thiên
Chúa ban cho con người, và do đó con người
phải biết tôn trọng cấu trúc tự nhiên và
đạo lư đă được giao phó cho. Theo ư nghĩa
này, cần lưu tâm tới những vấn đề
nghiêm trọng do việc đô thị hoá hiện nay gây
ra, về nhu cầu cần phải hoạch định
một kế hoạch đô thị hoá chú tâm đến
sự sống con người và cũng cần lưu tâm
tới “môi sinh xă hội” của lao động. (Centesimus
Annus, n. 38) III.
Sự
Giám Hộ Môi Trường 319.
Được kêu gọi canh tác và bảo tồn khu vườn
thế giới (x. St 2, 15), con người có một trách
nhiệm riêng đối với mội trường
sự sống, nghĩa là tạo vật mà Thiên Chúa
đă đặt phục vụ phẩm giá nhân vị
của con người, của sự sống con người,
và như vậy, không những cho hiện tại, mà cũng
cho các thế hệ tương lai. Đó là vấn
đề sinh thái học – từ việc bảo toàn
những nơi “trú ẩn” tự nhiên của các loài
thú vật khác nhau và của những h́nh thức
sống khác biệt cho tới “sinh thái học nhân
loại“ đích thực - gặp trong trang Kinh Thánh này
một sự linh ứng đạo đức rơ ràng và
mạnh mẽ ngơ hầu tất cả mọi giải
pháp đều phải tôn trọng sự thiện cao
cả tức là sự sống, tất cả mọi
sự sống. Thật vậy, “quyền thống
trị Đấng Tạo Hoá ban cho con người không
phải là một quyền tuyệt đối, và người
ta không thể nói tới việc tự do ‘sử
dụng và lạm dụng’, hay là xếp đặt
mọi sự như ḿnh muốn. Việc hạn chế
chính Đấng Sáng Tạo đă đặt ngay từ
đầu, và được diễn tả cách
biểu trưng qua sự cấm “ăn trái cây" (x.
St 2, 16-17), cho thấy đủ rơ rằng, trong khuôn
khổ thiên nhiên hữu h́nh, chúng ta phải tuân theo
những lề luật không những sinh học mà c̣n
luân lư, mà người ta không được xúc
phạm vô tội vạ" (SRS, n. 34). (Evangelium
Vitae, n. 42) 320.
Những người lănh đạo xí nghiệp
chịu trách nhiệm trước xă hội về
mặt kinh tế và sinh thái của công việc làm
ăn của ḿnh. Họ quan tâm đến lợi ích
của con người chứ không lo gia tăng lợi
nhuận. Dĩ nhiên, lợi nhuận cần thiết v́
giúp thực hiện những đầu tư bảo
đảm tương lai của xí nghiệp và bảo
đảm công ăn việc làm của công nhân. (GLHTCG,
n. 2432) 321.
Quyền có một môi trường lành mạnh liên
kết với việc thăng tiến phẩm giá nhân
vị, bởi v́ nó nêu rơ động lực của
những tương quan giữa cá nhân và xă hội.
Một tổng thể những quy luật quốc
tế, vùng và quốc gia về môi trường đang
dần dần cho quyền này có một h́nh thức pháp
lư. Nhưng, những biện pháp pháp lư tự nó không
đủ. Hiện tại và tương lai của
thế giới tùy thuộc vào việc bảo vệ
tạo vật, bởi v́ có một tác động qua
lại liên lĩ giữa con người và thiên nhiên.
Đặt thiện ích của con người vào tâm
điểm của việc chú ư đối với môi
trường, trên thực tế, là cách vững
chắc nhất để bảo vệ tạo vật. (Sứ
điệp Ngày Quốc Tế Hoà B́nh, 1999, n. 10) IV.
Ngành
Kỹ Nghệ 322.
Việc phát triển kỹ nghệ và các lănh vực khác
có quan hệ chặt chẽ, cho tới những khoa công
nghệ tân tiến nhất thuộc ngành điện
tử, nhất là trong lănh vực vi mô hoá (miniaturisation),
truyền thông và viễn thông (télématique), v.v... ,
chứng tỏ vai tṛ to lớn được đảm
nhận đúng đắn, trong tác động qua
lại của chủ thể và vật thể của
lao động (hiểu theo nghĩa rộng nhất
của từ ngữ)… Kỹ thuật chắc chắn
là đồng minh của con người. Kỹ
thuật giúp con người dễ làm việc, hoàn
thiện việc làm, làm mau công việc và tăng thêm
việc làm. Kỹ thuật giúp gia tăng số lượng
hàng hoá của việc làm, và kỹ thuật cũng hoàn
thiện phẩm chất của nhiều thứ hàng hoá
đó. Vả lại, có sự kiện là trong một
số trường hợp, người bạn đồng
minh này, là kỹ thuật, cũng có thể trở thành
như kẻ thù của con người, ví dụ khi
việc cơ khí hoá lao động “thay thế“ con người
bằng cách tước đoạt nơi con người
tất cả mọi thoả măn, và tất cả
sự khích động để sáng tạo và nhận
trách nhiệm, khi nó băi bỏ việc làm của
nhiều công nhân hay là khi, qua sự tán dương cơ
giới, nó biến con người thành nô lệ cho no. (Laborem
Exercens, n. 5) 323.
Thế hệ ngày nay biết ḿnh được ưu
đăi bởi v́ sự tiến bộ cho họ
những khả năng rộng lớn, mà cách chỉ vài
chục năm thôi không ai ngờ. Sinh hoạt sáng
tạo của con người, trí thông minh và việc làm
của họ, đă gây ra những thay đổi
rất lớn trong lănh vực khoa học và kỹ
thuật cũng như trong đời sống xă hội
và văn hoá. Con người đă trải dài quyền
lực của ḿnh trên thiên nhiên; nó đă chiếm
được một sự hiểu biết thâm sâu hơn
về các luật lệ trong việc cư xử xă
hội của ḿnh. Những người trẻ hôm nay,
nhất thiết, biết rằng sự tiến bộ
khoa học và kỹ thuật có khả năng mang
lại không những của cải vật chất
mới mẻ mà c̣n đem lại một sự tham gia
rộng răi hơn vào sự hiểu biết. Những
thủ đắc do các khoa sinh lư, tâm lư hay là xă
hội sẽ giúp con người hiểu rơ hơn
sự phong phú của hữu thể ḿnh… Nhưng bên
cạnh tất cả những thứ đó - hay là
đúng hơn bên trong tất cả những thứ
đó – c̣n những khó khăn xuất hiện trong
bất cứ việc tăng trưởng nào. (Dives
in Misericordia, n. 10) CHƯƠNG
X CỘNG
ĐỒNG THẾ GIỚI I.
Gia Đ́nh II.
Trao Đổi Tự Do III.
Ḥa B́nh và Chiến
Tranh IV.
Vũ Trang V.
Nền Công Ích Toàn
Cầu VI.
Những Tổ Chức
Xuyên Quốc Gia và Liên Quốc Gia VII.
Di Dân VIII.
Nợ Nước Ngoài IX.
Chủ Nghĩa Quốc
Gia và Những Xung Đột Sắc Tộc X.
Kinh Tế Toàn Cầu I.
Gia
Đ́nh 324.
Theo mạc khải Kinh Thánh, Thiên Chúa đă dựng nên
con người - có nam có nữ - giống h́nh ảnh Người
(x. St 1, 26-27; 5, 1-2; 9, 6). Sự liên kết con người
với Đấng Sáng Tạo của ḿnh xây dựng
phẩm giá và các quyền cơ bản bất khả
nhượng của con người, mà Chúa là Đấng
bảo lănh. Những quyền cá nhân này rơ ràng phải
tương ứng với những bổn phận đối
với những người khác. Không cá nhân nào, không
xă hội nào, không Nhà Nước nào, không một cơ
chế nhân loại nào có thể qui con người - hay
một nhóm người – về t́nh trạng sự
vật... Mạc khải nhấn mạnh hơn hết
về sự hợp nhất gia đ́nh nhân bản;
tất cả mọi người được tạo
dựng trong Chúa đều có cùng một nguồn
gốc; mặc dầu trong ḍng lịch sử, có sự
phân tán hay sự nêu rơ những khác biệt của
họ, con người vẫn được định
phận làm thành một gia đ́nh mà thôi, theo kế
hoạch của Chúa thiết lập "từ đầu"...
Thánh Phaolô đă tuyên bố với người thành
Athènes: "Từ một người duy nhất, Thiên
Chúa đă tạo thành toàn thể nhân loại, để
họ ở trên khắp mặt đất", đến
nỗi mọi người có thể nói với thi sĩ
rằng họ là “chính ḍng dơi" của Thiên Chúa (Cv
17, 26, 2 (L’Eglise face au racisme, nn. 19-20) 325. Giáo Hội, như người ta biết, là phổ
quát theo luật Thiên Chúa; Giáo Hội cũng có tính
phổ quát trên thực tế bởi v́ Giáo Hội
hiện diện ở khắp các dân tộc hay là có
khuynh hướng hiện diện như vậy. (Mater et Magistra, n. 178) 326. Từ đó ư thức về Chúa là Cha chung, về
mọi người là anh em trong Chúa Kitô, “những người
con trong Người Con”, về sự hiện diện và
về hành động ban sự sống của Chúa Thánh
Thần, làm cho cái nh́n của chúng ta trên thế
giới, như có một tiêu chuẩn mới để
giải thích. Xa hơn những liên kết nhân loại
và tự nhiên, đă là rất vững mạnh và
rất chặt chẽ, dưới ánh sáng của đức
tin c̣n hiện ra một mẫu hiệp nhất nhân
loại mới mà cuối cùng sự liên đới
phải dựa theo. (Sollicitudo Rei Socialis, n. 40) II.
