Lễ Khởi công XÂY DỰNG TƯỢNG ĐÀI ĐỨC THÁNH TRẦN

 

 

 

HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG


  
Ông tên là Trần Quốc Tuấn, con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu vua Trần Thái Tông, sinh năm 1226, quê làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tư (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ 74 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc.

Thân Thế
   Ông có vốn tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được Vua Trần cử làm tướng tiên phong chống giặc. Đặc biệt sau chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết Chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lănh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, được phong tước Hưng Đạo Đại Vương. Sau khi chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 3, ông về trí sĩ ở trang viên của ḿnh tại Vạn Kiếp.

Các Điển Tích
   Qua những câu chuyện dưới đây, có thể thấy ở ông một sự hy sinh quyền lợi cá nhân rất cao để phục vụ cho mục tiêu của cả dân tộc cho dù ông là người có tài thao lược và nắm nhiều quyền bính trong tay.

Thiếu Thời
   Đại Việt sử kư toàn thư có chép: Lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem và bảo: "Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời". Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc thông hiểu rộng, có tài văn vơ. An Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (tức vua Thái Tông Trần Cảnh), mang ḷng hậm hực, t́m khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh Vương cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không v́ cha lấy được thiên hạ, th́ cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được." (Theo "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim th́ An Sinh Vương Trần Liễu lấy người chị của công chúa Lư Chiêu Hoàng, c̣n Trần Cảnh cưới Lư Chiêu Hoàng khi bà mới 7 tuổi. Sau này Lư Chiêu Hoàng không có con (khi chỉ mới 13 tuổi) nên Trần Thủ Độ bắt vợ của Trần Liễu lúc ấy có thai ba tháng về làm vợ Trần Cảnh (chị thay cho em). Chính v́ lẽ đó mà Trần Liễu oán giận Trần Cảnh.
  
Quốc Tuấn ghi điều đó trong ḷng, nhưng không cho là phải.

Cướp ngôi hay không?
   Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở ḿnh, ông đem lời cha trăng trối để ḍ ư hai gia nô thân tín là Dă Tượng và Yết Kiêu. Hai người gia nô bẩm rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quư một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quư hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi."
(Lấy từ tích: Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài, có người làm thịt dê tên là Duyệt đi theo. Sau Chiêu Vương trở về nước, ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối và nói: "Nhà vua mất nước, tôi không được giết dê, nay vua về nước, tôi lại được làm nghề giết dê, tước lộc thế là đủ c̣n thưởng ǵ nữa".)

   Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?"
   Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến thưa: "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!"

   Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Trần Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. Trần Quốc Tảng tiến lên thưa: "Tống Thái Tổ vốn là một ông lăo làm ruộng, đă thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ."

   Trần Quốc Tuấn rút gươm mắng: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra" và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha.

   Sau đó, ông dặn Hưng Vũ Vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đă rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng."

   Năm Ất Dậu, Thiệu Bảo năm thứ 7, 1285, thế giặc bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ Nguyên (sông Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn (mũi biển thuộc châu Vạn Ninh, gần Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để đánh lừa giặc.

   Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại c̣n mối hiềm cũ của An Sinh Vương, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nh́n. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi.

   Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: "Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào cửu tứ của quẻ Tùy (xem Kinh Dịch) th́ mới có thể giữ tṛn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế th́ nhất định sẽ mang tai họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đă làm được như vậy."

Quan hệ với Trần Quang Khải
   Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư Đồ để tiếp sứ phương Bắc."

   Trần Quốc Tuấn thưa : "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, c̣n như phong thần làm Tư Đồ th́ thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ư phong chức, th́ t́nh nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui ḷng Quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn."

   Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Quốc Tuấn th́ thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Ḿnh mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng." Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho."

   Trước đây, hai ông tuy một là Quốc Công Tiết Chế, một là Thượng Tướng Thái Sư nhưng do lo lắng về mối thù của Trần Liễu để lại mà có mối hiềm nghi xa cách. Sau khi được Trần Quốc Tuấn tắm cho, hai ông trở nên thân t́nh, tin tưởng nhau, t́nh nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn mà. Trong việc giúp đỡ nhà vua, hai ông đều đứng hàng đầu.

Quyền phong tước
   V́ có công lao lớn trong cả 3 lần chống quân Nguyên nên vua gia phong ông là Thượng Quốc Công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ ḿnh trở xuống, chỉ có tước hầu th́ phong tước rồi tâu sau. Nhưng Trần Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm Lang tướng giả chứ không cho họ tước Lang tướng thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi.

Tài dụng binh
   Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dă Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mă Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lăo, Trần Th́ Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lăm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi v́ ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một ḷng giữ ǵn trung nghĩa vậy. Xem như khi Trần Thánh Tông vờ bảo Trần Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Trần Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hăy hàng". V́ thế, đời Trùng Hưng, lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến phương bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu xin ông. C̣n có lời đồn rằng, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu th́ thế nào cũng thắng lớn.

   Trần Quốc Tuấn từng soạn các sách như Binh Gia Diệu Lư yếu lược (quen gọi là Binh Thư yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy các tỳ tướng, dụ họ bằng bài Hịch tướng sĩ.

   Trần Quốc Tuấn từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao Tổ, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Ông dạy đạo trung như vậy. Nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông do công lao 3 lần lănh đạo đất nước chống lại được họa Thát Đát (Mông Cổ). Dưới vó ngựa của Nguyên Mông, các nước Hồi giáo hiếu chiến ở Trung Á, các công tước của Moscow, Novogrod (nước Nga ngày nay) cũng không thể nào bảo vệ được nền độc lập của ḿnh. Lănh thổ của Nguyên Mông, theo chiều ngang, kéo dài từ Viễn Đông (gồm cả Triều Tiên) đến tận Mátxcơva, Muhi (Hungary), Tehran, Damascus; chiều dọc từ Bắc Á xuống hết cả Ấn Độ, Miến Điện. Trong cơn lốc chinh phục của họ, chỉ có Thái Lan thoát khỏi họa diệt vong nhờ sách lược cầu ḥa, Nhật Bản may mắn nhờ 1 trận băo biển làm thiệt hại bớt tàu của Mông Cổ, và Đại Việt nhờ khả năng lănh đạo của Hưng Đại Đại Vương mà giữ được bờ cơi.


Lấy dân làm gốc
   Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược th́ kế sách như thế nào?"

   Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dă, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, c̣n đoản binh th́ đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc th́ mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, ḷng dân không ĺa, xây thành B́nh Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lư mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lư Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là v́ có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mă Nhi bốn mặt bao vây. V́ vua tôi đồng tâm, anh em ḥa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió th́ thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, th́ phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một ḷng như cha con th́ mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy."

   Khi sắp mất, ông dặn con rằng: "Ta chết th́ phải hỏa táng, lấy vật tṛn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau phục". Trần Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, quân Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng.

   Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, được tặng Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.

   Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Trần Quốc Tuấn, ví ông với Thượng Phụ (Lă Vọng ngày xưa bên Trung Quốc).

Nhân Dân Sùng Kính Phong Thánh
   Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi ngày xưa là phủ đệ của Ngài. Ngài được người dân bao đời sùng kính phong Thánh tức là Đức Thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh tướng nhà Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày Ngài mất (20 tháng 8 âm lịch hàng năm). Nhân dân không gọi trực tiếp tên của Ngài mà gọi là Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức Thánh Trần, hoặc gọi là Cha (Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ)  

   Tài liệu lấy từ Internet  Nguyễn Mạnh Thường - sưu tầm

 

 

Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân

Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.