Ngày 30 tháng 1 năm 2011
PHÚC THẬT TÁM MỐI - PHONG TỤC TẾT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Mời xem Video CHO CON LÀ NẾN SÁNG của Alpha Linh (Nhóm Cát Trắng & Thiên Thần)
(Sau 15 giây vẫn chưa thấy hát xin ấn vào F5 hay Refresh)
PHÚC THẬT TÁM MỐI
Khi nghe bài “Phúc
Thật Tám Mối” trên đây, nhiều
người ngạc nhiên sửng sốt. Những
hạnh phúc Chúa Giêsu hứa ban sao quá khác với
những quan niệm về hạnh phúc mà ta thường
có. Người ta ai cũng mong có nhiều của
cải, làm ăn phát tài. Thế mà Chúa Giêsu lại nói:
“Phúc cho người nghèo”.
Người ta ai cũng mong được khôn ngoan,
được có uy quyền, được người
khác nể phục. Thế mà Chúa Giêsu lại nói: “Phúc
cho người hiền lành”. Người
ta ai cũng mong được an b́nh, sống thoải
mái, vô lo. Thế mà Chúa Giêsu lại nói: “Phúc
cho các con khi các con bị bắt bớ”.
Chúng ta ngạc nhiên, không hiểu Lời Thiên Chúa, v́
chúng ta có quan niệm sai lầm về hạnh phúc và
về đạo. 2).
Có bao giờ bạn cảm được niềm vui
khi sống trong những mối phúc mà Chúa Giêsu loan báo
chưa? Nếu có, xin chia sẻ với anh chị em. 3). Những đau khổ của bạn thường
do những nguyên nhân nào?
TGM.
Ngô Quang Kiệt
|
Phong
Tục Tết của người Việt Nam
Và rồi ai đó đă thành danh, hay đi xa
học hành, công tác… mà chẳng t́m đủ
mọi cách về sống với gia đ́nh ít là trong
ba ngày xuân mới. Là người Việt Nam, những
dịp Lễ Tết, mà không sửa lại được
nấm mồ cho tổ tiên, không sắp được
mâm cơm đạm bạc rước ông bà tổ
tiên về ăn tết, th́ thật là những người
con bất hiếu. Ngày 23 tháng Chạp, người ta
tổ chức tiễn ông Táo về trời, và sau
đó là mời tổ tiên về ăn tết. Trong văn
hóa Việt Nam, chữ Hiếu luôn được
đề cao và trân trọng. Một trong những nét
đặc trưng thể hiện chữ Hiếu
ấy chính là Đạo Ông Bà. I.
Thờ kính tổ tiên
Trong bất cứ một gia đ́nh Việt Nam nào
cũng đều có bàn thờ gia tiên, thường là
ở pḥng khách – nơi trang trọng nhất.
Những gia đ́nh khá giả th́ có tủ thờ, nơi
bài trí bàn thờ gia tiên, có câu đối, có lư hương
ngày đêm đèn nhang nghi ngút khói, có cặp lộc
b́nh với vài cành hoa tươi, có dĩa trái cây…
đặt trước di ảnh hay bài vị của
người đă khuất. Đối với họ,
ông bà tổ tiên không chết, nhưng chỉ đi xa,
khuất núi… hay nói đúng hơn, ông bà hiện
diện với con cháu một cách khác, thiêng liêng hơn,
gần gũi hơn. “Đạo bất viễn nhân”
là vậy. Bất cứ trong gia đ́nh có chuyện ǵ
dù to hay nhỏ, lúc con cháu thi cử, lúc công thành danh
toại, lúc dựng vợ gả chồng, lúc sinh con
đẻ cái, lúc bệnh tật ốm đau…
tất cả đều được cẩn cáo
với tổ tiên, được tổ tiên chứng
giám và chúc phúc. Cuộc sống gia đ́nh có hạnh
phúc, b́nh an, làm ăn phát đạt… cũng chính là
nhờ công đức và sự phù trợ của các
ngài. 1.
Đạo làm người
Việc thờ kính tổ tiên đă trở thành
“Đạo”, bởi đă
bắt nguồn từ những ǵ rất sâu xa trong ḷng
con người. Từ khi mở mắt chào đời,
chúng ta đă được ướp trong tiếng
à ơi của mẹ; chập chững bước
ngắn bước dài, bập bẹ gọi “Ba”.
Bầu trời tuổi thơ bát ngát tuyệt vời,
đó là t́nh mẹ nghĩa cha. Nét bút nào kể
hết được công cha, lời thơ nào toát
được hết tấm ḷng người mẹ!