Trao Đổi Tự Do 327. Học thuyết của đức Lêo
XIII trong Thông Điệp “Tân Sự" có giá trị
măi măi, sự đồng ư của hai bên kư kết không
đủ để bảo đảm cho tờ hợp
đồng được công bằng, trong trường
hợp hai bên quá bất b́nh đẳng, và luật
tự do ưng thuận c̣n phải lệ thuộc vào
những đ̣i buộc của luật tự nhiên.
Phải đ̣i hỏi cho đồng lương của
người thợ được công bằng thế nào,
th́ cũng phải đ̣i cho các thoả ước
quốc tế như vậy: hệ thống thương
mại không c̣n có thể dựa trên nguyên luật
tự do cạnh tranh, thường khi nó lại phát sinh
một nền kinh tế độc tài. Tự do giao thương
chỉ công bằng khi nào tuân theo những đ̣i
hỏi của công bằng xă hội. (Populorum Progressio, n, 59) 328. C̣n phải thiết lập một
nền công bằng lớn hơn trong việc phân
phối của cải, bên trong những cộng đồng
quốc gia cũng như trên b́nh diện quốc tế.
Trong những giao thương quốc tế, cần
phải vượt qua những tương quan dựa trên
sức mạnh để đi tới những thoả
thuận có bản tính nhằm thiện ích cho mọi người.
Những tương quan theo sức mạnh không bao
giờ, thật vậy, dựng nên một nền công
bằng bền vững và chân thật, cho dầu đến
những lúc nào đó sự xen kẽ những vị trí
thường cho phép gặp được những
điều kiện dễ dàng hơn để đối
thoại. Vả lại việc sử dụng quyền
lực gây ra việc vận dụng những sức
lực đối kháng, phát sinh một bầu khí tranh
đấu mở ra những hoàn cảnh cực kỳ
thô bạo và lạm dụng (x. PP, n. 56). Nhưng, chúng tôi
đă thường khẳng định, bổn phận
quan trọng nhất của phép công bằng là cho phép
mỗi quốc gia thăng tiến sự phát triển ḿnh,
trong khung cảnh một sự hợp tác tránh khỏi
tất cả tinh thần thống trị, kinh tế và
chính trị. Thật vậy, t́nh thế phức tạp
của những vấn đề được nêu lên
th́ to lớn trong sự chằng chịt hiện nay
giữa những nước lệ thuộc với nhau;
cho nên phải can đảm duyệt lại những tương
quan giữa các quốc gia, dầu đó là sư phân
phối quốc tế của việc sản xuất, là
cấu trúc các sự trao đổi, là kiểm soát
những lợi nhuận, là hệ thống tiền
tệ – không quên những hành động của t́nh
liên đới nhân đạo – là đặt thành
vấn đề những kiểu mẫu tăng trưởng
của các nước giàu, là biến đổi
những năo trạng để thấy rơ quyền ưu
tiên của bổn phận quốc tế, là cải
thiện những tổ chức quốc tế để
đạt được hiệu quả lớn hơn. (Octogesima Adveniens, n. 43) 329. Ở đây không thể sử
dụng hai loại cân và hai thứ đo lường.
Điều có giá trị trong nền kinh tế quốc
gia, điều mà người ta công nhận giữa
những nước phát triển, cũng có giá trị
trong những tương quan thương mại giữa
những nước giàu và những nước nghèo.
Tuy không loại bỏ cạnh tranh trên thị trường,
nhưng phải giữ cho cạnh tranh đó ở trong
giới hạn công bằng, hợp đạo và
xứng với con người hơn. Trong việc thương
mại giữa những nền kinh tế phồn
thịnh với những nền kinh tế kém mở mang,
các hoàn cảnh quá khác nhau và những tự do không
đồng đều. Sự giao dịch thương
mại giữa các nước muốn cho ngay thẳng và
nhân đạo, theo luật công bằng, phải cho hai bên
ít nhất những sự may mắn mua bán đồng
đều. Đó là mục đích lâu dài. Nhưng
muốn đạt tới đó phải tạo lập
ngay từ bây giờ sự công bằng thực sự
trong các cuộc thảo luận và thương
thuyết. Trong vấn đề này, những thoả
hiệp kư kết giữa một số khá đông
quốc gia, sẽ có ích lợi: v́ những thoả
hiệp đó sẽ đặt những nguyên tắc
tổng quát để điều hoà một số giá
cả, để bảo đảm cho một số
sản phẩm, để nâng đỡ một số
kỹ nghệ mới phát sinh. Ai mà lại không thấy
rằng một cố gắng chung để tiến
tới công bằng hơn trong việc giao dịch buôn bán
giữa các nước, sẽ đem lại cho các
quốc gia kém mở mang một sự giúp đỡ
hữu hiệu, kết quả không những là thấy
ngay, mà c̣n tồn tại măi ? (Populorum
Progressio, n. 61) III.
Hoà
B́nh và Chiến Tranh 330.
Hoà b́nh không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng
không chỉ được giản lược vào
sự quân b́nh giữa các lực lượng đối
phương, cũng không phát xuất do một nền
cai trị độc tài, nhưng theo đúng định
nghĩa th́ hoà b́nh là “công tŕnh của công bằng"
(Is 32, 7). Hoà b́nh là kết quả của một
trật tự đă được chính Thiên Chúa,
Đấng Sáng Lập, ghi khắc vào xă hội loài người
và phải nhờ con người luôn luôn khao khát
một nền công bằng hoàn hảo hơn thể
hiện trong hành động. Thật thế, mặc
dầu tự bản chất công ích của nhân
loại dĩ nhiên phải được định
luật đời đời quy định, tuy nhiên
trong những đ̣i hỏi cụ thể của nó, công
ích vẫn phải chịu những thay đổi không
ngừng với diễn biến của thời gian: hoà
b́nh không bao giờ đạt được một
lần là xong, nhưng phải xây dựng măi măi. Hơn
nữa, v́ ư chí của con người yếu đuối
và bị tội lỗi làm tổn thương, do đó
muốn có hoà b́nh mọi người phải luôn luôn
kiềm chế dục vọng của ḿnh và chính
quyền phải canh pḥng cẩn thận. Nhưng như
thế chưa đủ. Hoà b́nh ấy chỉ có
được trên trần gian, nếu giá trị
của từng cá nhân được bảo đảm
và mọi người tin tưởng cũng như
tự nguyện san sẻ cho nhau những của cải
tinh thần và tài năng của họ. Ư chí cương
quyết muốn tôn trọng người khác, những
dân tộc khác cũng như phẩm giá của họ và
sự ân cần thực thi t́nh huynh đệ là
những điều kiện thiết yếu để xây
dựng hoà b́nh. Như thế, hoà b́nh cũng là
kết quả của t́nh thương, một thứ t́nh
thương vượt xa những ǵ công bằng có
thể đem đến. Phát sinh từ t́nh yêu tha nhân,
hoà b́nh trần gian là h́nh ảnh và là kết quả
của hoà b́nh Chúa Kitô, hoà b́nh do Đức Chúa Cha mà
đến. V́ chính Chúa Con Nhập Thể là Thái Tử
Hoà B́nh đă dùng thập giá Người để hoà
giải mọi người với Thiên Chúa; Người
đă tái lập sự hiệp nhất mọi người
thành một dân tộc và một thân thể. Người
đă huỷ diệt hận thù trong chính xác thể Người,
và sau khi đă khải hoàn phục sinh, Người
đă đổ tràn Thánh Thần t́nh yêu đầy ḷng
con người. Do đó, khi thực thi chân lư trong bác
ái (x. Ep 4, 15), mọi Kitô hữu được khẩn
thiết kêu mời hăy kết hiệp với những
người thực sự yêu chuộng hoà b́nh để
cầu khẩn và thiết lập hoà b́nh. Cũng trong
tinh thần đó, chúng tôi không thể không ca ngợi
những ai tranh đấu cho quyền lợi mà không dùng
bạo động, nhưng dùng những phương
tiện tự vệ sẵn có cho những người
yếu kém, miễn sao không hại đến quyền
lợi và bổn phận của người khác và
của cộng đoàn. (Gaudium
et Spes, n. 78) 331.
Cần phải có hoà b́nh để con người
được sống và phát triển. Hoà b́nh không
chỉ là vắng bóng chiến tranh và không chỉ
giới hạn ở việc giữ thế quân b́nh
giữa các lực lượng đối lập.
Thế giới chỉ có hoà b́nh khi tài sản của
con người được bảo vệ, con người
được tự do giao lưu, phẩm giá của
con người và của các dân tộc được
tôn trọng, t́nh huynh đệ được thực
thi. Hoà b́nh là “ổn định trật tự"
(Saint Augustin, De civ. Dei, IX. 13. 1), là công tŕnh của công lư
(x. Is 32, 17) và hoa quả của đức ái. (GLHTCG,
n. 2304) 332.
Hoà b́nh không ngừng bị đe doạ và chiến
tranh nổ ra v́ những bất công, bất b́nh đẳng
thái quá về kinh tế hoặc xă hội, v́ ḷng tham,
sự ngờ vực và tính kiêu căng đang hoành hành
giữa những con người và các quốc gia.
