Lời Chúa Hàng Tuần

Ngày 26 tháng 9 năm 2010

PHÚ HỘ & LAZARÔ - TIỀN BẠC - LIÊN ĐỚI - CÓ MỘT VỰC THẲM

    

Quí vị đang nghe V̀ XƯA TA ĐÓI của Lm Thành Tâm (Thúy Hồng & Lm Nhật Huy hát)

 
1.- TIỀN BẠC

   Tại sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục? Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy v́ con tim ông đă trở thành chai đá. Mặc dù sống trên nhung lụa, ăn sang mặc quư, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một chút của bố thí dư thừa.

   Xem thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng đáng với phẩm giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu. Thế nhưng ngoài mục đích đó ra chúng ta c̣n có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đă bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một ḿnh. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song v́ khi chúng ta thương giúp người khác là chúng ta thương giúp cho chính Thiên Chúa. Khi chúng ta làm phúc bố th́ là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho ḿnh một kho tàng ở đời sau. Để giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ư nghĩa của câu chuyện này, là hăy biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho ḿnh những bè bạn, sẽ bênh vực và giúp đỡ chúng ta bước vào quê trời:

   Ông chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng, đưa mắt nh́n vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn, nhưng không được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đă khám qua các túi và hài ḷng v́ không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm lạ v́ thấy hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm một cái ǵ đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn hỏi. Hai em đành phải thú nhận rằng ḿnh có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sau đó sẽ lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đă hành động khôn ngoan và cho phép hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.

   Hai em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. C̣n thửa vườn là thế gian, nơi chúng ta đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được, chẳng hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta không thể đem theo khi giă từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách hành động, để ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hăy biết chia sẻ phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những người túng thiếu...

   Điều này Thiên Chúa không cấm mà c̣n khuyến khích chúng ta nữa, bởi v́ trong ngày phán xét Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đă cho ăn; khi Ta khát các ngươi đă cho uống; khi Ta ḿnh trần, các ngươi đă cho mặc; khi ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đă viếng thăm… Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ xứng đáng là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu. Bởi v́ giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc sống mai sau.

2. LIÊN ĐỚITGM Ngô Quang Kiệt

  Toàn cầu hóa đă giúp nhân loại phát triển t́nh liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không c̣n của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người chính là cứu ḿnh. V́ một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà c̣n là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đă nhiều lần nhắc đến t́nh liên đới. Phải liên đới v́ mọi người đều là anh em với nhau. Phải liên đới v́ đó là điều kiện vào Nước Trời.

  Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có  lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất măn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu có tội ǵ mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?” Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đă cho ta thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hăy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.

  Nguy cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn. Khi đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đă ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đă trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa cũ.

  Nguy cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá. Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào t́nh trạng tự măn. Tự măn với những ǵ ḿnh có, người giàu sẽ không cần tới ai khác và v́ thế sẽ không chú ư đến những người chung quanh. Đó là  trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đ́nh. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nh́n thấy. Ladarô có rên rỉ v́ đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự măn đă khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc ǵ. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự măn đă biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu t́nh liên đới.

  Nguy cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là  làm cho ta mất hạnh phúc đời đời. Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong t́nh yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. T́nh yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi là một t́nh yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lănh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. V́ thế, người ích kỷ là người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa ḷng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn ḿnh. Người sống thiếu t́nh liên đới là người tự trục xuất ḿnh ra khỏi Nước Trời.

  Bây giờ th́ chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không có tội ǵ. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót t́nh liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn ḿnh với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết ḿnh cần Ladarô cho ḿnh một giọt nước th́ đă trễ. T́nh liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không c̣n cơ hội nữa. Qua dụ ngôn này, Thiên Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. V́ thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh ḿnh. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.

  Lạy Chúa, xin mở mắt con để con nh́n thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.

  KIỂM  ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1) Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?

  2) Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi có ư thức điều đó không?

  3) Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?

  4) Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục?

3. CÓ MỘT VỰC THẲM

   Suy Niệm: Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới c̣n lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển. Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài.

   Khi nh́n sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới. Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn. Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, v́ không được hưởng ǵ từ các bàn tiệc rơi xuống. Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô, nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời. Tiện nghi vật chất đă thành bức tường kín. Ông sống an toàn măn nguyện trong khoảng không gian riêng. Chính ông đă tạo ra một vực thẳm ngăn cách.

   Không cần Thiên Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em. Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài măi đến đời sau. Hỏa ngục là sự tự cô lập ḿnh không thể đảo ngược được. Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do chính con người đă tạo ra từ đời này. Ông nhà giàu bị phạt, không phải v́ ông đă bóc lột ai, nhưng v́ ông không bị sốc chút nào trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô. Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải. Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo, nhưng không muốn loại bỏ sự bất b́nh đẳng. Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công, và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết. Ông nhà giàu bị phạt không phải v́ ông đă nhận nhiều, nhưng v́ ông đă không san sẻ những ǵ ḿnh nhận. Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu. Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.

   Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự măn, hưởng thụ, bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận. Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác: giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng, giàu sức khỏe, giàu t́nh bạn t́nh yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa. Hăy tập nh́n xuống để thấy bao người dưới ḿnh. Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng ḿnh.

   Ước ǵ chúng ta để cho Lời Thiên Chúa hoán cải, để thấy trách nhiệm của ḿnh trước những Ladarô nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm... Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.

  Gợi Ư Chia Sẻ: Theo ư bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến sự chênh lệch lớn lao giữa kẻ giàu người nghèo? Có cách nào làm giảm bớt sự chênh lệch đó không? Nếu bạn là Bill Gates, với tài sản 50 tỉ đô la, bạn có muốn làm ǵ cho người nghèo trên thế giới không?

  Cầu Nguyện: Lạy Cha, xin cho con ư thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn. Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lăng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của ḷng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xă  hội.

  Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, v́ Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới c̣n nhiều người đói nghèo là v́ chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen. 

4. HAI KHUÔN MẶT TRÁI NGƯỢC NHAU

   Suy Niệm: Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy. Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau. Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, v́ ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách. Ladarô đă chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết. Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Không phải chỉ v́ giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng v́ ông đă khép cửa và khép ḷng, đă ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đă không chấp nhận chia sẻ điều ḿnh có dư thừa. Ông nhà giàu hẳn đă thấy Ladarô, nhưng đă sống như thể không có anh ta, v́ ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của ḿnh. Không phải chỉ v́ nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong ḷng tổ phụ Abraham, nhưng v́ anh chấp nhận số phận hẩm hiu của ḿnh, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.

   Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.  Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xă hội, giàu đời sống thiêng liêng. Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nh́n nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nh́n nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi. Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, th́ chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên măn trong nhân cách. Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá. Chỉ Lời Thiên Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở ḷng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

   Gợi Ư Chia Sẻ: Con người chỉ trưởng thành khi biết quên ḿnh và quảng đại hiến ḿnh phục vụ tha nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành của ḿnh dựa trên nguyên tắc đó không? Ai cũng giàu có về một phương diện nào đó. Bạn thấy ḿnh giàu có về mặt nào? Bạn có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?

   Cầu Nguyện: Lạy Chúa, xin cho con nh́n thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đ́nh con, đang cần đến con. Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ. Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo v́ cần thấy đời họ có ư nghĩa. Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân ḿnh cũng nghèo và cần đến người khác. Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.