Kinh Thi có câu:
Phụ hề sanh ngă
Mẫu hề cúc ngă
Ai ai phụ mẫu
Sanh ngă cù lao
Dục
báo thâm ân Hiệu thiên vơng cực. Tạm
dịch là: Cha
thời sanh ta
Mẹ thời nuôi ta
Thương thương cha mẹ
Khó nhọc sanh ta
Muốn báo ân sâu Trời cao không cùng. Đúng
là:
Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra. Cảm
nhận trên là cảm nhận chung của mọi người,
nhưng cũng có thể nói đó là một cảm
nhận rất Việt Nam; hơn ai hết, người
Việt Nam sống trọn vẹn “Đạo biết ơn” này. Dẫu cho bao
nỗi thăng trầm của lịch sử, bao
cuộc kết duyên giữa văn hóa và tín ngưỡng,
“Đạo Ông Bà” vẫn là
nguồn chảy, là tâm hồn của người
Việt Nam. Đặc biệt khi nền văn hóa
Khổng Mạnh đến Việt Nam, Đạo Ông
Bà lại càng được củng cố, càng bám
rễ sâu vào ḷng con dân đất Việt. Chữ “Đạo”
và chữ “Hiếu” đă
giao thoa tạo nên nét độc đáo người dân
ôn hoà trọng t́nh, giàu nghĩa. Phong tục Việt Nam c̣n gắn
liền với tín ngưỡng dân gian Việt Nam, chúng
phát triển sóng đôi và hỗ trợ cho nhau. Đặc
biệt việc cúng tế gia tiên, thờ cha kính
mẹ, từ lâu đă là nét tín ngưỡng độc
đáo của người Việt. Ư thức
được điều này, dưới ánh sáng
của Công Đồng Vatican II, Giáo Hội làm một
cuộc hội nhập, một cuộc trở về
với các truyền thống văn hóa – tín ngưỡng. 2.
Hội nhập văn hóa Lần
đầu tiên trong lịch sử đạo lư, Giáo
Hội có một lối đánh giá thực sự tích
cực về những tôn giáo lớn trên thế
giới. Hơn nữa, những tư liệu về Giáo
hội (Lumen Gentium),
về Truyền giáo (Ad Gentes),
và về Giáo hội trong thế giới hôm nay (Gaudium
et Spes), công bố ư định cứu độ
của Thiên Chúa, ư định này chỉ bị
hạn chế bởi quyết định tà ư của
lương tâm con người mà thôi. Điều này
bao gồm khả thể về một đức tin
– khả thị cứu độ (salvitic reveletion -
fait) đúng nghĩa vượt ra ngoài những
lời mặc khải Kitô giáo.[1]
Giáo hội nhắc nhở: Sống
Phúc âm giữa ḷng dân tộc và phục vụ
hạnh phúc đồng bào.[2]
Th́ ra giữa ḷng dân tộc, Tin Mừng vẫn có
thể trổ hoa, kết trái; không phải là “có
thể” nữa, nhưng là “phải” sinh hoa kết
trái, phải sống động ngay giữa ḷng dân
tộc.
Với tinh thần cởi mở và đối
thoại, Hội thánh nh́n nhận và tôn trọng
mọi giá trị tích cực tiềm tàng trong các
nền văn hóa và các tôn giáo khác.[3]
Nền tảng để Giáo hội trân trọng sâu
sắc các tôn giáo mà thần học gia Rahner cho
rằng rất quan trọng về mặt đạo lư,
được các nghị phụ Công đồng
Vatican II tóm tắt như sau:
Giáo
hội Công giáo không hề phủ nhận những ǵ
là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo.
Với ḷng kính trọng chân thành, Giáo hội xét
thấy những phương thức hành động và
lối sống, những huấn giới và giáo
thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với
chủ trương mà Giáo hội duy tŕ, nhưng cũng
thường đem lại ánh sáng của Chân lư, Chân
lư chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên
Giáo hội rao giảng và có bổn phận phải kiên
tŕ rao giảng Chúa Kitô, Đấng “là đường,
sự thật và sự sống” (Ga 14,6), nơi Người,
con người t́m thấy đời sống tôn giáo
sung măn; và nhờ Người, Thiên Chúa giao hoà
mọi sự với ḿnh. V́ thế, Giáo
hội khuyến khích con cái ḿnh nh́n nhận, duy tŕ và
cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng
như luân lư và những giá trị xă hội, văn
hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác,
bằng con đường đối thoại và
hợp tác cách trân trọng và bác ái với tín đồ
các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của
đức tin và đời sống Kitô giáo.[4]
Những chỉ dẫn trên nói chung về
việc trân trọng giá trị các nền văn hóa và
tôn giáo, nhưng cũng có thể áp dụng cụ
thể cho việc thờ cúng tổ tiên mà chúng đang
bàn tới. Một trong những mối quan tâm hàng
đầu của Giáo Hội ngày nay là vấn đề
hội nhập văn hóa. Làm sao để Tin Mừng
của Đức Kitô không dập tắt đi
những di sản văn hóa, tôn giáo của các dân
tộc; nhưng trái lại, Tin Mừng phải là
nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp
ngăn văn hóa và tôn giáo, phải là ánh sáng các dân
tộc (Lumen Gentium), là ánh
sáng trần gian (Ga 8,12).