Tất cả những ǵ được thực
hiện nhằm khắc phục các tệ hại này
đều góp phần vào việc kiến tạo hoà b́nh
và xa lánh chiến tranh: Bao lâu con người c̣n là
những kẻ tội lỗi, hiểm hoạ chiến
tranh c̣n đe doạ, và vẫn c̣n đe doạ cho
đến khi Chúa Kitô quang lâm. Tuy nhiên, nhờ kết
hợp trong bác ái, con người thắng vượt
tội lỗi, và cũng thắng vượt bạo
lực cho tới khi lời sau đây được hoàn
tất: "Họ sẽ đúc gươm đao thành
cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này
nước nọ sẽ không c̣n vung kiếm đánh
nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến"
(GS, n. 78; x. Is 2, 4). (GLHTCG,
n. 2317) 333.
Phải tôn trọng và đối xử nhân đạo
với thường dân, thương binh và tù binh.
Những hành động cố ư vi phạm nhân
quyền và các nguyên tắc phổ quát của nhân
quyền, cũng như các lệnh truyền thi hành các
hành động ấy, đều là tội ác. Chấp
hành mệnh lệnh cách mù quáng không đủ để
bào chữa cho những ai tuân hành các lệnh đó. Do
đó, việc tiêu diệt một dân tộc, một
quốc gia hoặc một nhóm thiểu số phải
bị kết án như một tội trọng. Luân lư
đ̣i chúng ta phải chống lại các mệnh
lệnh diệt chủng. (GLHTCG,
n. 2313) IV.
Vũ
Trang 334.
Ngược lại, chúng tôi rất đau đớn
khi thấy trong các nước có nền kinh tế phát
triển hơn, những cuộc vũ trang thái quá đă
sẵn sàng và c̣n đang chuẩn bị, không phải là
không gây ra những phí tổn to lớn nhất về
của cải cả hồn lẫn xác. Do đó
những công dân của các nước này phải
chịu những sắc thuế nặng nề, c̣n các nước
khác lại thiếu những phương tiện để
phát triển trong vấn đề kinh tế và xă
hội. (Pacem
in Terris, n. 109) 335.
“Xưa Ta đói mà các ngươi không cho Ta ăn. Ta
ḿnh trần mà các ngươi không cho Ta mặc. Ta
ở tù mà các ngươi không thăm viếng" (Mt
25, 42). Những lời như thế càng có thêm giá
trị cảnh cáo nếu chúng ta nghĩ tới t́nh
trạng là thay v́ đem cơm bánh và sự trợ giúp
văn hoá đến cho các chính phủ và các nước
mới độc lập, nhiều khi người ta
chỉ đem tặng thật nhiều những khí
giới tối tân và những phương tiện phá
hoại để phục vụ cho những cuộc xung
đột vũ trang và những cuộc chiến tranh không
phải là một sự cần thiết bảo vệ các
quyền lợi chính đáng và chủ quyền của
các nước đó cho bằng là một h́nh thức
biểu lộ chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa thực dân mới
đủ loại. (Redemptor
Hominis, n. 16) 336.
Huấn giáo của Giáo Hội Công Giáo như vậy là
rơ ràng và nhất quán. Huấn giáo đó than phiền
việc chạy đua vũ trang, yêu cầu ít nhất
là cả hai bên giảm binh bị từ từ và có
thể xác minh, cũng như phải có những đề
pḥng lớn hơn chống lại những sự
lầm lạc có thể xảy ra trong lúc sử
dụng những khí giới nguyên tử. Đồng
thời, Giáo Hội đ̣i hỏi phải biết tôn
trọng nền độc lập, quyền tự do và
nền an ninh hợp pháp cho mỗi quốc gia. (Sứ
điệp gởi cho Khoá II đặc biệt Liên
Hiệp Quốc, về việc giảm binh bị, n. 5) 337.
Một cuộc vơ trang điên rồ đă nuốt
trọn nguồn tài nguyên cần thiết cho công
cuộc phát triển kinh tế quốc gia và để
viện trợ cho các quốc gia chậm tiến.
Những tiến bộ về khoa học và kỹ
thuật đáng lư phải đóng góp vào việc
phục vụ con người, đă biến thành công
cụ của chiến tranh. Khoa học và kỹ
thuật được hướng về việc
sản xuất những vơ khí c̣n hiệu quả và có
sức tàn phá hơn bao giờ hết. (Centesimus
Annus, n. 18) V.
Một
Nền Công Ích Toàn Cầu 338.
Con người trên địa cầu càng lệ
thuộc lẫn nhau. Sự hiệp nhất gia đ́nh nhân
loại tập hợp những con người có
phẩm giá b́nh đẳng, bao gồm một nền công
ích toàn cầu. Nền công ích này cần có một
tổ chức hiệp nhất và liên quốc gia, có
khả năng “đáp ứng những nhu cầu muôn
mặt của con người trong lănh vực xă hội
(như thực phẩm, y tế, giáo dục …) cũng
như để đối phó với bao hoàn cảnh
đặc biệt có thể xảy ra nơi này nơi
khác (Cứu trợ những người tị nạn,
giúp đỡ cho những người di dân và gia đ́nh
họ ) (GS, n. 84). (GLHTCG,
n. 1911) 339.
Cũng thế khi nói về công ích của các quốc
gia riêng biệt, người ta không thể phán đoán
về sự ǵ có ích cho tất cả các nước nói
chung, nếu không qui chiếu về con người; cho nên
thẩm quyền công và phổ quát trước tiên
phải nhắm tới điều này là công nhận
những quyền con người, tôn trọng những
quyền đó cho đúng, bảo toàn những quyền
đó khỏi bị xâm phạm, cho những quyền
đó lớn lên trong bản chất; điều mà
thẩm quyền đó có thể thực hiện
hoặc tự ḿnh, nếu được, hoặc
bằng cách tạo ra trên b́nh diện quốc tế
những điều kiện, nhờ đó giới
quản trị các Nhà Nước riêng biệt có
thể hoàn thành dễ dàng hơn những trách
nhiệm của ḿnh. (Pacem
In terris, n. 139) VI.
Những Tổ Chức
Xuyên Quốc Gia Và Liên Quốc Gia 340.
Vậy chúng tôi tha thiết mong ước sao cho Tổ
chức Liên Hiệp Quốc ngày càng có thể ứng
dụng h́nh thức của ḿnh và những phương
tiện hành động của ḿnh phù hợp với
tầm cỡ và sự cao đẹp của những trách
nhiệm ḿnh. Mong sao sớm tới lúc mà Tổ chức
này có thể bảo vệ cách hiệu nghiệm
những quyền con người: những quyền này,
trực tiếp phát xuất từ phẩm giá con người,
nên có tính phổ quát, bất khả xâm phạm và
bất khả nhượng; càng hơn thế v́ ngày
nay con người tham gia nhiều hơn vào những công
việc chung của quốc gia ḿnh, con người
chứng tỏ một sự quan tâm ngày càng gia tăng
đối với những công việc của tất
cả các dân tộc, và con người luôn luôn ư
thức hơn ḿnh tùy thuộc, với tư cách là
những thành viên sống động, vào gia đ́nh
phổ quát loài người. (Pacem
in Terris, n. 145) 341.
Sự cộng tác giữa các dân tộc trên thế
giới như thế, đ̣i hỏi những cơ
cấu để chuẩn bị, phối hiệp và
điều hành, có thể nói là cả một cơ
cấu pháp lư được mọi người
thừa nhận. Chúng tôi hết ḷng khuyến khích
những tổ chức đă giúp các dân tộc
cộng tác trong việc phát triển, và Chúng tôi
cầu chúc uy thế của các tổ chức được
gia tăng, như Chúng tôi đă ngơ lời trước
các đại biểu Liên Hiệp Quốc tại
Nữu Ước: “Sứ mạng của quí vị là
cổ vơ t́nh anh em không phải chỉ giữa một vài
dân tộc, mà tất cả mọi dân tộc”. (Populorum
Progressio, n. 78) 342.
Những tiến triển khoa học và kỹ thuật
trong tất cả các lănh vực của đời
sống xă hội gia tăng và siết chặt những
tương quan giữa các quốc gia, làm cho sự tùy
thuộc của chúng trở nên luôn sâu xa và sống
động hơn. Do
đó, người ta có thể nói rằng tất
cả vấn đề con người dù có tầm quan
trọng nào, nội dung của nó ra sao, khoa học,
kỹ thuật, kinh tế, xă hội, chính trị, văn
hoá, ngày nay mặc lấy những chiều kích siêu
quốc gia và thường là chiều kích thế
giới. Do
đó, đứng một ḿnh, những cộng đồng
chính trị tự ḿnh và với sức lực riêng ḿnh
không thể giải quyết xứng hợp những
vấn đề lớn hơn của họ, cho dầu
những cộng đồng đó nổi tiếng v́
một nền văn hoá cao, phổ biến rộng răi,
v́ số đông và sinh hoạt của các công dân ḿnh,
v́ hiệu năng của cơ chế kinh tế của
ḿnh, v́ bề rộng và sự ph́ nhiêu đất
đai của ḿnh. Các quốc gia ảnh hưởng
đến nhau, và người ta có thể khẳng
định rằng mỗi quốc gia chỉ phát
triển khi góp phần làm phát triển những
quốc gia khác. Nên họ phải có sự thoả
thuận và sự hợp tác với nhau. (Mater et Magistra, nn. 200-202) 343. C̣n phải đi xa hơn nữa.
Tại Bombay Chúng tôi đă kêu gọi thiết lập
một ngân quỹ quốc tế đóng góp bởi
một phần chi phí quân sự, để đem giúp
đỡ những nước đói kém. (Paul VI, Message
au Monde, remis aux journalistes). Chống nghèo đói cần
thiết như thế nào th́ phát triển các dân
tộc cũng cần thiết như vậy. Ngân quĩ
quốc tế này vừa là h́nh ảnh vừa là khí
cụ của sự hợp tác giữa các dân tộc.