   Cám ơn Chúa v́ đă dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có. Cám ơn Chúa v́ Chúa cũng nghèo, v́ Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công tŕnh cứu độ. Xin cho con khiêm tốn nhận ḿnh nghèo để nhận lănh, can đảm nhận ḿnh giàu để hiến trao. Amen.

5. MÔI TRƯỜNG ĐỨC TIN

  Phần đầu dụ ngôn người phú hộ xấu tŕnh bày dưới một h́nh thức bóng bảy lời giảng dạy mà các ngôn sứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhờ  thế chúng ta biết rơ h́nh phạt cuối cùng nào chờ đợi những kẻ sống trong xa hoa mà tuyệt nhiên không động ḷng bố thí cho kẻ cùng khổ nằm dưới mái hiên nhà ḿnh. Dụ ngôn nhấn thêm vào khía cạnh thảm hại một cuộc sống ích kỷ vật chất, vào sự bất lực không mở rộng được tâm hồn đón nhận đức tin. Đó là phần kết của dụ ngôn. Đức Kitô dạy rằng cuộc sống vĩnh cửu được chuẩn bị ngay từ đời này. Nếu cách sinh hoạt ở thế gian khiến cho tâm hồn khép kín đối với đức tin, th́ mai ngày sẽ không thể đón nhận hạnh phúc vĩnh cửu. Vấn đề nghiêm trọng nhất bây giờ là có sẵn sàng đón nhận đức tin hay không – chắc hẳn dụ ngôn muốn chúng ta quan tâm đến việc ấy. Đức tin nảy rễ trong những tâm hồn tự do, khiêm hạ, khao khát yêu thương.

  1) Tự do của tâm hồn. Đây là sự tự do quyết định thái độ trước những cơ hội hưởng thụ dễ dàng mà thế gian và tiền bạc hiến cho một số người. Khi tiền bạc từ địa vị kẻ tôi tớ nhảy lên địa vị chủ nhân ông, nó trở nên ám ảnh người ta không lúc nào ngơi. Cái hại căn bản của tiền bạc là nó ngăn chặn chuyển động của tâm hồn đi t́m Nước Thiên Chúa trước hết mọi sự. Tiền bạc là công cụ cho hưởng thụ, uy quyền và chiếm đoạt; tiền bạc làm đồi bại những tâm hồn nào không biết tự vệ, chịu để nó sai khiến. Khi con người buông ḿnh theo sức cuốn hút của tiền bạc, con người đâm ra mù quáng về hai diện. Trước hết, mất ư niệm về Thiên Chúa và không nghe thấy tiếng gọi của đức tin – mất luôn cả ư niệm về chính ḿnh và không nghe thấy những đ̣i hỏi của đức công bằng. Trong một thế giới đóng kín như thế, nếu có những lúc thấy thiếu vắng Thiên Chúa, thấy anh em đau khổ th́ cũng thản nhiên cho là thường, chẳng đáng bận tâm. Sa đoạ tới mức ấy chính v́ đă mất hết quyền tự do làm một con người thật sự, mất quyền tự do cao quư để có thể chấp nhận đức tin.

  2) Tâm hồn khiêm hạ dễ chấp nhận. Sự thể tiến tŕnh mặc khải phải qua những trung gian nhân loại. Một số người xử sự như mấy người Do Thái xưa kia đối với Đức Kitô, họ muốn Thiên Chúa tỏ ḿnh ra cho họ trong ánh hào quang chói loà của một quang cảnh hiển linh không ai chối căi được. Họ chẳng hiểu ǵ hết: Trước nhất, chẳng ai thấy được Thiên Chúa mà không chết v́ thế. Tiếp đến, nh́n thấy sự thật hiển nhiên, người ta vẫn có thể không tin. Rất nhiều người Do Thái chứng kiến Đức Giêsu làm phép lạ cho con bà goá ở Naim và ông Ladarô ở Bêtania sống lại. Vậy mà tất cả đám đông ấy có tin vào Đức Kitô không? Tại sao họ vẫn cứng ḷng? Họ không tin v́ tâm hồn họ không có đức khiêm hạ, họ không đầu hàng sự thật trước mắt. Tâm hồn khiêm hạ th́ chấp nhận những định chế nhân loại (ví dụ Giáo Hội) do Đức Kitô lập ra để truyền thông đức tin.

  3) Đức Tin sống động th́ có t́nh yêu thương. Luật truyền lớn nhất của Đức Kitô là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu kẻ khác v́ Thiên Chúa. Nếu chẳng may tâm hồn sa đoạ, trở nên khô cằn, thậm chí khả năng yêu thương bị tê bại, th́ làm sao có thể đón nhận một đức tin đồng thời cũng là một t́nh yêu? Thửa đất cơ bản thiết yếu cho đức tin bám rễ và lớn mạnh chính là môi trường của một tâm hồn trong sạch tươi mát, v́ chỉ những tâm hồn như thế mới có khả năng thật sự yêu thương.

6. LAZARÔ SẼ KHÔNG BAO GIỜ TỰ MĂN (Trích trong Mở Ra Những Kho Tàng - Charles E. Miller)

   Trong suốt Thánh Lễ, chúng ta thường nghe Chúa Giêsu dạy về ư nghĩa của những dụ ngôn. Điều đó có thể đă giúp cho chúng ta tự hỏi: “Tôi là ai trong dụ ngôn đó?” Chúa Nhật này, Chúa Giêsu nói môt câu chuyện rất mạnh mẽ về người giàu có không hề chú ư đến người nghèo trước cửa nhà ḿnh. Người phú hộ trong câu chuyện không có tên (ông ta có biệt danh là “Dives” từ này trong từ Latinh có nghĩa là giàu có). Có lẽ việc thiếu tên là một dấu hiệu để cho chúng ta suy nghị xem chúng ta là người nào và người đó là người tự măn, thỏa măn với những ǵ ḿnh đang có và v́ thế mà ông ta đă không chú ư tới Lazarô nơi cổng nhà ḿnh, ngay khi Lazarô bị ốm rất nặng, ḿnh bao bọc đầy những mụn, rất đói và ông ta thèm thuồng nh́n những miếng bánh vụn rơi từ bàn người phú hộ xuống đất nhưng không có mà ăn.

   Cũng có một cách khác để thấy chúng ta trong dụ ngôn ngày hôm nay. Trước đây chúng ta đồng ư rằng chúng ta được cảnh báo để nh́n thấy và chăm sóc những người có những nhu cầu khẩn thiết, chúng ta có thể làm tốt hơn để nhận biết rằng tất cả chúng ta là Lazarô. Hay chính xác hơn chúng ta có thể là như thế trong phạm trù thiêng liêng chứ không theo một cách thể lư. Không có sự cứu chuộc bởi Đức Kitô th́ chúng ta tồi tàn hơn Lazarô. Chúng ta không có những mụn nhọt bên ngoài nhưng bên trong chúng ta th́ đầy tội lỗi. Chúng ta đă thiếu những của ăn không chỉ là những bánh vụn nhưng là Ḿnh Thánh và Máu Thánh của Chúa. Chúng ta ở ngoài cổng của Giáo Hội, nếu không có Đức Kitô chúng ta sẽ không bao giờ bước qua ngưỡng cửa nhà của Ngài ở trên mặt đất này, để một ngày kia chúng ta bước vào ngôi nhà đời đời ở trên trời.