Tin Mừng và Văn Hoá tuy khác biệt nhưng không
hề mâu thuẫn và cũng không tách rời nhau. Cá
không thể thiếu nước, cũng vậy không
thể tách rời Tin Mừng ra khỏi Văn Hóa
được. Tin Mừng và Văn Hóa phải giao
thoa và hoà điệu với nhau. Đức Giêsu đă
được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn lên
trong một nền văn hóa cụ thể. Ngài cũng
có một quê hương, một nơi “chôn nhau
cắt rốn” như tất cả mọi người.
Ngài nói, suy nghĩ, ứng xử theo văn hóa Do Thái;
và cũng có thể nói chính nền văn hóa ấy
đă h́nh thành nên một con người Giêsu,
một phong cách Giêsu.
Qua ḍng thời gian, Giáo Hội đă không tránh
khỏi cơn cám dỗ tách yếu tố văn hóa
ra khỏi Tin Mừng, hay là loan báo Tin Mừng mang tính
cách rập khuôn theo một nền văn hóa Tây Phương
nhất định. Bài học quá khứ cho chúng ta
nhận ra rơ ràng hơn rằng văn hoá là địa
hạt sống c̣n qua đó con người gặp
gỡ được Tin Mừng. Văn Hoá không
phải là Tin Mừng, nhưng không thể đem Tin
Mừng đến với con người mà không thông
qua nền Văn Hóa của họ. Đức Phaolô VI
nói: Việc tách biệt Tin
Mừng ra khỏi văn hóa là thảm trạng
của thời đại chúng ta, gây ảnh hưởng
sâu xa trên cả việc rao giảng Tin Mừng lẫn
nền văn hoa.[5]
Việc rao giảng Tin Mừng luôn bao hàm hai yếu
tố cho và nhận. Trước khi loan báo nước
hằng sống cho người phụ nữ bên
bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đă xin chị
nước uống tự nhiên!
Trong vũ điệu của văn hoá và Tin
Mừng, chúng ta phải trân trọng từng nốt
nhạc, từng cử điệu là những giá
trị tinh tuư của nền văn hoá, là truyền
thống các tôn giáo; từ đó mới có thể
khởi đầu một cuộc đối thoại,
cùng nhau nỗ lực t́m về chân thiện mỹ, t́m
ra đâu là chương tŕnh cứu độ của
Thiên Chúa.
Tuy nhiên, trước viễn cảnh một
thế giới đa phức tôn giáo, đặc
biệt là với Á châu, nơi mà Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đang hy vọng một “mùa
gặt đức tin bội thu”,[6]
th́ việc loan báo Tin Mừng gặp không ít khó khăn,
những nỗ lực hội nhập văn hóa
mới chỉ là các bước chập chững
khởi đầu. Lời mời gọi của
Thầy Giêsu: Anh em hăy đi
khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin
Mừng cho mọi loài thụ tạo. (Mc 16,15)
vẫn là một mệnh lệnh khẩn thiết. Chúng
ta phải rao giảng Tin Mừng như thế nào,
đó vẫn là thách đố cho Giáo hội, cho
mỗi người chúng ta hôm nay. Thiết nghĩ,
một cuộc trở về với bản sắc dân
tộc có thể gợi mở một hướng
đi cho công cuộc truyền giáo hôm nay. II.
Lễ gia tiên theo Văn Hoá Việt Nam
Trước hết xin được phân
biệt sự khác nhau giữa lễ
gia tiên và lễ gia thần. Gia tiên là danh từ
chung chỉ cha mẹ, chú bác, ông bà, cụ kỵ,
tổ tiên đă khuất. Dù vắng bóng, nhưng các
ngài vẫn hiện diện gần gũi bên con cháu,
chia sẻ niềm vui nỗi buồn. Con cháu có
nhiệm vụ phải tôn kính, thờ phụng các ngài
cho tṛn đạo hiếu, đạo làm con. C̣n gia
thần th́ khác, có nhà thờ thần này, có nhà
thờ thần kia.