Chỉ có sự hợp tác như thế mới có
thể giúp vượt qua được những tranh
chấp vô ích và khơi nguồn cho một cuộc
đối thoại phong phú và hoà b́nh giữa các dân
tộc. (Populorum
Progressio, n. 51) VII.
Di
Dân 344.
T́nh yêu phụ tử, mà Thiên Chúa linh hứng cho Chúng tôi
phải có đối với tất cả mọi người,
làm Chúng tôi thấy buồn khi xem xét hiện tượng
của những kẻ tị nạn chính trị.
Hiện tượng này đạt tới những
chiều kích sâu rộng và luôn luôn có kèm theo vô vàn
đau khổ không thể tin được. Sự
kiện này chứng tỏ rằng một số chính
phủ hạn chế quá đáng bầu khí tự do mà
mỗi công dân có quyền hưởng và cần có nó
để sống ra người; những chế độ
này đôi khi đi tới chỗ bài bác quyền
tự do, nếu không loại hẳn quyền đó. Khi
điều này xảy ra, chắc chắn trật tự
xă hội dân sự bị đảo ngược
tận gốc rễ; thật vậy, công quyền
tự bản tính nhằm bênh vực lợi ích của
cộng đồng, và bổn phận đầu tiên
của quyền này là nh́n nhận phạm vi hợp lư
của tự do và bảo tồn những quyền
của tự do. (Pacem
in Terris, nn. 103-104) 345.
Lục địa Mỹ theo lịch sử của ḿnh
thấy có nhiều phong trào di dân, với những đoàn
người nam và nữ đến từ những vùng
khác biệt v́ hy vọng có được một tương
lai khá hơn. Hiện tượng này c̣n tiếp
diễn ngày nay; hiện tượng này liên can cách riêng
tới nhiều người và nhiều gia đ́nh đến
từ những nước Mỹ-Latin, định cư
tại những vùng phía Bắc lục địa, đến
nỗi tạo nên, trong một số trường
hợp, một phần dân cư đáng kể. Thường
họ mang đến một gia sản văn hoá và tôn
giáo giàu những yếu tố Kitô giáo đặc thù.
Giáo Hội ư thức về những vấn đề
do hoàn cảnh này tạo ra và cố gắng hết
sức thực thi hoạt động mục vụ
của ḿnh giữa những người di dân này, để
giúp họ lập nghiệp dễ dàng trong phần đất
và đồng thời gợi ư cho dân địa phương
có thái độ tiếp nhận, v́ xác tín rằng
sự tiếp nhận nhau sẽ lôi kéo theo sự làm giàu
có cho mọi người. Những cộng đồng
Giáo Hội phải thấy qua hiện tượng này
một ơn gọi đặc thù sống giá trị
Tin Mừng của t́nh huynh đệ, và đồng
thời một sự mời gọi hăng hái sống
đạo với một hoạt động truyền
giáo sâu sắc hơn. Theo nghĩa này, các Nghị
Phụ đă nhắc lại rằng "Giáo Hội
tại Mỹ châu phải là một luật sư
tỉnh thức, chống bất cứ hạn chế
bất công nào, để bênh vực quyền tự nhiên
của tất cả mọi người được
di chuyển tự do bên trong xứ sở của ḿnh và
từ xứ này qua xứ khác. Phải quan tâm tới các
quyền của những kẻ di dân và của gia đ́nh
họ, tôn trọng phẩm giá nhân vị của họ,
kể cả trong những trường hợp di dân
bất hợp pháp". Đối với những người
di dân, phải có một thái độ hiếu khách và
niềm nở, thái độ đó khuyến khích
họ chen chân vào đời sống Giáo Hội, nhưng
vẫn luôn bảo tồn quyền tự do và căn tính
văn hoá riêng của họ. Trong mục đích này,
việc cộng tác giữa những giáo phận từ
đó họ ra đi và những giáo phận họ
tới nhập, nhất là nhờ những cấu trúc
mục vụ xứng hợp mà luật pháp và việc
thực hành của Giáo Hội đă dự liệu, (việc
cộng tác đó) được chứng minh là
hữu ích nhất. Nhờ vậy người ta bảo
đảm được việc nâng đỡ mục
vụ thích hợp nhất và đầy đủ
nhất. Giáo Hội tại Mỹ châu phải có tinh
thần lo lắng thường xuyên sao cho những
kẻ mới tới và chưa biết Chúa Kitô
được Phúc Âm hoá đầy đủ. (Ecclesia
in 346.
Nhờ những kinh nghiệm cay đắng, nên chúng tôi
biết rằng sự sợ "dị biệt",
nhất là khi dị biệt đó được
diễn tả trong một chủ nghĩa quốc gia, có
thể đưa tới sự sợ hăi về bạo
loạn và khủng bố. Nhưng, nếu chúng ta
cố gắng đánh giá sự thật cách khách quan,
chúng ta có thể nhận xét rằng, bên kia tất
cả những dị biệt biểu thị đặc
điểm các cá nhân và các dân tộc, giữa họ
lại có một độ tương hợp cơ
bản, v́ những nền văn hoá khác biệt trên
thực tế chỉ là những cách khác nhau để
đề cập vấn đề ư nghĩa sự
hiện hữu con người. Chính tại đó mà chúng
ta có thể làm nổi bật một nguồn kính
trọng dành cho tất cả mọi nền văn hoá và
tất cả các quốc gia. (Diễn
văn tại kỳ Họp khoáng đại thứ 50
của Tổ chức Liên Hiệp Quốc, 1995, n. 9) VIII.
Nợ Nước Ngoài 347.
Sự hiện hữu một món nợ nước ngoài
bóp nghẹt nhiều dân tộc lục địa
Mỹ châu, là một vấn đề phức tạp.
Không đi vào trong nhiều khía cạnh của nó, Giáo
Hội, trong việc lo lắng mục vụ của ḿnh,
không thể không biết vấn đề này, bởi v́
nó liên can tới sự sống của một số
đông người. Do đó nhiều Hội Đồng
Giám Mục Mỹ châu, ư thức tầm quan trọng
của vấn đề này, đă tổ chức
những cuộc gặp gỡ để nghiên cứu và
đă phổ biến những tài liệu nhằm đề
xướng những giải đáp cụ thể.
Về phần tôi, nhiều lần tôi đă phát
biểu bận tâm của tôi trước hoàn cảnh này,
mà trong nhiều trường hợp không thể
chịu nổi. Trong viễn ảnh Đại Toàn Xá năm
2000, bây giờ rất gần rồi, và tôi nhớ
đến ư nghĩa xă hội mà các các Năm Toàn Xá
mặc lấy trong Cựu Ước (25, 8-12), các Kitô
hữu phải trở nên tiếng nói của tất
cả người nghèo trên thế giới, đề
nghị Năm Thánh phải là một thời gian
thuận lợi để nghĩ tới, giữa bao nhiêu
chuyện khác, một sự giảm bớt quan trọng,
nếu không phải xoá hoàn toàn món nợ quốc
tế đè nặng trên số phận của nhiều
quốc gia" (TMA, n. 36). Lần
nữa tôi bày tỏ ḷng ước muốn, mà Thượng
Hội Nghị lặp lại, Hội Đồng Giáo Hoàng
cổ vơ "Công lư và Hoà b́nh", với những cơ
chế khác có thẩm quyền như Ban Tổng Thư
Kư Quốc Gia đối ngoại với các Nước,
"qua sự nghiên cứu và đối thoại
với các đại diện Thế Giới Thứ
Nhất và với những vị trách nhiệm Ngân Hàng
thế giới và của Quĩ tiền tệ quốc
tế, t́m ra những phương thế giải
quyết vấn đề nợ nước ngoài cũng
như t́m ra những quy luật ngăn cản những
hoàn cảnh thể ấy tái diễn khi vay mượn
lần sau". Trên tầm cỡ rộng răi hết
sức, điều nên làm là "các chuyên viên ngành
kinh tế và các vấn đề tiền tệ, có
tiếng quốc tế, tiến hành một cuộc phân
tích phê phán về trật tự kinh tế thế
giới, trong những phương diện tích cực và
tiêu cực, để sửa chữa trật tự
hiện nay và đề nghị một hệ thống và
những cơ chế có khả năng bảo đảm
sự phát triển toàn vẹn và liên đới
giữa những con người và các dân tộc ". (Ecclesia
in 348.
Hơn nữa, khi đi t́m sự công bằng giữa
một thế giới bị thiệt hại v́
những bất b́nh đẳng về xă hội và kinh
tế, Giáo Hội không thể làm ngơ trước
những t́nh trạng nợ nần mà các nước
đang phát triển tại Á châu phải gánh chịu,
ảnh hưởng tới hiện tại và tương
lai của các nước ấy. Nhiều khi, các nước
ấy buộc ḷng phải cắt giảm chi tiêu cho các
nhu cầu của cuộc sống như lương
thực, y tế, nhà ở và giáo dục, hầu có
thể trả các món nợ họ đang mắc
với các tổ chức tiền tệ và ngân hàng
thế giới. Điều này có nghĩa là đă có
nhiều người bị buộc phải sống trong
những điều kiện hết sức ô nhục
đối với phẩm giá con người. (Ecclesia
in 349.