   Thiên Chúa đă thương chúng ta. Người đă gửi Con của Ngài là Thượng Tế tối cao, là Đấng trung gian của chúng ta, Đấng đă băng qua khoảng cách lớn lao của vực thẳm tội lỗi mà Abraham đă nói với người giàu có khi bị tách riêng ra khỏi Thiên Đàng. Thiên Chúa đă cho chúng ta đức tin để tin vào quyền năng cứu chuộc trong sự chết của Đức Kitô, và để âu yếm chân lư về sự Phục Sinh của Ngài và sự Phục Sinh đó là nguồn mạch bảo đảm cho niềm hy vọng vững chắc của chúng ta. Thiên Chúa đă trao cho chúng ta sự khôn ngoan để trân trọng và yêu mến Thánh Thể như là Ḿnh Thánh và Máu Thánh của Chúa đă hiến thân v́ chúng ta, Máu quư giá của Ngài đă đổ ra v́ chúng ta.

   Cách thiêng liêng chúng ta có thể giống như Lazarô trong sự khốn khổ thể lư của ông nhưng chúng ta đă trở thành giống ông khi ông được nâng lên bởi các thiên thần. Chúng ta là những kẻ đă được chúc phúc thật sự v́ Chúa Giêsu đă không đối xử với chúng ta như là người phú hộ đối xử với Lazarô. Để thực hành ứng dụng mà Chúa Giêsu đă giới thiệu trong dụ ngôn, hăy để chúng ta tưởng tượng rằng Lazarô trở lại trên mặt đất này. Thế bạn có nghĩ rằng ông ta sẽ chểnh mảng như người phú hộ, người đàn ông giàu có đó không? Thế bạn có nghĩ rằng ông sẽ lờ đi với những người bây giờ có hoàn cảnh khốn khổ như ông ta không? Các bạn có tin rằng Lazarô sẽ làm bất cứ điều ǵ để thương xót người khác hơn là những kẻ chỉ có thể cho những người ăn xin những miếng bánh vụn từ bàn của ông rơi xuống không?

   Nhưng không cần chúng ta tưởng tượng Lazarô đă trở về từ cơi chết. Chúng ta là những Lazarô, tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Tất cả những ǵ mà Thiên Chúa đă làm cho chúng ta sẽ là sự thúc đẩy cho chúng ta trở nên quảng đại đối với những kẻ có nhu cầu, tử tế với những người không có sự an ủi và yêu thương hướng đến mọi người như Thiên Chúa đă hướng đến chúng ta. Trong kinh tiền tụng của Thánh Lễ, vị linh mục đă tuyên bố nhân danh chúng ta: “Lạy Cha, chúng con xưng tụng Cha ở mọi nơi, dâng lên Cha lời cảm tạ”. Lời kinh phụng vụ tạ ơn của chúng ta sẽ thúc đẩy chúng ta luôn luôn và ở mọi nơi, để cư xử với mọi người bằng t́nh yêu quảng đại mà Thiên Chúa đă tŕnh bày cho chúng ta trong người Con của Người, vị Tư Tế và là vị Cứu Chuộc chúng ta.

7. GIÀU CÓ VÀ NGHÈO KHÓ McCarthy

   Ông phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía; Ladarô mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày, Ladarô không có ǵ để ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe, Ladarô ḿnh đầy mụn nhọt. Ông phú hộ sống trong lâu đài, Ladarô sống trước cổng ông nhà giàu.

   Thật vậy, nói rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ. Họ sống trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn; Ladarô sống trong một sa mạc. Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian; Ladarô sống trong một địa ngục loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác nhau như ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.

   Ladarô sống ở bên lề thế giới của ông phú hộ. Và v́ anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ nên mỗi ngày anh nh́n vào thiên đàng mà anh đă bị trục xuất. Dù anh ao ước được đi vào thế giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh sẽ sung sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn của ông phú hộ rơi xuống. Nhưng anh không có được, không phải v́ không thể làm được việc đó mà chỉ v́ không ai muốn làm việc đó cho anh. Dĩ nhiên, người ở vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể dễ dàng bước vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh. Nhưng ông đă không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn ông lại. Ladarô thuộc vào hạng người nghèo nhất. Thế nhưng trong một ư nghĩa nào đó, ông phú hộ c̣n nghèo hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu điều đó.

   Một nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào lề đường và đi làm một vài công việc. Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.

  - Thưa ông, có phải chiếc xe này của ông? Cậu bé hỏi.

  - Phải. Ông ta đáp.

  - Nó đẹp quá. Ông phải trả bao nhiêu tiền để mua nó?

  - Nói thật với chú bé là tôi không biết.

  - Ông muốn nói ông mua nó và không thể nhớ đă trả bao nhiêu?

  - Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi.

  - Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mua?

  - Đúng thế!

  - Tôi ước ǵ tôi…  Nhà doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp  Tôi ước ǵ tôi có một người bạn như thế”. Nhưng cậu bé lại nói: “Tôi ước ǵ tôi có thể là một người bạn như thế”.

   Và ông ta kết luận: “Đây là ḿnh trong bộ áo quần ḷe loẹt với chùm ch́a khóa và một chiếc xe đời mới trong tay. C̣n kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy nhiên tâm hồn cậu có nhiều t́nh yêu thương hơn ḿnh. Và trong ư nghĩa đó, cậu giàu sang hơn ḿnh… Tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị chứng sốt tê liệt lúc c̣n nhỏ làm chân tay co rút lại, cho cả hai đi một ṿng với chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời tôi”.

   Ông phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm hồn ông ta trống rỗng ḷng thương xót và yêu thương. Ông không muốn cho Ladarô dù là những mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những con chó hoang ngoài phố c̣n tử tế với Ladarô hơn ông ta. Người giàu có bị của cải làm tổn thương cũng như  người nghèo bị cái nghèo của họ làm tổn thương. “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là  thiếu vắng t́nh yêu – sự thờ ơ  khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến(Mẹ Têrêxa).

   Khoảng cách giữa ông phú hộ và Ladarô đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ. Những đứa trẻ trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng viên hỏi một thiếu niên: “Cháu muốn làm ǵ với cuộc đời ḿnh?”. “Cháu muốn sống để nh́n thấy tuổi hai mươi”. Câu trả lời là như thế.

8. BÁC ÁI BẮT ĐẦU TỪ NHÀ M̀NHMcCarthy

   Một tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày ṿ, những người đói lả kêu cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của ḿnh, ông quyết định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho người nghèo cái ǵ.

   Vừa mới đi qua cổng chính của ṭa nhà th́ ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất, hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nh́n thấy hoàn cảnh khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.

   Ông đi dọc ngang khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu th́ nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi nào đó?

   Khi về đến cổng ṭa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn c̣n ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng. “Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày trong cái nắng cháy da!”, ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động ḷng trắc ẩn nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.

   Tối hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác. Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là người ăn mày mà ông đă thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rơ ḿnh phải bắt đầu ở chỗ nào.

   Mẹ Têrêxa nói: “Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà ḿnh: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa th́ dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta. Tôi không đồng ư với cách thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không c̣n những “triệu” người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi”.

   Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: “Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về t́nh trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết v́ đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – c̣n người đàn ông đó th́ đă chết.

   “Tôi không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nh́n vào cá nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đ́nh bạn, cũng giống thế”.

   Người giàu có không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày trước cổng nhà ḿnh.

   CÂU CHUYỆN KHÁC:  Một tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây th́ một dân làng chạy đến gặp ông và nói: “Xin thầy cho con viên ngọc quư”.

  - Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.

  - Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quư, làm con trở nên giàu có măi”.

   Tu sĩ lục lọi trong túi xách, t́m thấy một viên ngọc và lấy ra. “Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến”, ông nói và đưa nó cho người dân làng. “Tôi t́m thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hăy nhận lấy nó”.

   Người đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói: “Suốt đêm qua, con đă suy nghĩ nhiều. Thầy hăy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hăy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”.

   Người giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người b́nh thường sống bằng đời sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.

9. CHÚ GIẢI của William Barclay

   H̀NH PHẠT CHO NHỮNG AI KHÔNG QUAN TÂM  ĐẾN NHỮNG NỖI KHỔ CỦA THA NHÂN. Dụ ngôn về người quản gia bất trung dạy ta cách sử dụng của cải cách hợp lư. Dụ ngôn về người phú hộ Ladarô nghèo được Thiên Chúa dùng để cảnh cáo những người nghe khỏi lạm dụng của cải. Trong câu chuyện này Thiên Chúa không dạy rằng nên làm giàu là tội lỗi hoặc tất cả người nghèo đều được cứu. Ngài muốn nói đến cái hiểm họa nghiêm trọng của việc sử dụng tiền bạc cách ích kỷ. Tội của người phú hộ không phải ở trong cách làm giàu hay trong sự giàu có của ông, cũng chẳng phải trong nếp sống kém đạo đức của ông, mà ở một điều đă được mô tả rơ ràng là trong khi ông ta sống xa xỉ ích kỷ, th́ có một người thiếu thốn khổ sở ngay trước nhà ông mà không được ông giúp đỡ. Chúng ta rút tỉa một số dạy dỗ trong dụ ngôn này.

  1.- Trước hết dụ ngôn dạy tất cả mọi người đều phải chết, và chết chưa phải là hết v́ vẫn c̣n một đời sống bên kia cửa tử, và đời sống ấy là hậu quả của đời sống này: Ngay sau khi chết con người được ṭa án Thiên Chúa xét xử về đời sống trên trần thế để đáng lănh thưởng hay bị chịu phạt. Trên trần gian, của cải vật chất cũng như các đau khổ, đều là tạm bợ, sẽ mau qua, nó chấm dứt với cái chết, và bởi sự chết cũng chấm dứt thời gian thử thách và khả năng làm lành hay làm ác, rồi bắt đầu từ đó vui ḷng thưởng công hay chịu đau khổ h́nh phạt tùy theo hậu quả của đời sống trên trần.

   Theo như giáo lư của Giáo Hội: linh hồn của những người chết trong ơn nghĩa Thiên Chúa sẽ được lên thiên đàng ngay hay sau một thời gian thanh luyện nếu cần: “Chúng tôi tin có sự sống đời đời. Chúng tôi tin rằng tất cả những người chết trong ơn nghĩa Chúa Kitô, hoặc c̣n phải thanh luyện trong luyện ngục, hoặc ngay sau khi rời bỏ thân xác, được Chúa Giêsu đem về thiên đàng như người trộm lành, đều là dân Thiên Chúa bên kia cửa tử, tử thần sẽ bị vĩnh viễn chiến bại ngày phục sinh khi các hồn người được kết hợp lại với thể xác.(Phaolô VI, tuyên xưng đức tin Công Giáo).

  2.- Tiếp theo là bài học chính yếu của dụ ngôn, dụ ngôn đề cập đến vấn đề sử dụng ích kỷ của cải trần gian. Chúng ta cần phác họa hai nhân vật trong câu chuyện để thấy được điểm này.

  - Trước hết là người giàu. Mỗi câu văn đều làm tăng thêm sức sống sa hoa của ông ta. Ông thường mặc áo tía hồng và áo gai mịn đó là cách nói về hai bộ áo của thầy tế lễ thượng phẩm với giá từ ba mươi đến bốn mươi Anh Kim một số tiền khổng lồ, trong khi lương công nhật một người chỉ được bốn xu Anh, ông ta ăn cao lương mỹ vị hàng ngày. Từ ngữ chỉ đồ ăn ở đây dành cho những tay sành điều, chuộng những món ăn đắt tiền và hiếm có. Ông ta ăn như vậy mỗi ngày, tức là chủ ư phạm điều răn của Thiên Chúa. Điều răn Thiên Chúa không những cấm làm việc trong ngày sabat, mà cũng c̣n nói “ngươi hăy làm việc trong sáu ngày” (Xh 20,91) trong một xứ mà được ăn thịt mỗi tuần mộ lần và vẫn phải làm việc suốt sáu ngày trong tuần đă là may mắn rồi, th́ người nhà giàu này quả là một tên lười biếng, chỉ ăn chơi. C̣n Ladarô cứ chờ đợi từng mẩu bánh nhỏ rớt xuống từ bàn tiệc của người nhà giàu. Trong thời Chúa Giêsu, khi ăn không dùng dao, nĩa hay khăn, nhưng dùng tay mà ăn, và trong những nhà giàu có, người ta dùng những mẩu bánh ḿ nhỏ lau tay cho sạch rồi ném bánh đó. Ladarô chỉ đợi những mẩu bánh này.

  - Nhân vật thứ hai là Ladarô. Lạ thay, Ladarô là một nhân vật duy nhất trong truyện ngụ ngôn được nêu tên riêng. Tên đó có nghĩa là “Chúa là sự giúp đỡ của tôi”. Ông là người ăn mày, ḿnh ông đầy ung nhọt. Ông yếu đuối đến nỗi không thể đuổi lũ chó hoang ở đường phố, chúng đem mơm dơ bẩn đến làm khổ ông. Cảnh tượng thế gian là như vậy, rồi tức khắc biển đổi sang một cảnh khác, khi cả hai bước qua cửa tử, trong đó Ladarô được vinh hiển, c̣n tên nhà giàu bị gia h́nh. Tội của người nhà giàu này là tội ǵ? Ông ta không tống cổ Ladarô ra khỏi cổng nhà, đă không phản đối mà vẫn để cho Ladarô nhận lấy những miếng bánh từ trên bàn của ông ta vất xuống. Ông đă không giơ chân đá Ladarô mỗi khi đi qua, đă không có ḷng độc ác với Ladarô kia mà! Tội của ông ta là tội đă không quan tâm đến Ladarô, là kiểu “cháy nhà hàng xóm b́nh chân như vại”, là chấp nhận Ladarô như một phần của cảnh đời và chỉ đơn giản nghĩ rằng việc Ladarô sống trong đau khổ, đói khát, c̣n ông ta ch́m ngập trong xa hoa sung túc, chỉ là việc tự nhiên không thể tránh khỏi được, như có người đă nói “Không phải v́ ông ta đă làm những điều quấy mà bị sa địa ngục, nhưng chính v́ ông ta không quan tâm đến các điều lành phải làm nên mới xuống đó”.