Theo Lễ Kư, gồm có ngũ tự gia thần:
thần Cổng, thần Cửa, thần Bếp,
thần Giếng và thần Trung Lưu (tức thần
giữa sân). Một tài liệu khác coi ngũ tự
gia thần là: Táo Quân (thần Bếp), Thổ Công (thần
Đất), Tiên Sư (thần cai quản về
nghề nghiệp làm ăn), Môn Gia Hộ Uư (thần
giữ cổng), và Nhân Súc Y thần (thần bảo
vệ sức khoẻ người và súc vật).[7]
Ở đây chúng tôi chỉ xin tŕnh bày đôi nét
về lễ gia tiên mà thôi. 1.
Nguồn gốc của tín ngưỡng Thờ Kính
Tổ Tiên
Thờ Kính Tổ Tiên là một tín ngưỡng
truyền thống của người Việt; đây
cũng là một phong tục cổ truyền mang
nặng sắc thái t́nh cảm và trực quan hơn là
lư trí và suy luận. Có thể nói, trên mảnh đất
Việt Nam giàu tính t́nh cảm và tâm linh này, tín ngưỡng
truyền thống thờ kính tổ tiên phát triển
mạnh mẽ. Chúng ta t́m hiểu những yếu
tố căn bản h́nh thành nên “truyền thống
tâm linh” đó. 1.1-
Những yếu tố cơ bản cấu thành
Văn hoá - tín ngưỡng này được h́nh
thành nên từ một yếu tố hết sức nhân
bản: uống nước
nhớ nguồn. Dân Việt Nam rất
trọng lễ, mà trọng lễ th́ ân nghĩa
giữ phần quan trọng. Tổ tiên sinh ra ông bà, ông
bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra ḿnh. Người con
hiếu thảo phải biết công sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ. Hiếu với cha mẹ không
phải chỉ khi các ngài c̣n sống, mà ngay cả khi
các ngài đă khuất. Đức Khổng Tử
dạy rằng: Cư tất chí
kỳ kỉnh, dưỡng tất chí kỳ lạc,
bệnh tất chí kỳ ưu, tang tất chí kỳ
ai, tế tất chí kỳ nghiêm. Nghĩa là:
khi cha mẹ c̣n sống th́ phải kính mến, nuôi dưỡng
các ngài th́ ḷng phải vui, lúc các ngài lâm bệnh th́
phải chạy chữa, lúc các ngài qua đời th́
ḷng phải hết sức đau buồn, và khi cúng
tế các ngài th́ phải hết sức nghiêm trang.
Khi các ngài qua đời, việc cúng giỗ là
biểu hiện mối dây liên đới mật
thiết giữa những người c̣n sống
với những người đă khuất. Cúng
giỗ chính là điểm gặp gỡ giữa
thế giới vũ trụ hữu h́nh và thế
giới linh thiêng. Người sống và người
chết không xa cách nhau, nhưng liên hệ với nhau
một cách vô h́nh qua những những cử chỉ
cụ thể là việc cúng tế.
Cách thực hành trên đă nhanh chóng lan rộng và
bám rễ sâu vào một cơ chế “làng huyết
tộc”. Môi trường “làng” chính là cơ
sở vật chất để tín ngưỡng này phát
triển mạnh. Có thể nói từ thời Văn
Lang Âu Lạc, nhiều bộ tộc đă hợp thành
một “làng” và chung sống với nhau dưới
sự lănh đạo của một “thầy cúng” xưng
là Hùng Vương. Người Việt vốn
hiền hoà, t́nh cảm, lại chung sống cộng
đồng với nhau, suốt đời quanh quẩn
bên luỹ tre làng; cho nên dù sống, dù chết,
họ vẫn gần gũi bên nhau, ấm áp t́nh người.
Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước
ngầm trong mát vẫn măi nuôi sống và nối
kết những tâm hồn Việt Nam giàu t́nh
trọng nghĩa ấy.
Việc thờ kính tổ tiên được
thể hiện qua nhiều biến cố của
cuộc sống, nhưng đặc biệt qua hai
biến cố quan trọng này là ma chay và cưới
hỏi. 1.2-
Việc tang chế và hôn nhân liên quan đặc
biệt đến việc thờ kính tổ tiên
Việc tang chế đối với người
Việt Nam mang một ư nghĩa rất quan trọng.
