Lời Chúa Hàng Tuần

Ngày 27 tháng 3 năm 2011

CÁI KHÁT CỦA CON NGƯỜI - NHỊP CẦU THIÊNG LIÊNG

Quí vị đang nghe  HÀNH TRANG NGƯỜI TRẺ của Hoàng Đức (Duy Quang hát & giới trẻ phụ hoạ)

(Sau 15 giây vẫn chưa thấy hát xin ấn vào F5 hay Refresh)

 

CÁI KHÁT CỦA CON NGƯỜI

   Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III Mùa Chay, đặc biệt bài đọc thứ nhất (Xh 17,3-7) và bài Tin Mừng (Ga 4,5-42) hướng chúng ta đến chủ đề “nước”. Đi trong sa mạc, dân Chúa xưa đă nổi loạn với Môsê v́ thiếu nước và Thiên Chúa đă ban cho họ nước chảy ra từ tảng đá tại Horeb. Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu đă dừng chân bên giếng nước Giacob, Ngài đă xin một phụ nữ Samaria chút nước và Ngài hứa ban cho chị ta nước trường sinh.

   Nói đến nước là nói đến một trong những nhu cầu căn bản của con người xét như loài có sự sống. Thiếu nước là như sự chết đang cận kề. Người ta có thể vượt qua những thiếu thốn của cải, tiện nghi… và người ta cũng có thể chịu đựng cái đói trong một thời gian khá dài, trên dưới một tháng, thế nhưng không một ai có thể cầm cự với cái khát quá dăm bảy ngày. Chính v́ thế mà việc đáp ứng nhu cầu khát nước trở thành một việc cấp thiết mang tính sống c̣n. Vượt trên các loài sinh vật bậc thấp, loài người chúng ta ngoài cái khát tự nhiên là khát nước th́ c̣n có nhiều nổi khát xuất phát từ nhu cầu của sự phản tỉnh hay sự tự nhận biết về hiện hữu của ḿnh.

A_ Những cái khát của kiếp nhân sinh:

   1.- Khát mong được nh́n nhận: Tôi là một con người. Đây là một chân lư hiển nhiên. Thế mà vẫn đă từng có, trong quá khứ và ngay cả hôm nay, rất nnhiều người chưa được nh́n nhận như là một con người. Đó là trẻ em, phụ nữ, người nô lệ, người bất hạnh, quả phụ, cô nhi, ngoại kiều, người nghèo hèn, kém phận… Đọc Cựu Ước, chúng ta thấy rơ hiện tượng này. Các Ngôn sứ đă không ngừng lên tiếng về đề tài này. Người phụ nữ bên bờ giếng Giacob phải chăng không là ngoại lệ. Dù đă năm đời chồng và hiện đang sống với người thứ sáu, thế mà có thể chị chưa được nh́n nhận như là một người vợ? Phải chăng chị vẫn c̣n bị xem như một thứ “sở hữu” của người chồng?

   Khi sinh thời mẹ Têrêxa thành Calcutta gặp gỡ rất nhiều người bất hạnh, xấu số. Sau khi gặp mẹ, họ đă từng tâm sự rằng: họ măn nguyện v́ cho dẫu chưa được sống như một con người th́ họ cũng đă được chết như một con người. Chúa Kitô mạnh mẽ tuyên bố rằng không cần đă giết người th́ mới bị đoán phạt, nhưng nếu loại bỏ tha nhân từ trong tâm trí và lối ứng xử của ta tức là không nh́n nhận tha nhân như là một con người th́ ta cũng đă đáng bị trừng phạt (x.Mt 5,21-22).