   Lấy câu chuyện này làm điểm tựa, Đức Gioan Phaolô II đă ban huấn tại sân vận động Yaukee: “Người giàu này bị h́nh phạt v́ ông không quan tâm tới người khác, v́ không để ư ǵ tới Ladarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống. Đức Kitô không bao giờ lên án việc có tài sản, nhưng Ngài đưa ra những lời nghiêm khắc chống lại những người sử dụng của cải vật chất cách ích kỷ, không chú ư ǵ tới người khác… Chúng ta phải luôn luôn nhớ, dụ ngôn người giàu và nghèo này. Câu chuyện đó phải đào tạo lương tâm chúng ta. Đức Kitô đ̣i buộc ta phải mở rộng ḷng với anh chị em sống trong khó nghèo. Với những người giàu, những người khỏe mạnh, những người có được một bảo đảm kinh tế, Thiên Chúa đ̣i buộc phải rộng ḷng đối với người nghèo, những người sống trong các nước chưa phát triển”. Nói như thế Đức Thánh Cha cũng chỉ nhắc lại điều mà Công Đồng Vaticanô II đă khẳng định: “Các giáo phụ và các tiến sĩ của Giáo Hội dạy rằng mọi người có bổn phận nâng đỡ người nghèo và không phải chỉ giúp đỡ bằng của cải dư thừa. Trước con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới. Thánh Công Đồng tha thiết kêu gọi mọi người “hăy cho kẻ sắp chết đói của ăn, v́ nếu không cho họ ăn là giết chết họ” (MV 69).

   Về một phương diện khác, dụ ngôn này về giá trị cao cả của con người, độc lập hoàn toàn với địa vị xă hội, văn hóa tôn giáo, t́nh trạng giàu nghèo… Ḷng kính trọng nhân phẩm này diễn tả việc ta phải giúp đỡ những ai khi gặp cảnh xấu số về tinh thần cũng như vật chất. “Vậy mỗi người phải coi người đồng loại – không trừ ai như “cái tôi thứ hai”, cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đă không săn sóc tới Ladarô bất hạnh” (MV 27).

   Tội của người nhà giàu này là ông ta thấy những đau khổ túng cực của thế giới mà không cảm thấy thương xót, buồn rầu, ông ta đă nh́n thấy một người đói khổ và không làm ǵ để cứu giúp. H́nh phạt cho người này là h́nh phạt của một người đă không hề chú ư, quan tâm đến kẻ khác. Cần phải nhớ lời cảnh cáo đáng sợ ở đây: tội của người giàu ở đây không phải là ông đă làm ǵ xấu xa nhưng là đă không làm ǵ cả trước những đau khổ của kẻ khác.

   Một thí dụ khác của việc tôn trọng nhân phẩm là phân phối cân bằng tài nguyên thế giới, và những nỗ lực bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, như Đức Phaolô đệ lục đă phát biểu trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 4-10-1965: “Chính trong tổ chức của quư vị, mạng sống con người, ngay cả trong vấn đề sinh sản, phải được đặc biệt tôn trọng và được bảo vệ. Nhiệm vụ của quư vị là làm thế nào để có dồi dào cơm bánh trên bàn ăn nhân loại, chứ không phải là cổ vơ kiểm soát sinh sản một cách giả tạo và phi lư, nhằm giảm bớt số người tham dự bữa tiệc đời sống”.

  3.- Bài học cuối cùng liên quan tới lời yêu cầu của người giàu xin cho anh em ông. Có thể là v́ t́nh thương mà xin, nhưng cũng rất có thể ngầm bào chữa rằng nếu được soi sáng nhiều hơn, hẳn ông đă không phạm tội đáng buồn như thế.

   Có thể có người trong chúng ta cảm thấy khó chịu khi lời ông ta xin cho anh em được cảnh cáo lại bị từ chối. Nhưng sự thật hiển nhiên là nếu người ta đă nắm được chân lư của lời Thiên Chúa, và nếu ở ngay trước mắt họ có kẻ buồn rầu cần an ủi, có kẻ thiếu thốn cần trợ giúp, có kẻ đau khổ cần giúp đỡ, song họ không động ḷng và không làm ǵ hết, th́ không c̣n ǵ khác để thay đổi ḷng họ. Cuộc đối thoại giữa người giàu đau khổ và cụ tổ Ápraham là nổi bật linh động để ghi sâu vào ḷng thính giả giáo huấn Thiên Chúa dậy qua dụ ngôn. Hỏa ngục là thế giới của ghen ghét, không có chỗ nào cho cảm thương tha nhân, chí có thù ghét ngự trị. Khi Ápraham nói với người giàu: “giữa chúng tôi đây và các con có cả một vực thẳm lớn”. Cụ muốn nói sau khi chết và sống lại th́ không c̣n ăn năn nào nữa. Những kẻ dữ sẽ không ăn năn và đi vào Nước Chúa; người lành không phạm tội và không sa xuống hỏa ngục được, một vực thẳm lớn không thể vượt qua mà!

   Chúng ta sẽ hiểu hơn với lời giải thích của thánh Gioan Kim Khẩu: “Tôi xin anh em, quỳ xuống chân anh em mà nài xin, anh em hăy ăn năn, hăy sám hối mà trở về với Thiên Chúa, hăy sống tốt lành hơn, trong khi chúng ta c̣n hưởng được quăng thời gian vắn này, để chúng ta không phải than khóc cách vô ích như người giàu kia khi chúng ta chết, và khi mà những tiếng khóc than chẳng đem lại một an ủi nào. V́ ngay cả khi chúng ta có một người cha, người con, một người bạn hay bất cứ một nhân vật nào đi nữa có thế giá bên cạnh Thiên Chúa, không ai có thể giải cứu chúng ta khỏi những hành động của chúng ta, chính chúng ta kết án chúng ta”.

10. CHÚ GIẢI của R. Gutzwiller

   KHÓ NGHÈO và SANG GIÀU. Trong Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề ‘hư mất’ kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn người con hoang đàng. Các diễn từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn người giàu hưởng thụ và Lagiarô khốn khổ. Ở đây, tŕnh thuật không có ư nói đến khía cạnh xă hội, dầu sự tương phản giữa người phú hộ và Lagiarô được diễn tả bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không có ư (dầu người ta giải thích như thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu hiểu theo nghĩa này, người ta ưa thêm thắt những lời không có trong nguyên văn. Khi nói ‘Lagiarô ước được ăn những mụn bánh rớt từ bàn ăn’ cho đỡ đói. Người ta nghĩ nên thêm: ‘Nhưng không ai thèm cho’. Thực tế câu này đă được thêm vào; Hơn nữa diễn từ của Abraham cũng ám chỉ không ít ư tưởng đó.

   Dụ ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, v́ họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người Saducêo, không tin đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công bằng trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đ̣i hỏi mỗi người cố gắng hành động tốt, tức là giữ giới luật Chúa, lănh nhận ngay khi c̣n ở trên dương gian phần thưởng mà họ có thể được. Người lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đă làm hài ḷng Thiên Chúa; bằng không th́ v́ tội lỗi ngự trị trong ḷng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu v́ Ngài đ̣i hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.