Con người được quư trọng không
phải chỉ khi c̣n sống mà ngay cả khi đă
chết. Sau khi lo những nghi thức chôn táng, con cháu
phải lập bàn thờ để thờ cúng ông bà
hay cha mẹ. Trong ba năm đầu, con cháu phải
đặc biệt cúng giỗ những ngày như:
giỗ 49 ngày gọi là cúng Tứ Cửu hoặc cúng
Thất Thất [8],
giỗ 100 ngày gọi là cúng Bách Nhật [9],
giỗ Tiểu Tường tức là giỗ một năm
sau ngày chết, giỗ đầu; giỗ Đại Tường,
tức là giỗ hai năm sau ngày chết, gọi là
giỗ hết khó; và sau ba năm th́ làm lễ giỗ
Măn Tang. Sau khi giỗ Măn Tang, không phải là con cháu
hết phải lo việc cúng tế, nhưng luôn
phải nhớ đến ông bà tổ tiên vào
những ngày đầu tháng, ngày rằm, cuối tháng
và đặc biệt là ngày mất của các ngài.
C̣n về việc hôn nhân, đúng ngày cưới,
người ta chọn giờ hoàng đạo mới
đi đón dâu, thường là về chiều, có nơi
đi vào chập tối. Trước khi đi đón
dâu, chú rể phải làm lễ gia tiên trước bàn
thờ nhà ḿnh cùng với cha mẹ. Lễ gia tiên
phải lạy bốn lạy rưỡi, tức
bốn lạy và một xá, c̣n đối với cha
mẹ th́ lạy hai lạy rưỡi. Việc lễ
gia tiên mang ư nghĩa: tŕnh bày việc hôn nhân với
ông bà tổ tiên, xin ông bà chứng giám, và phù hộ
cho các cháu; c̣n việc lễ cha mẹ là đền
ơn sinh thành, dưỡng dục và dựng vợ
cho ḿnh.
Bên họ nhà gái, khi đám rước dâu
tới ngơ, họ nhà gái mời nhà trai vào nhà, cho
đặt đồ lễ lên giường thờ.[10]
Nhà gái kiểm lại đồ thách cưới,
đồ lễ đủ, nhà gái cho thắp hương
để chú rể và cô dâu cùng lễ gia tiên. Không
phải ai cũng thắp hương được,
phải là bố, anh trai hoặc em trai cô dâu thắp.
Nếu anh trai hay em trai thắp hương, nhà trai
phải tặng thêm một món tiền nữa, gọi
là tiền thắp hương. Chú rể vào lễ bàn
thờ gia tiên nhà vợ bốn lễ rưỡi, sau
đó cô dâu lễ theo. Thường th́ hai người
không bái cùng một lúc, nhưng ngày nay có sự thay
đổi, cô dâu chú rể cùng bái một lượt.
Chú rể th́ “bái gối” c̣n cô dâu th́ “ngồi
vẹt”. Hai người chờ nhau lễ bái cho
nhịp nhàng.
Những việc làm trên làm nổi bật
chữ “Lễ” trong văn hóa-tín ngưỡng
của người Việt. Hai chữ “hiếu
– hỷ” tuy thể hiện hai trạng thái
buồn vui khác nhau, nhưng cả hai nói lên sự liên
đới mật thiết giữa các bậc tổ tiên
và con cháu trong mọi chuyện vui buồn của
cuộc sống. 2.
Những nét đặc trưng của buổi lễ
gia tiên 2.
1- Tinh thần và lễ vật cúng gia tiên
Đây là một buổi lễ mang tính thuần túy văn
hoá và tín ngưỡng dân tộc. Như ta đă
biết, việc hiếu kính đối với chư
đấng tiên linh là việc phải hết sức
trân trọng. Đức Khổng Phu Tử dạy
rằng “tế tắc chí kỳ nghiêm” là vậy.
Do đó, tuy buổi lễ mang tính gia đ́nh và
đơn sơ thân thiện nhưng không kém phần
trang nghiêm kính cẩn.
Lễ vật cúng gia tiên không cần mâm cao cỗ
đầy, nhưng thường th́ gồm những
thứ như: hương đăng (đèn nến),
trầm trà (không có th́ không thành lễ cúng), trầu
cau, rượu, hoa quả, cỗ ngọt (như xôi chè,
oản chuối…), cỗ mặn, nước lạnh,
và có khi thêm vàng mă. Tuỳ theo từng lễ cúng mà
sử dụng hoặc một, hoặc hai ba hay tất
cả những lễ vật trên. Như vậy,
nhiều khi lễ vật chỉ là chén cơm
trắng và vài chén rượu lạt, tổ tiên cũng
vui ḷng chứng giám; điều quan trọng là
tấm ḷng thành của con cháu đối với các
ngài mà thôi. Tấm ḷng thành đó thể hiện qua
những lễ vật thanh khiết và được
dành riêng; cỗ bàn nấu xong, cúng gia tiên trước,
con cháu mới được ăn sau. Có những trường
hợp, người gia trưởng chưa kịp làm
lễ cúng v́ nhiều món ăn chưa sửa soạn
xong, th́ những món ăn đă nấu xong rồi
phải múc để dành riêng cho việc cúng tế. 2.