Các Nghị Phụ đă bày tỏ mối quan tâm
của ḿnh đối với món nợ nước ngoài
tác hại đến nhiều quốc gia Mỹ châu,
để tỏ t́nh liên đới với họ. Các
ngài hết sức lôi kéo dư luận công cộng
về sự phức tạp của vấn đề, nh́n
nhận "nợ thường là hậu quả
của tệ tham nhũng và quản lư kém". Trong tinh
thần suy tư của Hội Nghị, việc nh́n
nhận đó không chủ trương tập trung,
về một phía mà thôi, những trách nhiệm về
một hiện tượng phức tạp trong nguồn
gốc và trong các giải pháp của nó. Thật
vậy, trong các nguyên nhân góp phần h́nh thành một món
nợ nặng nề nước ngoài, phải tố giác
không những tiền lăi cao, hậu quả những chính
sách tài chính đầu cơ, mà c̣n sự vô trách
nhiệm của một số nhà cầm quyền, khi kư
kết một món nợ, họ không suy nghĩ dến
những khả năng thật sự trả hết
nợ, với t́nh tiết tăng tội là những
số tiền khổng lồ thủ đắc nhờ
những vụ vay mượn quốc tế, nhiều
khi đi làm giàu cho các cá nhân, thay v́ dùng để
hỗ trợ những cải cách cần thiết cho
cuộc phát triển trong nước. Đàng khác,
thật bất công nếu để hậu quả
của những quyết định vô trách nhiệm
đè nặng trên những người không nhúng vào
những quyết định đó. Sự nghiêm
trọng của hoàn cảnh c̣n dễ hiểu hơn
nếu người ta lưu ư tới sự kiện là
"chỉ sự trả lăi mà thôi gây nên cho nền
kinh tế những nước nghèo, một gánh nặng
làm cho chính quyền không c̣n tiền cần thiết
để lo việc phát triển xă hội, giáo dục,
sức khoẻ và tạo nguồn vốn sinh công ăn
việc làm". (Ecclesia
in IX.
Chủ Nghĩa Quốc
Gia Và Những Xung Đột Sắc Tộc 350.
C̣n có những chướng ngại vật khác đang
cản trở việc xây dựng một thế
giới công bằng hơn và có cơ cấu vững
chắc hơn trong t́nh liên đới nhân loại.
Đó là: Chủ nghĩa quốc gia và chủng tộc
cực đoan. Bởi v́ người ta nhận thấy
rằng có những dân tộc mới văn hồi
được độc lập, hết sức lo
lắng bảo vệ một sự thống nhất chưa
có ǵ vững mạnh, cũng có những dân tộc có
nền văn minh cổ kính, hănh diện về di
sản của cha ông để lại. Những tâm t́nh
đó chính đáng, nhưng phải được nâng
cao lên tới một mức độ toàn thiện,
nhờ một t́nh yêu đại đồng bao trùm
lấy tất cả nhân loại. Chủ nghĩa
quốc gia cực đoan làm cho các dân tộc chia
rẽ nhau, và có hại cho lợi ích chung của họ.
Tai hại nhất trong những vùng mà nền kinh tế
nghèo nàn đ̣i buộc phải góp chung nhau nỗ
lực, hiểu biết và phương tiện tài chính
để thể hiện những chương tŕnh phát
triển kinh tế và tăng gia trao đổi thương
mại và văn hoá. (Populorum
Progressio, n. 62) 351.
Nguyên tắc thứ nhất là phẩm giá bất
khả nhượng của mỗi con người, không
có phân biệt dựa trên nguồn gốc sắc
tộc, chủng tộc, văn hoá, quốc gia hay trên tín
ngưỡng của họ. Không ai hiện hữu cho chính
ḿnh, nhưng mỗi người có căn tính trọn
vẹn là nhờ những kẻ khác, người hay nhóm;
người ta có thể nói như vậy về
những nhóm người. (Sứ
điệp Ngày Thế Giới Hoà B́nh, 1989, n. 3). 352.
Ngày nay c̣n nhiều chuyện phải làm, để vượt
thắng sự bất khoan dung tôn giáo, gắn liền
chặt chẽ với việc đàn áp các dân tộc
thiểu số, trong nhiều vùng thế giới khác
nhau. Chúng tôi bất hạnh chứng kiến những mưu
toan áp đặt cho kẻ khác những niềm tin tôn
giáo riêng, hoặc là trực tiếp, bằng nhiệt tâm
thu phục tân ṭng với những phương cách
thật sự cưỡng chế, hay gián tiếp
bằng cách từ chối một số quyền dân
sự và chính trị.… Tính bất khoan dung cũng có
thể là hậu quả của một phái duy văn
tự (Fundamentalism) nào đó. Phái nầy tạo ra
một cơn cám dỗ tái diễn măi. Phái đó
dễ dàng lôi kéo theo những lạm dụng trầm
trọng như việc xoá bỏ tận gốc rễ
của sự biểu lộ công khai về dị
biệt hay là có khi phủ nhận quyền tự do phát
biểu. Phái duy văn tự cũng có thể đưa
tới chỗ loại trừ kẻ khác trong đời
sống dân sự. (Sứ
điệp Ngày Thế Giới Hoà B́nh, 1991, n. 4) 353.
Đề cao chủng tộc quá độ không phải
chỉ là chuyện riêng của các quốc gia mới
độc lập. Ở các nước này, nó thường
là nguyên nhân của những vụ tranh chấp giữa
các bộ lạc hay đảng phái chính trị,
chẳng những vi phạm nặng nề đến
đạo lư công bằng, mà c̣n đe doạ đời
sống yên hàn và sinh mạng của dân chúng. Dưới
thời thực dân, nó thường xảy ra giữa
kiều dân và người bản xứ, cản trở
cả đôi bên hiểu nhau một cách hữu ích và gây
nên nhiều hận thù v́ những tủi nhục
phải gánh chịu. Nó cũng cản trở không cho các
nuớc nghèo cộng tác với nhau. Nó c̣n là mầm móng
chia rẽ và hận thù ngay giữa ḷng các dân tộc,
khi người ta không kể ǵ đến những
quyền bất khả nhượng của con người
mà loại ra một cách bất công, hoặc cá nhân
hoặc gia đ́nh, không cho hưởng những
quyền căn bản như các công dân khác, chỉ v́
màu da hay chủng tộc. (Populorum
Ptogressio, n. 63) 354.
Nếu Giáo Hội Mỹ châu, trung thành với Tin
Mừng của Chúa Kitô, muốn đi con dường liên
đới, th́ phải quan tâm cách riêng đến
những chủng tộc mà ngày nay c̣n bị kỳ
thị cách bất công. Trên thực tế, phải
tẩy chay tất cả mưu toan loại trừ các dân
tộc bản xứ. Điều đó bao hàm, trước
tiên, việc phải tôn trọng lănh thổ của
họ và những giao kèo đă kư kết với họ;
cũng phải dáp ứng những nhu cầu chính đáng
của họ về mặt xă hội, y tế, văn hoá.
Và sao mà quên được yêu sách hoà giải giữa
các dân bản xứ và những xă hội mà trong đó
các dân bản xứ đang sống ? (Ecclesia
in 355.
Cần phải kết án chủ nghĩa chủng
tộc và những sự kiện thuộc chủ nghĩa
chủng tộc. Nên áp dụng những biện pháp
lập pháp, kỷ luật và hành pháp chống lại
chúng, dầu phải dùng những sức ép bên ngoài thích
hợp. Các nước và những tổ chức
quốc tế có thể sử dụng hay khuyến khích
một loạt sáng kiến có sẵn cho ḿnh. Và đó
cũng là trách nhiệm của các công dân liên hệ,
nhưng không v́ đó mà dùng bạo lực để
thay thế một hoàn cảnh bất công bởi
một bất công khác. Điều quan trọng là
phải luôn luôn nhắm những giải pháp xây
dựng. (L’Eglise face au racisme, n. 33) 356. Những giáo dân mà ơn gọi đặc thù
của họ đặt họ trong tâm điểm
thế giới và đứng đầu những
nhiệm vụ trần thế khác nhau nhất, phải
nhân cơ hội này thực hành một h́nh thức
đặc biệt truyền giao.… Hiện trường
thích hợp cho sinh hoạt rao giảng Tin Mừng, đó
là thế giới mênh mông và phức tạp gồm không
những chính trị, xă hội, kinh tế, mà c̣n văn
hoá, khoa học và nghệ thuật, đời sống
quốc tế, những phương tiện truyền thông
cũng như gồm các thực tại khác mở ra cho
việc Phúc Âm hoá như t́nh yêu, gia đ́nh, giáo
dục con cái và các người trưởng thành, lao
động nghề nghiệp, đau khổ. (Evangelii
Nuntiandi, n. 70) X.
Kinh
Tế Toàn Cầu 357.
Khuynh hướng toàn cầu hoá, đặc điểm
thế giới ngày nay, là một hiện tượng
tuy không hẳn là thuộc Mỹ châu, nhưng được
thấy rơ và gây ra nhiều ảnh hưởng lớn
tại Mỹ châu. Đây là một quá tŕnh đặt
ra v́ sự kiện có nhiều liên lạc giữa các
phần thế giới, trên thực tế xoá bỏ
những khoảng cách, với nhiều hiệu quả
minh nhiên trong các lănh vực rất khác nhau. Những
hậu quả trên b́nh diện đạo đức
học có thể là tích cực hay tiêu cực. Người
ta chứng kiến trên thực tế một cuộc toàn
cầu hoá kinh tế kèm theo một số kết
quả tích cực như hiện tượng năng
xuất và sản phẩm gia tăng, và, với việc
phát triển những liên hệ giữa các nước
trong lănh vực kinh tế, hiện tượng này có
thể tăng cường quá tŕnh hợp nhất
giữa các dân tộc và cải thiện việc
phục vụ đối với gia đ́nh nhân loại.