   Hai nhân vật đối đầu nhau: một người sống trong xa hoa, không thiếu thứ ǵ và một người nghèo sống trong cảnh khốn khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho đến lúc chết. Trong khoảnh khắc, cảnh huống thay đổi hoàn toàn v́ ở thế giới bên kia, sự tương phản đôi bên cũng gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược. Người hành khất được hạnh phúc trong ḷng Abraham, c̣n người giàu có phải chịu muôn vàn đau khổ. Thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đăi của Thiên Chúa; cũng như nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lư và việc Thiên Chúa ruồng bỏ. Người biệt phái đă quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ư nghĩa của dụ ngôn.

   Cho nên không thể rút ra những hệ luận thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết trong bài trần thuật này: chẳng hạn các khổ h́nh dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiệu những khổ h́nh của hoả ngục. Đó chỉ là một h́nh ảnh, việc an nghỉ trong ḷng Abraham cũng thế… Cũng không thể áp dụng trên khía cạnh luân lư khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước ư muốn của Thiên Chúa. Thực sự, dụ ngôn không có ư nói người phú hộ cứng ḷng và Lagiarô nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng của dụ ngôn: minh chứng rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới trạng thái tâm hồn. Đó là điều dụ ngôn muốn nói.

   Giải thích này, vào đúng thời của nó, đă đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt Phái, đ̣i hỏi họ phải thay đổi toàn bộ cảm nghĩ… Ngày nay tầm quan trọng của nó vẫn c̣n. Người ta luôn luôn đánh giá cuộc đời của ḿnh cũng như của người khác theo tiêu chuẩn vật sở hữu bề ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc sướng, sẽ được coi là người biết tổ chức tốt đời của ḿnh.

   Vở kịch đời sẽ thay đổi hoàn toàn ở màn hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng ta không ngại thán phục người quyền thế, người hùng mạnh, họ đă đạt thành công, ‘đă làm được một cái ǵ’ và chúng ta thương cảm cho người yếu đuối v́ cuộc sống của họ đầy thất bại và không có được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không nghĩ như chúng ta. Không nên xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.

   Tuy nhiên, con người tỏ ra xung khắc với giáo lư đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức Kitô quả  quyết họ không muốn nghe Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người chết sống lại đến bảo họ rằng họ đang sống không đúng với đường lối của Thiên Chúa, họ không thể thay đổi lập trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau, sau sẽ thành trước; nghèo sẽ thành giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ thành quyền thế và ngược lại.

   Thiên Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Thiên Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng.” Đức Kitô đă đến trần gian và Ngài đă nhắc đi nhắc lại điều đó một cách hết sức rơ ràng. Nhưng người ta không tin và cũng không muốn tin Ngài… Sự đời trần gian đối với họ c̣n hơn của thiêng liêng, đời sống hiện tại hơn đời sau. Họ thích cuộc sống như người phú hộ hơn là số phận của Lagiarô, dù họ có biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ hoàn toàn thay đổi.

   Thực họ khó xét lại quan điểm và lề lối suy nghĩ của ḿnh.

11. CHÚ GIẢI của Noel Quesson

   Đức Giêsu đă nói dụ ngôn này: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đ́nh.Đức Giêsu đă trông thấy điều đó. Bấy giờ đă có những bất b́nh đẳng... giữa những người quá giàu, và những người quá nghèo. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy ḿnh, nằm trước cổng ông nhà giàu.

   Chúng ta nhận thấy rằng ông nhà giàu không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể nhận ra ḿnh nơi ông ta. C̣n người nghèo có cái tên “Ladarô”. Trước mắt Thiên Chúa, Ladarô là một con người. Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây là lần duy nhất mà một nhân vật của dụ ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ư nghĩa: Trong tiếng Do Thái, El'azar có nghĩa là “Thiên Chúa - phù hộ”. Chúng ta đi đoán điều ǵ nơi ông nhà giàu bị... chê trách. Đó là ông ta đă đặt mọi niềm tin cậy vào sự giàu có của ông, vào nhân tính. Trái lại điều Đức Giêsu thán phục nơi người nghèo khó là dù thiếu thốn hết mọi sự của trần gian, anh chỉ trông cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ anh. Thèm được những thứ trên bàn  ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó  cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.

   Chúng ta chớ quên rằng chính Đức Giêsu đă dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà, người ta chè chén trong cảnh xa hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa hai bên là một cái cổng. Cái cổng này ví như một “vực thẳm” phân cách giàu nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông nhà giàu sống trong một thế giới khép kín trên chính ḿnh, và không vượt qua cái cửa của ngôi nhà. Phải sự giàu có, tài sản của chúng ta ngăn không cho chúng ta “thấy được” những người khác. Và người nghèo khó, ḿnh đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước cổng ông nhà giàu, dường như cũng không tận mắt nh́n thấy ông nhà giàu mà Đức Giêsu đưa lên sân khẩu.

   Ngày 3 tháng 7 năm 1980 tại Sao Pau-lô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại một cách tập thể: “Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người mất hết niềm hy vọng và chết trong cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn không t́m thấy không gian sống để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh thần, đi lang thang trong các đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp nập giữa những ṭa nhà bằng bê-tông... Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta sống với mọi tiện nghi hiện đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi thứ cơ bản nhất... Nhiều khi sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ dụ ngôn ông nhà giàu và Ladarô, sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng càng làm trầm trọng t́nh cảm ức chế của những người không may mắn”

   Đó đúng là điều Đức Giêsu đă nói: Những mô tả ấy có tác động tôi điều ǵ không?

   Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào ḷng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực h́nh”. Vậy đây là một sự lật ngược hoàn cảnh t́nh thế.

   Người nghèo đă ở giữa hỏa ngục trên trần gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là một hỏa ngục thật sự. Giờ đây, ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu trước đây không thiếu thứ ǵ, giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng lưu ư của dụ ngôn, là Chúa Giêsu không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông nhà giàu sống xấu xa. Đơn giản người này th́ nghèo, người kia th́ giàu, thế thôi. Ông nhà giàu không bị buộc tội đă ăn cắp của Ladarô hoặc đă bóc lột anh bằng một nghiệp vụ khéo léo về bất động sản hay thương mại, hoặc không trả lương Ladarô cho công bằng, hoặc đă ngược đăi, bóc lột anh. Chúa Giêsu cũng không nói rằng ông nhà giàu không bố thí cho Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nh́n thấy anh ta! ông đă để một vực thẳm khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau, người này xa cách người kia.

   Ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong ḷng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; v́ ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Dĩ nhiên không nên t́m kiếm một sự mô tả thế giới bên kia trong những h́nh ảnh này. Đức Giêsu chỉ sử dụng những sơ đồ của tư tưởng người đồng thời. Người không thể nói cách khác để người ta hiểu Ngài: Thế giới bên kia được h́nh dung (!) như một âm phủ bao la (Shéol) với những thân thể (!), những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước, ở một nơi mà những kẻ bị kết án nh́n từ xa những người được ưu tuyển cách ḿnh bằng một vực thẳm. Điều rơ ràng bên kia những h́nh ảnh b́nh dân làm sự đảo ngược những điều kiện ở trần gian. Giờ đây chính ông nhà giàu cần đến anh nhà nghèo.

   Ông Abraham đáp: “Con ơi, hăy nhớ lại: suốt đời con, con đă nhận phần phước của con rồi; c̣n Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, c̣n con th́ phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đă có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.”