2- Nghi thức cáo gia tiên
Có những buổi lễ diễn ra đơn giản
ngắn gọn, cũng có những buổi long
trọng, chi tiết nhiều hơn. Nhưng thường
th́ việc cúng bái tổ tiên phải do gia trưởng.
Gia trưởng làm chủ mọi lễ nghi trong gia
đ́nh. Sau khi đồ lễ đă được
đặt trên bàn thờ, gia trưởng khăn áo
chỉnh tề, thắp hương cắm lên b́nh hương,
rồi đứng trước bàn thờ khấn. Trước
khi khấn gia trưởng vái ba vái, và khi khấn xong
gia trưởng lễ bốn lễ thêm ba vái, ta
gọi là bốn lễ rưỡi. Bàn thờ lúc
đó phải có thắp đèn hoặc nến.
Cũng có nhà có đỉnh trầm, th́ đỉnh
trầm được đốt trước, khi cúng
gia trưởng chỉ việc khấn vái thôi. C̣n
nếu thắp hương trên bàn thờ, th́ bao
giờ cũng phải thắp theo số lẽ, v́
số lẻ thuộc âm.
Sau khi gia trưởng khấn lễ xong, các người
khác trong gia đ́nh, ngoại trừ các trẻ nhỏ
cùng lần lượt tới lễ trược bàn
thờ bốn lễ rưỡi. Thường th́
chỉ cần vợ gia chủ và một vài người
nữa lễ là đủ, trừ phi đó là lễ
giỗ th́ mới cần đầy đủ mọi
người.
Ngày này, nơi các đô thị, người ta
lấy vái thay lễ. Trước khi khấn, người
ta vái ba vái ngắn, khấn xong vái thêm bốn vái dài
và ba vái ngắn nữa tay cho bốn lễ rưỡi.[11]
Chúng ta bàn thêm việc lễ tạ nữa. Sau khi
mọi người đă lễ vái xong, chờ cho tàn
một tuần hương, gia trưởng đến
trước bàn thờ lễ tạ. Gia trưởng
sẽ thắp thêm mấy nén hương nữa,
lấy vàng mă trên bàn thờ đem hóa, tức là
đốt đi. Lúc hóa vàng, người ta thường
rưới chén rượu cúng vào đấy.[12]
Lúc này con cháu có thể hưởng lộc của ông
bà, mọi người chia sẻ cho nhau những
thức ăn đă được cúng tế.
C̣n về bản văn cúng tế, th́ tuỳ theo hoàn
cảnh và những dịp lễ mà thảo ra
những bài văn tế khác nhau. Văn tế thường
viết bằng chữ Hán, hoặc là chữ Việt
âm Hán; tuy nhiên cũng có thể viết bằng
chữ Quốc Ngữ, miễn rằng trong bài văn
khấn phải nói rơ ngày tháng, lư do, liệt kê
lễ vật, và những điều xin nếu có.
Xin được trích dẫn bài văn
tế điển h́nh [13]:
Tuế
thứ Kỷ Măo niên, Xuân thiên, chánh nguyệt, Nguyên
Đán. Tự tôn Hồng Bàng Học Sĩ, nguyên quán
Việt Nam quốc, Nam kỳ xứ, Gia Định
tỉnh. Hiện thường trú tại Sài Côn
thị, Phú Nhuận quận, Đa Minh Học viện. Nhân
phùng Xuân nguyên chí tiết, cảnh vật giai hoan,
vị thử thiết lập tự đường,
cung trí lễ nghi tại bản gia, cung thỉnh chư
tiên tổ.
Cao, tằng, tổ khảo; cao, tằng, tổ tỷ,
bá, thúc, huynh, đệ, cô, d́, tỷ muội đẳng,
chư hương hồn đồng lai lâm từ
đường chứng giám.
Chấp kỳ bạc lễ, hiến măn tam tuần.
Cầu thỉnh bảo hộ chư tôn, gia đ́nh
tứ thời cát khánh, bát tiết an khang, phúc lai tai
khứ.
Vạn vọng. Cẩn cáo [14]
Dịch nghĩa: Hôm
nay là ngày Nguyên Đán, tháng giêng, mùa xuân năm
Kỷ Măo. Cháu (trưởng nối ḍng) là Hồng Bàng
Học Sỹ (họ Hồng Bàng, tên là Học Sĩ).