   Người ta không chỉ khát khao được nh́n nhận như một con người mà con mong được nh́n nhận như là một người khác. Điều này nói lên sự độc lập, khác biệt của tha nhân đối với ta. Ngay cả trong đời sống hôn nhân, dù nỗ lực làm cho “ḿnh với ta tuy hai mà một” nhưng họ vẫn phải luôn ư thức để tôn trọng sự thật “ta với ḿnh tuy một mà vẫn là hai”. Quả thật người ta sẽ chẳng c̣n là chính ḿnh một khi bị đồng hóa do bởi một ai đó hay bởi một thế lực nào đó.

   2.- Khát mong được chấp nhận và được đón nhận: Được nh́n nhận như là một con người, như là một người khác vẫn chưa đủ nếu ta không được kẻ khác chấp nhận và đón nhận. Từ đáy sâu thẳm của từng người, luôn có đói khát mong được tha nhân chấp nhận và đón nhận ḿnh như ḿnh đang là, đang có. Một trong những lẽ sống của con người là khi thấy ḿnh c̣n có giá trị, đang c̣n hữu ích cho ai đó. Và điều này được chứng thực khi tha nhân chấp nhận và đón nhận ta. Khi t́m hiểu nguyên nhân khiến cho nhiều người, kể cả giới trẻ t́m đến cái chết bằng sự tự vận th́ người ta nhận ra một trong những nguyên nhân chính đó là v́ họ mang mặc cảm bị người chung quanh khước từ.  

   Con người chúng ta thường bị cám dỗ chấp nhận hay đón nhận kẻ khác “với điều kiện”. Người ta phải thế này, phải thế kia th́ tôi mới nhận, mới tiếp. Có những điều kiện mang tính khách quan, nhưng cũng không thiếu những điều kiện mang tính chủ quan hoặc duy ư chí. Điều này mặc nhiên nói lên rằng ta sẽ chỉ nhận nhau khi hội đủ điều kiện theo ư ḿnh và nếu v́ lư do ǵ đó mà không đủ điều kiện th́ sẽ bị loại trừ.

B_ Chúa Kitô: Đấng giải khát cho nhân loại:

   Chị cho tôi xin chút nước uống”. Khi mở miệng xin người phụ nữ chút nước, Chúa Giêsu nh́n nhận sự hiện hữu của chị và cả sự cần thiết của chị. Tin mừng tường thuật Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt, Ngài đang cần nước uống và Ngài không có gầu. Như thế việc Ngài xin chị phụ nữ cho chút nước là một việc tự nhiên, rất thật của đời thường. “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống sao?”. Không đơn thuần là câu hỏi vặn ngược mà thực chất là lời khẳng định của chị: Dù là Samaria, dù là phụ nữ, th́ tôi cũng là một con người như ông và ông đang cần tôi. Chị Samaria đă được giải khát, môt cái khát nền tảng của kiếp nhân sinh là được nh́n nhận.

   Đến mà xem: có một người đă nói với tôi tất cả những ǵ tôi đă làm”. Lời giới thiệu của chị phụ nữ với dân làng đă nói lên sự thỏa khát vô bờ của chị. Chị đă được Chúa Giêsu đón nhận như chị đang là, dù chị đă trăi đời với năm người đàn ông và đang chung sống bất chính với người thứ sáu. Mà chắc ǵ người thứ sáu này sẽ nhận chị! Chúng ta đừng quên thời bấy giờ hiếm có chuyện đàn bà bỏ đàn ông mà ngược lại.

   Các Ngôn sứ thường lên án tội lỗi của dân Chúa xưa và loan báo các h́nh phạt họ phải chịu. Thế nhưng sau đó lại gợi mở về sự khoan dung tha thứ của Chúa. “Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín, chúng được kêu mời hăy vươn lên, mà chẳng một ai ngóc đầu dậy! Hỡi Ephraim, Ta từ chối ngươi sao nỗi! Hỡi Israel, Ta trao nộp ngươi sao đành!...Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11,7-8). Mọi người và mỗi người đều có chỗ đứng trong Trái Tim Cực Thánh của Đấng Cứu Độ. Không một ai là đồ bỏ đi. Bất cứ ai cũng đều được Thiên Chúa đón nhận, chỉ trừ khi họ cố t́nh khước từ. V́ đó là tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 12,32).