Nhưng nếu việc toàn cầu hoá được
xử lư bằng chỉ duy những luật thị trường
áp dụng theo lợi ích của những kẻ
quyền thế, những hậu quả chỉ có
thể là tiêu cực. Ví dụ, như việc gán
một giá trị tuyệt đối cho nền kinh
tế, nạn thất nghiệp, việc giảm sút và
việc làm xấu đi một số dịch vụ công
cộng, việc phá hoại môi trường và thiên nhiên,
việc gia tăng những dị biệt giữa kẻ
giàu người nghèo, sự cạnh tranh bất chính
đặt những quốc gia nghèo trong một hoàn
cảnh thấp bé luôn rơ nét. Tuy đánh giá cao
những giá trị tích cực do việc toàn cầu hoá,
nhưng Giáo Hội xem xét những phương diện
tiêu cực một cách lo lắng. (Ecclesia
in 358.
Muốn xây dựng một nền kinh tế đích
thực cho thế giới cần phải dập tắt
ḷng ham lợi quá đáng, những tham vọng,
những khao khát bá chủ về chính trị, mọi mưu
tính về mặt quân sự cũng như mọi mưu
mô nhằm tuyên truyền và bắt phải theo một
ư thức hệ. (Gaudium
et Spes, n. 85) 359.
Hiện tượng phức tạp toàn cầu hoá, như
tôi đă nhắc lại trước đây, là một
trong những đặc điểm của thế
giới ngày nay, người ta gặp đặc điểm
đó cách riêng tại Mỹ châu. Trong thực tại
đa dạng này, phương diện kinh tế mặc
lấy một tầm quan trọng lớn. Qua học
thuyết xă hội của ḿnh, Giáo Hội góp phần
đáng kể cho vấn đề kinh tế toàn
cầu hoá hiện nay. Lập trường luân lư
của Giáo Hội trong vấn đề này "dựa
trên ba viên đá góc cơ bản là phẩm giá con người,
t́nh liên đới và sự hỗ tương".
Nền kinh tế toàn cầu hoá phải được
phân tích dưới ánh sáng những nguyên tắc công
bằng xă hội, nhưng tôn trọng sự ưu tiên
cho giới nghèo, là hạng người phải có
thể tự bênh vực ḿnh trong một nền kinh
tế toàn cầu hoá. Trên thực tế, "học
thuyết xă hội của Giáo Hội là lập trường
luân lư nhằm thúc giục các chính phủ, các cơ
chế và những tổ chức tư, để
họ chuẩn bị một tương lai thích hợp
với phẩm giá của mọi người. Trong
viễn ảnh này, người ta có thể nh́n đến
những vấn đề có liên can tới nợ nước
ngoài, đến sự hủ hoá chính trị bên trong và
đến sự kỳ thị trong nội bộ các
quốc gia cũng như giữa các quốc gia". Giáo
Hội tại Mỹ châu được kêu gọi không
những cổ vơ một sự hợp nhất lớn hơn
giữa các quốc gia, như vậy là góp phần
tạo ra một nền văn hoá toàn cầu hoá đích
thực của t́nh liên đới, mà c̣n hợp tác
bằng mọi phương tiện hợp pháp làm
giảm những hiệu quả tiêu cực của
việc toàn cầu hoá, như sự thống trị
của những người mạnh nhất trên
những kẻ yếu nhất, cách riêng trong lănh
vực kinh tế, và tiêu diệt các giá trị của
những nền văn hoá địa phương có
lợi cho sự tương đồng hoá bị
hiểu sai. (Ecclesia
in 360.
Mặc dầu xă hội trên thế giới hiện ra
như vỡ thành từng mảnh và điều này
thấy được trong cách nói quy ước về
thế giới thứ nhất, thứ hai, thứ ba và
cả thế giới thứ tư, sự tương
tuỳ giữa các bộ phận vẫn c̣n luôn luôn
rất chặt chẽ và nếu nó bị tách rời
khỏi những đ̣i hỏi đạo đức, nó
sẽ kéo theo những hậu quả tai hại cho
những người thấp kém nhất. Hơn nữa,
sự tương tùy đó, do một thứ năng
động lực bên trong thúc đẩy và dưới
sức ép của những cơ chế mà chỉ có
thể gọi là đồi truỵ, tạo nên
những hậu quả tiêu cực, ngay cả trong các nước
giàu. Ngay cả trong các nước này, người ta cũng
t́m thấy, tuy ở mức độ thấp hơn,
thật vậy, những biểu hiện đặc trưng
nhất của sự kém mở mang. Chẳng hạn ai cũng
phải thấy rằng hoặc có sự phát triển
chung cho toàn thể thế giới hoặc sẽ có
tiến tŕnh thoái bộ ngay cả trong những vùng
vẫn phát triển đều đặn. Hiện tượng
trên là triệu chứng đặc biệt về
bản chất của sự phát triển đích
thực, hoặc tất cả các nước trên
thế giới được thông phần vào sự phát
triển ấy hoặc sự phát triển ấy không
đích thực. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 17) 361.
V́ t́nh thế thay đổi, cả ở trong các nước
mắc nợ lẫn trên thị trường tài chánh
quốc tế, công cụ dùng để góp phần vào
việc phát triển, đă biến thành một cơ
chế có kết quả ngược lại. Có sự
kiện trên v́ một đàng, để tôn trọng các
cam kết, các nước vay nợ phải để tuôn
ra nhiều nước ngoài, những số vốn
họ có thể cần để nâng cao hay ít ra duy tŕ
mức sống của họ, và v́ đàng khác, cũng
do cùng một lư do, người ta không chịu cho
họ vay thêm mặc dầu họ rất cần. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 19) 362.
Những sinh hoạt xă hội và từ thiện là
một lănh vực khác quan trọng, trong đó Giáo
Hội hiện diện khắp nơi tại Châu Mỹ.
Nhiều sáng kiến quan tâm đến người già,
người bệnh và đang có nhu cầu, qua h́nh
thức những nhà hưu dưỡng, bệnh viện,
pḥng phát thuốc, nhà ăn cung cấp những thức
ăn miễn phí và nhiều trung tâm xă hội khác là
một bằng chứng cụ thể của t́nh yêu
đối với người già mà Giáo Hội nuôi dưỡng
tại Châu Mỹ. Giáo Hội làm vậy là do t́nh yêu
Chúa và v́ ư thức rằng "Chúa Giêsu đồng hoá
với kẻ nghèo" (x. Mt 25, 31-46). Trong nhiệm
vụ không biên giới này, Giáo Hội tại châu
Mỹ đă có thể tạo nên một ư nghĩa t́nh
liên đới thực tế giữ nhiều cộng
đồng khác nhau trên lục địa và trên
thế giới, chứng tỏ tinh thần huynh đệ,
một tinh thần phải là đặc điểm
của các Kitô hữu mọi thời và mọi nơi. Để
cho việc phục vụ người nghèo có tính Tin
Mừng đồng thời là việc rao giảng Tin
Mừng, phải trung thành tôn trọng thái dộ
của Chúa Giêsu, Đấng đă đến "loan báo
Tin Mừng của Chúa cho kẻ nghèo" (Lc 4, 18).
Việc phục vụ người nghèo khi thực
hiện trong tinh thần này, chứng tỏ t́nh yêu vô cùng
của Chúa đối với mọi người và
trở nên một phương tiện hữu hiệu
để truyền thông niềm hy vọng cứu
rỗi mà Chúa Kitô mang xuống thế gian, một
niềm hy vọng sáng chói cách đặc biệt khi nó
được chia sẻ cho những kẻ bị
bỏ rơi hay loại trừ khỏi xă hội.
Sự tận tụy liên tục này đối với
kẻ nghèo và những người xấu số
xuất hiện trong học thuyết xă hội của
Giáo Hội, người luôn mời cộng đồng
Kitô hữu dấn thân để vượt thắng
tất cả mọi h́nh thức bóc lột và đàn
áp. Không những phải thoa dịu những nhu cầu
nghiêm chỉnh nhất và cấp thiết nhất qua
những hành động cá nhân đó đây, mà cũng
phải khám phá ra những gốc rễ sự dữ và
đề nghị những sáng kiến biến những
cấu trúc xă hội, chính trị và kinh tế nên công
bằng và huynh đệ hơn. (Ecclesia
in 363.
Một trong những đặc tính chính của thời
đại chúng ta là sự gia tăng những quan
hệ xă hội (sự xă hội hoá): đó là
những tương quan hỗ tương và thêm cường
độ mỗi ngày giữa các người công dân,
họ đă đem vào trong đời sống và trong hành
động của ḿnh nhiều h́nh thức hiệp
hội xă hội, thường thường được
chấp nhận có quyền tư hay công. Người ta
thấy có nhiều nguồn gốc và nguồn mạch
cho sự kiện này, một sự kiện phát sinh
ơ thời này: ví dụ, những phát triển khoa
học và kỹ thuật, một sự hiệu
nghiệm lớn hơn trong việc sản xuất,
một mức sống của người dân cao hơn. (Mater
et Magistra, n. 59) 364.
Những tiến triển khoa học và kỹ thuật
trong tất cả các lănh vực thuộc đời
sống xă hội nhân số và siết chặc
những liên hệ giữa các quốc gia, làm cho sự
tương tùy của họ luôn luôn thâm sâu và
sống động hơn. Hơn
nữa, người ta có thể nói rằng tất
cả mọi vấn đề nhân bản thuộc
bất cứ tầm quan trọng nào, dầu có nội
dung ǵ, khoa học, kỹ thuật, kinh tế, xă hội,
chính trị, văn hoá, ngày nay đều mặc
lấy những chiều kích siêu quốc gia và thường
có tính toàn cầu. (Mater et Magistra, nn. 200-201) CHƯƠNG XI
PHẦN
KẾT
I.