Nguyên quán ở tỉnh Gia Định, xứ Nam
kỳ, nước Việt Nam . Hiện thường trú
tại Học viện Đa Minh, thuộc quận Phú
Nhuận, thành phố Sài G̣n.
Nay nhân dịp tiết đầu xuân năm mới,
cảnh vật đều tươi vui, v́ thế xin
trần thiết tự đường, trưng bày
nghi lễ, cung kính thỉnh cầu chư tổ tiên
liệt vị:
Cao, tằng, tổ khảo; cao, tằng, tổ tỷ,
bá, thúc, huynh, đệ, cô, d́, tỷ, muội.
Tất cả chư hương hồn cùng đến
nhà thờ tổ tiên chứng giám cho.
Xin vui hưởng ba tuần rượu, chấp
nhận lễ mọn đạm bạc này. Cầu
mong chư tiên linh bảo hộ cho gia đ́nh chúng cháu,
bốn mùa vui đẹp, tám tiết b́nh an, tai qua phước
đến.
Muôn trông. Cẩn cáo. 2.3-
Đôi nét bài trí án thờ
Án thờ gia tiên phải phải được
sắp đặt ở một nơi trang trọng
nhất trong nhà. Thường có hai cái bàn, bàn ở
phía ngoài cao hơn, trên đó đặt lư hương,
và hai bên là hai giá đặt đèn[15].
Lư hương thường có bầu h́nh tṛn tượng
trưng cho bầu thái cực.[16]
Những nén hương thắp lên mùi trầm nghi ngút,
tàn hương nhấp nháy tượng trưng cho
những tinh tú trên trời. Hai cây đèn hai bên tượng
trưng cho hai vầng sáng lớn, nhật nguyệt
quang minh. Trên án thờ c̣n có b́nh bông tượng trưng
cho những tinh anh của trời đất. Sau lư
hương đặt một b́nh phong nhỏ, ư
mốn che đậy những điều sai quấy
của con cháu để linh hồn những người
quá cố được an b́nh. C̣n cái bàn nhỏ
thấp hơn, đặt ở phía trong gọi là giường
thờ, phía dưới trải bốn chiếc
chiếu để các vị tế lễ phủ
phục lễ bái.
Việc bài trí bàn thờ có thể treo thêm câu
đối hai bên, bức hoành phi và bài vị.[17]
Những bài trí này không phải theo ngẫu hứng nhưng
đều phải mang nét cân đối âm dương,
phù hợp với tinh thần văn hoá của người
Việt Nam. Kết
Luận
Chúng ta đang bàn về tín ngưỡng thờ
phụng tổ tiên với ư hướng trở
về nguồn t́m lại bản sắc dân tộc và
hội nhập Tin Mừng vào đó. Những bài
học lịch sử c̣n ghi lại tâm thức của
lương dân khi họ được nghe rao
giảng Tin Mừng, đó là một tâm thức nghi
kỵ, phản kháng v́ Kitô Giáo không cho họ thờ
kính chính tổ tiên của ḿnh. Ngày nay, những
cảm thức như vậy có lẽ không c̣n nữa,
lương – giáo tôn trọng và hiểu nhau hơn.
Giáo Hội nỗ lực đem Tin Mừng hội
nhập vào các nền văn hóa, trân trọng và đón
nhận tất cả những cái hay, nét đẹp
của các truyền thống văn hóa – tín ngưỡng.
Tuy nhiên chúng ta không quá ngây thơ chuyển từ
cực này sang cực khác, không phải bất cứ
nét văn hoá nào cũng có thể đưa vào Kitô
Giáo, cần phải sáng suốt, nhạy bén và
chọn lọc. Đây là một điều nan
giải cho tiến tŕnh hội nhập văn hoá
của Giáo Hội; làm sao một mặt vẫn
giữ được căn tính của ḿnh, bảo
vệ những nét tinh ṛng của đạo lư;
mặt khác luôn cởi mở, đối thoại, và
đón nhận những tinh hoa từ các nền văn
hóa và tín ngưỡng khác.
Đạo Ông Bà thiết
tưởng chính là cốt lơi tinh tuư của tâm
hồn người Việt Nam. Chúa có dạy điều
ǵ khác đâu, đó cũng là yêu cha kính mẹ.