   Đức Giêsu một lần nữa tái khẳng định “đặc quyền của những người nghèo” bởi miệng của Abraham. Chúng ta, hăy nhớ lại. Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat): “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Chúng ta hăy nhớ lại bài diễn từ phác họa chương tŕnh của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét: “Chúa đă xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Le 4,18). Chúng ta hăy nhớ lại mối phúc thật và mối họa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó; khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (Lc 6,20-24). Chúng ta hăy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những giàu có vật chất (Lc 12,15-21 - 16,9-11).

   Đối với Đức Giêsu, sự giàu có bao gồm hai nguy cơ chết người:

  1.- Nó khép kín ḷng ḿnh với Thiên Chúa: Người ta bằng ḷng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.

  2.- Nó khép kín ḷng ḿnh với những người khác: Người ta không c̣n nh́n thấy người nghèo nằm ngay cổng nhà ḿnh.

   Chúng ta hăy lưu ư rằng, hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của t́nh trạng này: Xa cách Thiên Chúa như ở trần gian người ta vẫn thế; xa cách những người khác như ở trần gian Người ta vẫn thế. Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con người “tự phán xử ḿnh ngay từ trần gian này”.

   H́nh phạt khủng khiếp ấy đơn giản là khoảng cách mà kẻ giàu có đă đặt ở giữa người ấy và Thiên Chúa, ở giữa người ấy và những người khác. Bởi v́ Nước Thiên Chúa là sự hiệp thông của t́nh yêu. Kẻ giàu có đă tự kết án chính ḿnh: “cái cổng nhà” hắn phân chia hai thế giới đă trở thành “vực thẳm”. Tôi có tin chắc rằng tôi đang kiến tạo thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi mở ḷng tôi cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín ḿnh trong chính ḿnh? Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa ngục.

   Người nào không yêu thương ở trần gian này đă tự loại ḿnh ra khỏi “bữa tiệc của Thiên Chúa” nơi chỉ có những người nghèo được vào, những người này đă “mở ḷng ḿnh ra cho những người khác”. Đức Giêsu đă mạc khải cho chúng ta thái độ và hữu thể của Thiên Chúa: Ngài là T́nh Yêu phổ quát. Một người cha đă giết con bê béo và tổ chức một bữa tiệc linh đ́nh để đón nhận đứa con hoang đàng: Thiên Chúa là thế! Một người giàu có chè chén với bạn bè ḿnh để lợi dụng của cải ḿnh: Khác nhau biết bao!

   Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy th́ con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, v́ con hiện c̣n năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực h́nh này.” Chi tiết này không thôi, sẽ chứng tỏ khi cần rằng người ta không thể dùng những h́nh ảnh ấy để mô tả thực tại đời sau: Nếu Thiên Chúa thấy t́nh cảm tốt lành nhỏ nhất trong một Người, th́ đương nhiên nơi này sẽ thôi không c̣n bị kết án nữa. T́nh yêu của Thiên Chúa th́ vô tận. Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng để đưa vào câu trả lời sẽ theo sau. Ông Abraham đáp: “Chúng đă có Mô-sê và các Ngôn Sứ, th́ chúng cứ nghe lời các vị đó.'” Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cơi chết đến với họ, th́ họ sẽ ăn năn sám hối.”

   Vậy một lần nữa, chúng ta đứng trước một lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường. Ông hăy làm cho chúng tôi một phép lạ để tôi tin? Ông hăy xuống khỏi cây thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa! Ông hăy gieo ḿnh từ nóc Đền thờ xuống. Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu từ chối các dấu chỉ giật gân (Lc 11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1). Ông Abraham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ c̣n chẳng chịu nghe, th́ người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

   Thật vậy, sự sống lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà c̣n thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhăn tiền nhất mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Thiên Chúa (Môsê và các ngôn sứ)... sự khiêm nhường và chú tâm nh́n thấy các nhu cầu của anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh tôi)...

   Nhưng Đức Giêsu xem ra đă khẳng định rằng số phận những người giàu đó đă khô cứng một cách bi thảm: Tính ích kỷ sự buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín ḷng họ... sau cùng làm họ “không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng, cái chết theo lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô cảm tâm linh là điều bấp bênh, và sự giàu có không bảo vệ họ măi măi. Nhưng tất cả đều vô ích: tài sản của họ đă làm họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của người khác và trước sự mỏng ḍn của bản thân họ. Họ tự măn về chính họ... bị giam hăm trong của cải của họ... Thiên Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể ép buộc một ai yêu mến.

   Để kết luận suy niệm bài Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo khó? Thành hay bại rất nghiêm trọng đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho những người khác sẽ tai hại như khi nói rằng: “Tôi đâu có phải là ông vua dầu hỏa”. Hăy nh́n kỹ ḷng ḿnh... Nó có mở ra cho Thiên Chúa, cho người khác không? Bạn có nghèo không?

12. CHÚ GIẢI của Fiches Dominicales

  GIỮA CHÚNG TA ĐĂ CÓ MỘT VỰC THẲM – VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Đừng đào thêm vực thẳm. Trên hành tŕnh tiến về Giêrusalem nơi Ngài sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em đồng loại - Đức Giêsu bắt đầu bằng việc kể cho các môn đệ dụ ngôn người quản gia bất lương. Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, Ngài kết luận với lời khen tên quản gia ấy và mời gọi “con cái ánh sáng” phải biết hành động “khôn khéo” giống như “con cái đời này”: “Hăy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, pḥng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em nào nơi ở vĩnh cửu “.

   Giờ đây, Ngài quay sang ngỏ lời với những người Pharisêu, “vốn ham hố tiền bạc” (họ quan niệm giàu có như dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành) và “cười nhạo Đức Giêsu”. Trong lúc dụ ngôn trước dạy cho chúng ta biết cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng, th́ dụ ngôn sau tŕnh bày mặt trái, qua câu chuyện về một người đă sử dụng của cải ḿnh, có cách sai lầm. Đây là dụ ngôn riêng Luca, gồm ba cảnh. Mở màn, hai nhân vật xuất hiện: một giàu, một nghèo.

   Người thứ nhất, mặc dù là nhân vật chính, lại không được nêu tên: “một viên phú hộ kia”, thế thôi; nghĩa là mỗi người đều có thể nhận ra chính ḿnh nơi ông. Kẻ thứ hai th́ lại có một cái tên gọi - chuyện hy hữu trong tất cả những dụ ngôn của Đức Giêsu - và là một cái tên có nghĩa biểu tượng: “Ladarô”, có gốc từ chữ “Ê-lê-a-da”, nghĩa là “Thiên Chúa phù trợ”.