Sự
Thách Đố của Huấn Giáo Xă Hội Công Giáo 365.
Đức Lêô XIII sau khi đă tŕnh bày những nguyên
tắc và những hướng dẫn để
giải quyết vấn đề thợ thuyền,
đă viết câu hiệu lệnh này: "Chớ ǵ
mỗi người không tŕ hoăn chăm lo phần
vụ của ḿnh kẻo khi bê trễ chạy thuốc,
người ta không thể chữa trị một sự
dữ đă quá trầm trọng! Và ngài nói thêm: "Về
phần Giáo Hội, Giáo Hội không bao giờ thiếu
hành động của ḿnh”. (Centesimus
Annus, n. 56) 366.
Chư Huynh khả kính, đó là những nguyện
vọng Chúng tôi phát biểu khi kết thúc thơ này,
qua bức thơ này Chúng tôi đă từ lâu quan tâm lo
lắng đến Giáo Hội phổ quát. Chúng tôi phát
biểu những nguyện vọng đó ngơ hầu Chúa
Cứu Chuộc loài người, "Đấng
nhờ Thiên Chúa đă trở nên sự khôn ngoan,
sự công chính và thánh hoá và sự cứu chuộc
của chúng ta" (1 Cr 1, 30), hiển trị và chiến
thắng qua các thế kỷ trong tất cả mọi
người và trên tất cả mọi sự. Chúng tôi
c̣n phát biểu những nguyện vọng đó để
sau khi đă tái thiết lập xă hội trong trật
tự, cuối cùng tất cả các dân tộc hưởng
được thịnh vượng, niềm vui và hoà b́nh. (Mater
et Magistra, n. 263) 367.
Đối với Giáo Hội, sứ điệp xă
hội của Phúc Âm không được coi là một
lư thuyết, nhưng trước tiên là căn bản và
động lực thôi thúc hành động. Một
số Kitô hữu tiên khởi nhờ cảm hứng
từ sứ điệp này, đă phân phát của
cải của họ cho người nghèo, làm chứng
rằng mặc dầu thuộc nguồn gốc xă
hội khác nhau, người ta vẫn có thể chung
sống một cách b́nh an và hoà thuận. Nhờ
sức mạnh của Phúc Âm, hàng thế kỷ nối
tiếp đă có những thầy ḍng cày cấy đất
đai, các vị nữ tu và nam tu sĩ lập các
bệnh viện và nơi tạm trú cho người nghèo,
những hội ḍng cũng như mọi giai tầng nam
cũng như nữ trong xă hội dấn thân phục
vụ cho người nghèo và cho những người
sống ngoài lề xă hội, với quan niệm
rằng lời Chúa Kitô: "Khi con làm việc này cho
một người anh em bé nhỏ nhất, con đă làm
cho chính Ta vậy" (Mt 25, 4), không chỉ là một
lời ước muốn nhân lành, nhưng phải
hiểu như là một sự dấn thân cụ
thể trong cuộc sống. Ngày nay hơn bao giờ
hết, Giáo Hội ư thức rằng sứ điệp
xă hội của ḿnh sẽ lấy được sư
tin tưởng do chứng từ của hành động
c̣n hơn là do kết quả của lư luận và
sự bền bỉ của nội tâm. Ư thức này cũng
là nguồn gốc của sự lựa chọn của
Giáo Hội đứng về phía người nghèo, nhưng
lựa chọn đó không có tính cách loại trừ và
kỳ thị đối với những người khác.
Sự lựa chọn này không chỉ giới hạn vào
việc túng thiếu về vật chất: v́ ai cũng
biết là có nhiều h́nh thức nghèo khác, đặc
biệt trong xă hội tân tiến, nghèo về mặt
kinh tế, mà c̣n nghèo về văn hoá và tinh thần
nữa. T́nh yêu thương của Giáo Hội dành cho
người nghèo, tối cần cho Giáo Hội và là
một phần trong truyền thống của Giáo
Hội, buộc Giáo Hội phải quan tâm tới
một thế giới trong đó t́nh trạng nghèo túng
đang đe doạ trở thành qui mô mặc dầu có
những tiến bộ về kỹ thuật và kinh
tế. Trong những quốc gia ở Tây phương, có
sự nghèo dưới nhiều h́nh thức, như các
nhóm người sống ngoài lề xă hội, như
những người già cả và ốm đau,
những nạn nhân của chủ nghĩa tiêu thụ và
c̣n hơn nữa quá nhiều người tị nạn
hoặc di dân; trong các quốc gia đang phát triển,
thảm hoạ sẽ tới nếu không có những
biện pháp phối hợp của quốc tế trước
khi đă quá muộn. (Centesimus
Annus, n. 57) 368.
Trong nỗ lực đó, con cái Giáo Hội phải là
những gương mẫu và những hướng
đạo v́ họ được mời gọi, theo
chương tŕnh đă được chính Chúa Giêsu công
bố trong nhà Hội ở Nadareth, hăy "đem Tin
Mừng cho người nghèo khó… loan báo ơn giải
thoát cho kẻ tù đày, cho ai mù được
thấy, người bị áp bức được
giải oan, công bố một năm hồng ân của
Thiên Chúa" (Lc 4, 18-19). Nên nhấn mạnh tới vai
tṛ trội hơn của giáo dân nam nữ, như Thượng
Hội Đồng Giám Mục mới đây đă
nhắc lại. Vai tṛ của họ là làm sinh động
các thực tại trần thế với một ḷng
nhiệt thành Kitô hữu và sống trong trần thế
như người chứng nhân và những kẻ xây
dựng hoà b́nh và công lư. Tôi muốn nói riêng với
những ai, qua bí tích Thánh Tẩy và tuyên xưng cùng
một đức tin, tham gia cùng với Chúng tôi vào
một sự hiệp thông chân thật, mặc dầu
chưa trọn hảo. Tôi chắc rằng mối lo âu
bộc lộ trong thơ này, cũng như các lư do thúc
đẩy tôi viết, quen thuộc với họ, v́ chính
Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô gợi hứng cho các lư
do đó. Chúng ta có thể t́m được ở
đây một lời mời gọi mới, là hăy cùng
nhau làm chứng cho những xác tín chung của chúng ta
về phẩm giá con người được Thiên Chúa
tạo dựng, được Chúa Kitô cứu độ,
được Chúa Thánh Thần thánh hoá và được
mời gọi sống trong thế giới này một
đời sống phù hợp với phẩm giá đó.
Tới những ai chia sẻ với chúng tôi di sản
của Abraham "tổ phụ chúng ta trong đức
tin" (Rm 4, 11-12) và Truyền Thống của Cựu
Ước, những người Do Thái, tới những
ai như Chúng tôi, tin vào Thiên Chúa công b́nh và nhân
hậu, những người theo Hồi giáo, tôi cũng
gởi lời mời gọi này, lời mời này cũng
bao gồm tất cả các tín đồ các tôn giáo
lớn trên hoàn cầu. (Sollicitudo
Rei Socialis, n. 47) 369.
Một lần nữa và cách khẩn thiết, chúng tôi
gởi lời mời gọi hành động đến
với tất cả các Kitô hữu. Trong thông điệp
của chúng tôi nói về sự Phát Triển các Dân
Tộc, Chúng tôi nhấn mạnh tới điều là
mọi người phải bắt tay vào việc: "Người
giáo dân phải nhận lănh việc đổi mới
trật tự trần gian là nhiệm vụ riêng
của ḿnh; nếu vai tṛ của hàng giáo phẩm là
dạy và giải thích chính thức những nguyên
tắc luân lư phải theo trong lănh vực này, th́
họ có nhiệm vụ, bằng những sáng kiến
tự do của ḿnh và không đợi cách thụ động
những mệnh lệnh và chỉ dẫn, đem tinh
thần Kitô giáo thâm nhiễm năo trạng và những
phong tục, những luật pháp và những cấu trúc
của cộng đồng sống của họ"
(PP, n. 42). Ước chi mỗi người xét ḿnh đă
làm ǵ cho tới bây giờ và c̣n phải làm ǵ. Chưa
đủ nếu chỉ nhắc lại những nguyên
tắc, khẳng định những ư nguyện, tố
giác những bất công gây bất b́nh và phát biểu
những chỉ trích có tính ngôn sứ: những lời
này chỉ có trọng lượng thực sự
nếu mỗi người có ư thức mănh liệt
về trách nhiệm riêng ḿnh và có hành động
hiệu nghiệm. Điều quá dễ là đổ cho
kẻ khác trách nhiệm về những bất công,
nếu đồng thời người ta không thấy
chính ḿnh tham gia vào đó cách nào, và sự cải hoá
ḿnh là điều cần trước hết. Sự khiêm
tốn cơ bản này cất khỏi hành động
tất cả sự cứng nhắc và óc bè phái; nó cũng
tránh được sự ngă ḷng trước một
nhiệm vụ xem ra quá sức. Niềm hy vọng
của người Kitô hữu trước hết là do
biết rằng Chúa hành động với chúng ta trong
thế giới, tiếp tục trong Thân Thể Người
là Giáo Hội – và qua Giáo Hội trong toàn thể nhân
loại – việc Cứu Độ đă hoàn thành trên
Thập Giá và đă kết thúc bằng chiến
thắng sáng ngày Phục Sinh (x. Mt 28, 30; Pl 2, 8-11).