Phụng Vụ Giáo Hội cũng dành ngày mồng hai
tết để cầu cho tổ tiên, và đặc
biệt dành nguyên tháng mười một để
cầu nguyện, tưởng nhớ đến các
linh hồn. Hơn nữa, hằng ngày trong mọi thánh
lễ, Giáo Hội đều có lời cầu
nguyện cho ông bà tổ tiên. Sự trùng phùng hội
ngộ giữa Kitô Giáo và Đạo
Ông Bà của người Việt Nam là điều
khả thi lắm. Từ một thái độ cung kính,
một tấm ḷng thành khi cúng tế gia tiên, đến
một tinh thần cầu nguyện sâu xa cho tiên
tổ của ḿnh trong những giờ kinh, trong Thánh
Lễ Misa, đó chẳng phải là điều đáng
mong lắm sao? Quốc Văn, OP [1]
Xc. Thời sự Thần Học, số 23, tháng
3/2001,tr. 63-64. Rahner 1980, tr. 327. [2]
Thư chung của Hội đồng giám mục
Việt Nam , năm 1980. [3]
Xc. Vat. II, Hiến chế
Hội thánh, số 16; và Sắc
lệnhTruyền giáo, số 9. [4]
Nostra
Aetate,
số 2. [5]
Xc. Ecclesia in Asia, số 21. [6]
Ecclesia
in Asia,
số 1. [7]
Xc. Tân Việt, Phong tục
cổ truyền Việt Nam, tập văn cúng
gia tiên, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc,
1994. tr. 12. [8]
Việc cúng 49 ngày có ư nghĩa: người ta quan
niệm con người gồm hai phần: xác và
hồn. Phần hồn có 3 hồn và 7 vía đối
với đàn ông, đàn bà th́ 3 hồn 9 vía. Khi
chết, phần xác phân huỷ, c̣n phần hồn th́
mỗi tuần bay đi một vía và 7 tuần (49 ngày)
th́ bay hết 7 vía. Linh hồn c̣n lại th́ bất
tử. C̣n đối với đàn bà, dù là 9 vía, nhưng
vẫn cúng giỗ 49 ngày, điều này chưa
thấy sách nào giải thích rơ ràng cả (Xc.
Nguyễn Nghĩa Nguyên, tr. 30-31) [9]
V́ người ta quan niệm rằng, được
100 ngày, vong hồn người chết đă quen
với sinh hoạt ở âm giới, không phải
về nhà ăn cơm nữa (Xc. Sđd). [10]
“Giường thờ” là một cái bàn nhỏ đặt
ở phía sau bàn thờ gia tiên, nơi để trưng
bày lễ vật cúng gia tiên. [11]
Xc. Toan Ánh, Phong tục thờ cúng
trong gia đ́nh Việt Nam, tr. 9-10. [12]
Việc làm này được các cụ giải thích
là có như vậy người khuất mới
được hưởng số tiền vàng người
sống gởi tới, vàng mă mới có thể
biến thành tiền thật của cơi âm được
(Sđd tr. 11). [13]
Đây là bài văn tế do thầy Nguyễn Gia Tường,
giáo sư Hán Văn làm, Anh em Học viện Đa Minh
đă tế lễ gia tiên vào dịp mừng xuân
Kỷ Măo, 23 tháng Chạp năm Mậu Dần,
tại Trung tâm sinh hoạt Đa Minh, 190 Lê Văn
Sỹ, Phú Nhuận, Tp. HCM. [14]
Bài văn tế viết trên giấy màu vàng, đọc
xong rồi đốt. Khi đốt sớ, mọi người
cùng chú mục vào ánh lửa linh thiêng ấy. Nhớ
phải đốt sao cho cháy hết tờ sớ,
dừng sót lại chút nào, nếu sót lại tức là
dâng cho tổ tiên sớ rách, như thế là
thiếu ḷng tôn kính đối với chư vị. [15]
Chúng ta c̣n thấy những tên gọi khác như:
bộ tam sự: gồm đỉnh hương,
hộp lạp hương đựng trầm, và
một bộ đồ xúc và khêu trầm; ngũ
sự: thêm hai cọc cắm nến hoặc để
dĩa đèn dầu; thất sự: thêm hai lọ
lộc b́nh hoặc đôi hạc. [16]
Người ta quan niệm rằng “thiên
viên địa phương”- “trời
tṛn đất vuông”. Bầu thái cực chính là
“trời tṛn” ấy. [17]
Người Công Giáo không đặt bài vị trên Bàn
Thờ Gia Tiên, mà thay vào đó là bức ảnh
của người quá cố. Đây cũng là
một nét sáng tạo trong việc hội nhập văn
hóa. |
Mời xem Video CHO CON LÀ NẾN SÁNG của Alpha Linh (Nhóm Cát Trắng & Thiên Thần) Linh xướng: Trần Ngọc và Khánh Linh (Sau 15 giây vẫn chưa thấy hát xin ấn vào F5 hay Refresh) |