   Không chỗ nào nói Ladarô là một con người nhân đức; anh chỉ được giới thiệu là “một người nghèo”, “người nghèo” nói chung, không ai thấy không ai nghe. Cũng vậy, không một chỗ nào nói rằng viên phú hộ kia là một kẻ “ác ôn”, rằng ông đă vơ vét của cải một cách mờ ám, rằng ông đă chiếm đoạt, đă bóc lột một cách bất chính, đă lợi dụng hay ngược đăi Ladarô. Dụ ngôn trong Tin Mừng chỉ lưu ư chúng ta ở chỗ ông đă không ngó ngàng ǵ tới “người nghèo khó nằm trước cổng nhà ḿnh”, thế thôi ở đây chúng ta chứng kiến cảnh trái ngược trớ trêu của hai thế giới sát bên nhau. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với viên phú hộ “mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đ́nh”. Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó, “nằm trước cổng, mụn nhọt đầy ḿnh”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà ăn cho no cũng chẳng được”; chỉ có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Giữa hai thế giới đó, chỉ có một “ngưỡng cửa”, một ranh giới, ngày càng được đào sâu một cách vô h́nh, được nới rộng cho tới một lúc tấm màn của cảnh một được buông xuống với cái chết đồng thời của cả hai nhân vật: “Thế rồi người nghèo nàn chết... ông nhà giàu kia cũng chết

  2. Một vực thẳm không thể vượt qua. Cảnh hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết thay v́ làm cho họ xích gần lại với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay t́nh thế của họ đă hoàn toàn đảo ngược. Ladarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đă được thiên thần đem vào ḷng ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. C̣n viên phú hộ th́ trái lại, trước đây hưởng thụ giàu sang, chẳng đoái hoài ǵ đến người nghèo nằm trước cửa nhà ḿnh nay phải ở “dưới âm phủ, đang chịu cực h́nh”. Ông năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô - ông nêu rơ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi c̣n sống trên đời - “nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát”.

   Muộn quá rồi. Cuộc chơi đă măn! Cả Abraham lẫn Ladarô chẳng ai làm được ǵ cho ông nữa. Một cách vô thức, ông đă từng bước đào sâu thêm, giữa sự giàu có ích kỷ của ḿnh và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng cái chết đă làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đă không biết “làm bạn” với Ladarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh cửu”.

   Theo nhận định của H. Cousin: “Vực thẳm” chia cách giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực h́nh dưới âm phủ, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đă được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đă nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đă chẳng làm ǵ để lấp cho đầy.

  3. Hăy nghe lời Thiên Chúa đừng chần chừ nữa. Câu chuyện lại chợt bừng lên với lời năn nỉ của ông phú hộ xin cho năm người anh em c̣n sống trên trần. Họ có thể cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm ǵ tới người nghèo đang nằm trước cửa nhà ḿnh. Cả bọn năm người họ cũng đang lơ lửng trước tai hoạ nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. “Xin tổ phụ sai anh Ladarô, ông nài xin, đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực h́nh này”. Bởi nếu có sự can thiệp của ai đó “từ cơi chết” hiện về với họ, “th́ họ sẽ ăn năn sám hối”. Ảo tưởng thôi - câu trả lời cho ông - nếu nghĩ rằng chỉ cần có ngươi từ cơi chết hiện về là họ sẽ chịu nghe, nếu “Môsê và các Ngôn sứ mà họ c̣n chẳng chịu nghe”: Luật Môsê và các Ngôn Sứ đă chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư? Các ngài đă chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm, sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao? Sách Đệ Nhị Luật (15,7-11) truyền dạy: “Nếu giữa anh em có một người nghèo, th́ anh em ḷng có ḷng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ không giúp người anh em: Hăy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miềm đất của anh em”. Và cả các Thánh Vịnh cũng đă chẳng không ngừng lặp đi lặp lại rằng mọi kẻ nghèo khó, thấp cổ bé miệng, bị áp bức, bị bóc lột, đói khát, đều là những người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa sao? (xem Tv 112 Chúa nhật trước và Tv 145 hôm nay)

   Bài học đă quá rơ. Nó được gởi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai, mù mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hăy coi Lời Thiên Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng. H. Cousin kết luận: “Đại diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay viên phú hộ tưởng tượng rằng một phép lạ sẽ làm được cái mà Kinh Thánh làm không được. Lầm to! Một phép lạ, cho dù là phép lạ người chết sống lại, cũng không thể thay ḷng đổi dạ được những kẻ cứng ḷng không đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các Ngôn Sứ với ḷng tin. Người trong Hội Thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn ḿnh sẽ lo ăn năn sửa đổi đời sống. Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta! Chỉ khi biết lắng nghe Lời Thiên Chúa, con người mới có thể hoán cải. Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời có sẵn tại trung tâm Lề Luật là các Ngôn Sứ.

  BÀI  ĐỌC THÊM:

  1. Sức mạnh của Tin Mừng. “Không mệt mỏi, Đức Giêsu nhiều lần đề cập đến sự đảo lộn những giá trị khi Nước Thiên Chúa đến. Trong thực tế, Ngài đă từng chứng kiến sự cứng ḷng của những người Pharisêu, thánh Luca nói, họ vốn “ham hố tiền bạc là... cười nhạo Đức Giêsu”. Họ như một bức tường trơ trơ do cái vẻ công chính bề ngoài dưới mắt thiên hạ. Họ không muốn để ḿnh bị lay động. Đức Giêsu cảnh cáo họ: “Thiên Chúa biết ḷng các ông”. Không phải tất cả những ǵ người đời ái mộ, khâm phục đều thực sự có giá trị. Chỉ có đôi mắt của Thiên Chúa mới thấu suốt được giá trị đích thực của mọi vật. Ngay cả Lề Luật, vững bền như “đất trời” v́ là Lề Luật của Thiên Chúa, cũng không thể là cái cớ được đưa ra để khước từ Tin Mừng của Nước Trời: vượt qua cả Lề Luật là sức mạnh của Nước Trời, đ̣i con người phải đấu tranh với bản thân để phá vỡ cái vỏ bên ngoài giam hăm cái tâm tốt lành trong mỗi người.

   Đức Giêsu c̣n dùng một dụ ngôn nữa để diễn tả sự đáo ngược t́nh thế mà Tin Mừng nước trời đến loan báo: số phận của viên phú hộ và anh Ladarô là một minh hoạ. Viên phú hộ, xưa kia sống xa hoa hưởng thụ, nay bị đày xuống âm phủ. Anh Ladarô, xưa bị quên lăng, khinh thường, nay được đem vào ḷng Abraham. T́nh thế đà hoàn toàn lật ngược, vô phương kêu trách. Và Đức Giêsu nhấn mạnh: phải lo tỉnh ngộ sớm. Sẽ chẳng có dấu hiệu phi thường nào, chẳng có một ai từ cơi chết hiện về để đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. “Chúng ta có Môsê va các Ngôn sứ, th́ chúng cứ nghe lời các vị đó!”. Chúng ta c̣n có hơn nữa: Tin Mừng của chính Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, giống như những người Pharisêu xưa, chúng ta khó tránh được thói nô lệ vẻ bề ngoài, khó lột bỏ được những mặt nạ của ḿnh xuống và biết nh́n mọi hoàn cảnh bằng cái nh́n của Thiên Chúa chúng ta sợ sức mạnh của Tin Mừng. Cầu xin Thiên Chúa, với tất cả ḷng kiên tŕ của Ngài, ra sức mở mắt cho chúng ta, ban cho chúng ta ḷng dũng cảm để dấn thân vào cuộc chiến của Tin Mừng.

  2. Trên những nẻo đường của t́nh liên đới. (G. Bouche, trong “Le ciel sur la terre”, trg 61).

   Nỗi khổ đau của thế giới vẫn réo gọi chúng ta qua những h́nh ảnh trên Ti Vi, với bao h́nh hài con người tàn tạ, những bộ mặt thờ thẫn và ánh mắt tuyệt vọng.