Ai khát, hăy đến với tôi, ai tin vào Tôi, hăy đến mà uống! Như Kinh Thánh đă nói: Từ ḷng Người, sẽ tuôn chảy những ḍng nước trường sinh” (Ga 7,38). Biết bao con người đang khát ở quanh ta. Là Kitô hữu, ước ǵ chúng ta góp phần giải khát cho tha nhân khi nh́n nhận nhau, chấp nhận nhau và đón nhận nhau ngay trong hiện trạng của nhau.

   Lm Nguyễn Văn Nghĩa

 

 

NHỊP CẦU THIÊNG LIÊNG

   Từ khi cầu Mỹ Thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền ḍng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên Chúa.
  
Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đă bắc những nhịp cầu nối liền ḍng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Ngái là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Ngài chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.
  
Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nh́n Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một gă Do Thái bẩn thỉu. C̣n tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi ră rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm ḿnh, v́ chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. V́ nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có.  Người phụ nữ có giếng nước, có cả b́nh múc nước. Chị c̣n có gia đ́nh. Chị c̣n có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm ḿnh.
  
Nhưng Đức Giêsu đă phá tan sự an thân giả tạo của chị. Ngài cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, v́ giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Ngài cho chị thấy hạnh phúc gia đ́nh mà chị đang có chỉ là hư ảo, v́ hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Ngài cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, v́ đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Thiên Chúa ngự bên trong.
  
Trong phút chốc, chị trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng ḿnh có tất cả. Nay chị thấy ḿnh trắng tay. Trước kia chị tưởng ḿnh giàu có. Nay chị nhận thức rơ ḿnh thật nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy ḿnh trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng.
  
Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn. Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù x́ cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.
  
Th́ ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ h́nh thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hăy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách: “Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư ?”  Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nh́n ra người đối diện cao cả hơn tổ phụ Giacóp. Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Ngài là một tiên tri. Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Ngài. Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả b́nh, chạy về làng báo tin vui. Chị để quên chiếc b́nh, v́ chiếc b́nh từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc b́nh, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.
  
- Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong ḍng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.
  
- Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.
  
- Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc b́nh múc nước, v́ bên kia cầu chị đă có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, v́ bên kia cầu chị đă găp được t́nh yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, v́ bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lư. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.
 
  
Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng ḿnh là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống: "con ǵ mà khủng khiếp quá nhỉ". "Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà". Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.
  
Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đă trút bỏ mọi gánh nặng kéo tŕ đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. C̣n ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn c̣n bên này cầu. Những ǵ người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn c̣n ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn ḍng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức h́nh thức, giả hiệu vẫn c̣n che chắn không cho ta nhận biết chính ḿnh. Và v́ thế ta không bao giờ gặp được Thiên Chúa.
 
  
Xin Lời Thiên Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt ĺa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức h́nh thức. Xin Lời Thiên Chúa tháo đi những tảng đá tŕ trệ, để ḍng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để t́nh yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.
 
GỢI Ư CHIA SẺ

1). Đức Giêsu đă thành công trong việc đưa người phụ nữ Samaria về nhận biết chân lư. Ta có thể học hỏi được ǵ ở nơi Ngài để thành công trong việc truyền giáo?
2). Đang thoả măn với vật chất, người phụ nữ Samaria chợt thấy thiếu thốn về mặt tâm linh. Đây là một cuộc hoán cải quan trọng, là một ơn Thiên Chúa ban. Bạn đă bao giờ được ơn sám hối để thấy khao khát đời sống tâm linh chưa?
3). Đă bao giờ bạn cảm thấy Đức Giêsu là nguồn suối trong lành, là nguồn mạch hạnh phúc của bạn?

   TGM. Ngô Quang Kiệt