Niềm hy vọng đó cũng bởi họ biết
rằng nhiều người khác đang bắt tay
thực thi những động tác đồng qui công lư
và hoà b́nh; bởi v́ dưới một sự dửng
dưng bên ngoài, trong con tim của mỗi người
đều có một ư muốn sống t́nh huynh đệ
và một sự khao khát công lư và hoà b́nh, cần
phải làm triển nở. (Octogesima
Adveniens, n. 48) THƯ MỤC
(Bibliographie) Giáo
Luật (1983) Công
Đồng Vatican II.
CHỈ MỤC KHÁI LƯỢC Bác ái
đức bác ái và Giáo Hội (4, 11, 226,
305, 306) Bạo tàn (140,
330, 346) Con đường thứ ba (30) Công bằng
(xem: công bằng xă hội) 328, 348, 359, 365-367) Công nghiệp hoá
(314) Cộng đồng các quốc gia (338) những cộng đồng và những
tổ chức trung gian (64, 65, 131, 135, 173. 195, 232). Cộng đồng / những tổ
chức quốc tế (339-343,
347) Cơ chế Của chung
(25, 46, 65, 111-113, 126, 134, 135, 139, 156, 167-174, 176, 178, 179, 181,
192, 195, 209, 222, 229, 230, 235, 236, 243, 245, 263, 280, 282, 285, 292,
309, 310, 330, 338, 339, 344) Cưỡng chế
(58, 78, 81, 83, 258) Chết êm dịu
(106, 108) Cha mẹ
(xem: gia đ́nh) Chân lư
(40, 55, 72, 122, 168, 190, 200) những người bảo vệ
tự do (58) (chân lư về con người chi phối
những liên quan giữa các nhà nước
(124, 190) Chế
độ chính trị Chính
phủ (xem Nhà Nước) Chiến tranh (330, 334) Chủ nghĩa độc tài (67, 123, 187, 193, 200) Chủ nghĩa sắc tộc (xem: Kỳ thị) Chủ nghĩa tập thể hoá (134, 207, 237) Chủ nghĩa tự do (xem: chủ nghĩa cá nhân) Di dân
(344, 345) Diệt chủng (333) Đ́nh công
quyền đ́nh công
(285, 286) Đối nghịch giai cấp (216) Đối
thoại (60, 127, 286) Đời
sống Kitô hữu (12, 24,
30, 34) Gia
đ́nh (65, 89,
94, 280) cộng đồng sự sống và t́nh
yêu (87, 100) Giá
trị đạo đức
(xem: tự do) Giải
phóng (163, 227) Giáo dân Giáo Dục như sự tham gia vào hành động sáng
tạo của thiên Chúa (96) Giáo
Hội Công Giáo Giới
tính (90) Hiệp hội
(62, 134, 135, 196, 229) Hỗ tương,
nguyên tắc của - (134-136, 138, 189, 193, 234, 235, 237, 308,
359) Hoà b́nh
(39, 51, 56, 82, 184, 201, 330-332) Hoà giải
(295) Hoạt động kinh tế - (212, 213, 238) Tha hoá
(146, 147 215, 248. 322) Học
thuyết, phát triển –(29) Hôn nhân / t́nh yêu vợ chồng (84, 89,
92) H́nh
phạt tử h́nh (111-113) Huấn
giáo xă hội Công Giáo (18, 19,
21, 24, 26, 29, 30, 32, 35, 39, 40, 65, 244, 285, 359, 365, -369) Huấn
quyền (6, 15, 109, 200, 301, 347) Kinh
tế (217) những thực hành kinh tế
(221) Khai thác (x. mội trường) Kiểu
mẫu Kỳ
thị (293, 354) Kỹ
thuật (164, 233,
246, 322, 323) Lao
động -việc làm bản chất lao động
(251, 252, 268, 271, 285) những liên quan cơ bản giữa tư
bản và lao động (214,
279) Liên
đới (127, 129,
130, 132, 326) Loại
ra bên lề (354, 367) Lợi
nhuận Ḷng
thương xót Luật luật (105,
356) luật thiên nhiên (xem: lương tâm)
(74, 109) sự quan trọng của luật
(182, 197) Giáo Hội tôn trọng trật tự dân
chủ (91,98) Luân lư
(218) Lương
tâm (24) Mạng lưới an ninh (66, 213, 260, 261, 276, 293, 308) Môi trường quản lư (319, 321) Môi trường lao động (251, 261, 268-271) Nhà nước (236, 239) 153) lư thuyết về Nhà Nước
(186) sự can thiệp (xem Nhà Nước)
(233-235, 237, 279, 308, 309) Nghiệp
đoàn (278-280,
283) Nhân
chủng học Nhân
loại Nhân
vị
Nô
lệ (76, 165) Nợ Người
nghèo - Người
nữ lao động ngoài gia đ́nh
(262) Nhân
đức (289, 295,
) Nước
Chúa (158, 298) Ơn
gọi lao động như ơn gọi (253,
256, 257) Phá
thai (106, 107,
108, 110) Phát
triển Phẩm
giá (bao gồm tất cả qui chiếu
về phẩm giá con người, phẩm giá nhân
vị hay phẩm giá siêu việt của con người)
(-39, 41-44, 46, 47, 49, 57, 68, 69, 71, 75, 76, 79, 82, 112, 113, 119, 144,
145, 150, 152, 168, 198, 201, 219, 269, 272, 303, 321, 331, 351, 368) Phúc
Âm hoá (x. Giáo Hội Công Giáo) Phục
vụ ( 37, 38) Quản
lư (xem môi trường) Quyền
bính Quyền
sở hữu Sáng
kiến kinh tế (136, 210,
229, 230, 234, 243, 245, 308) Sáng
kiến tư (208, 234,
235, 245) Sinh thái
học nhân bản (318) Sự
sống nhân bản, đặc tính thiêng thiêng của -
(102-104) T́nh yêu Tham
gia (139, 140,
142, 144, 215, 221, 231) Thần
học giải phóng
(223- 227) Thất
nghiệp
(x. an ninh) (138, 230) Thuyết
vô thần
(225) Thuyết
mác-xít
(225) Thiên
Chúa những
hành vi nghịch cùng h́nh ảnh Thiên Chúa
(106) Thương
mại,
buôn bán Thù
lao
(xem: tiền lương) Tiêu
thụ,
hiện tượng của sự - (58, 64, 146, 161, 248,
249, 250, 298, 311, 316) Tiền
lương (261,
262, 264, 267) Tin
Mừng
(36, 44, 158) sức
mạnh giải phóng (223) T́nh
huynh đệ
(60) Trào
lưu duy văn tự sự
triệt để dứt bỏ tất cả những
biểu thị công về dị biệt
(352) Truyền
thống
(6, 29, 30, 35, 109) Tự
quyết định
(122) Tự
do tự
do (47, 57, 78, 83, 149, 150,
217, 228) tự
do như là bổn phận đối với kẻ khác
(51) tự
do tự nhiên của con người
(49, 59) Tự
do tôn giáo
(77-79, 82, 191, 211, 290, 352) Tư
hữu
(xem: những mục tiêu phổ quát của cải
vật chất Văn
hoá
(156, 159, 250) Văn
minh
(63, 157, 164) Vấn
đề xă hội
– (16, 29, 33, 35, 132, 365) Vốn
– tư bản
(231) Vũ
trang
(334-337) Việc
làm
(293) Xă
hội
(65, 187, 235, 236, 239 ) bổn
phận bênh vực cơ chế gia đ́nh – (88) Xă
hội công dân / xă hội dân sự
(97, 111) Xă
hội chủ nghĩa
(210) Xă
hội hoá
(xem: Nhân loại) Xí
nghiệp
(241, 246, 259, 308, 320) khả
năng xí nghiệp (240) Y
thức hệ
(30, 57, 152, 200, 226, 358) TRI
ÂN Cuốn sách này,
cũng như hai cuốn sách “Các nhà truyền giáo
Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam” và cuốn “Vai Tṛ
của Người Tín Hữu Giáo Dân Đối
Với Giáo Hội và Xă Hội”, được h́nh
thành nhờ sự yểm trợ một phần tài chánh
của quư vị mạnh thường quân. Để
tỏ ḷng tri ân, chúng tôi có ư định ghi Phương
Danh quư vị đó trên cuốn sách, nhưng v́ ḷng khiêm
nhường, đa số quư vị đều không
muốn có tên ḿnh trên cuốn sách. V́
vậy, chúng tôi xin mượn mấy ḍng này, xin chân
thành cảm tạ quư vị đă rộng tay giúp đỡ
để chúng tôi có thêm phương tiện hoàn thành
công tác nhỏ bé này. Xin
Thiên Chúa trả công bội hậu đến mỗi quư
vị. Nhóm
cổ động: Nguyễn
Xuân Hân, Nguyễn Văn
Nhuệ, Nguyễn Đức
Tuyên
|
|
*** Tông Huấn NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN
TÔNG HUẤN NGƯỜI TÍN
HỮU GIÁO DÂN
Kỷ niệm 30 năm ban hành Tông Huấn NTHGD (1988-2018)
|
|
1.- Nguyệt San DIỄN ĐÀN GIÁO
DÂN - báo viết http://diendangiaodan.com
|
|
2.- Facebook DIỄN ĐÀN GIÁO DÂN
- videos http://facebook.com/pg/ddgdtv/videos
|
|
3.- Website DIỄN ĐÀN GIÁO DÂN
- báo mạng http://diendangiaodan.us
|
|
Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.
|