LƯ DO ĐỂ CHÚNG TA TIN (GLV Phạm Xuân Khôi)
Lư
Chứng Vũ Trụ Luận chứng tỏ bản
chất của Thiên Chúa là TỰ HỮU, nguồn
gốc tuyệt đối của mọi sự
hiện hữu. Nhưng lại có người cho
rằng Lư Chứng Vũ Trụ Luận không chứng
minh được là có một Thiên Chúa có cá thể.
Nó không cho thấy rằng Thiên Chúa là Đấng yêu thương
và chăm sóc. Đúng hay không th́ Kinh Thánh có những
bằng chứng về một Thiên Chúa đầy quan
tâm. Điều này dẫn chúng ta đến những
bằng chứng lịch sử. Nếu
có ai hỏi bạn vể lư do của niềm hy
vọng của bạn, th́ hăy luôn sẵn sàng trả
lời, nhưng nói cách ḥa nhă và kính trọng. 1
Phr 3:15
Một số người cho rằng tin vào Thiên
Chúa là mù quáng. Theo họ th́ đức tin không để
cho lư trí một chỗ đứng, hoặc trái ngược
với những tư tưởng thông thái. Cả
một số tín hữu lẫn những người
không tin đều có chung quan niệm này. Những
người không có đức tin có thể hănh
diện về lư trí và sự thiếu ḷng tin của
họ, nhưng họ vẫn "hy vọng và tin tưởng"
rằng không có Thiên Chúa. Ngược lại, các tín
hữu có thể cho rằng đức tin vượt
trên lư trí, có thể dẫn chứng câu
1 Corinthô 1:21
Đức tin có thể được
định nghĩa là nhận một điều ǵ
đó là có thật v́ bạn tin tưởng vào người
hoặc nguồn cho bạn biết điều đó.
Niềm tin không phải chỉ dành riêng cho tôn giáo, mà
là một phần tổng quát của đời
sống con người. Chúng ta cần niềm tin v́
kiến thức con người bất toàn. Thí dụ,
hầu hết mọi người đều tin
rằng vận tốc của ánh sáng khoảng 186.000
dặm một giây. Họ thường chấp
nhận đó là sự thật v́ họ tin vào khoa
học chứ không phải v́ chính họ kiểm
chứng điều đó. Hầu hết mọi người
không được huấn luyện về kỹ
thuật, không có dụng cụ hay kiên nhẫn để
đo vận tốc ánh sáng. Điều thực tế
duy nhất là tin vào các nhà chuyên môn. Mỉa mai thay
phần đông lại tin vào thuyết Tiến Hóa.
Niềm tin cũng quan trọng trong liên hệ cá nhân.
Chúng ta có thể tin rằng một người yêu chúng
ta v́ họ cho chúng ta biết; và chúng ta tin tưởng
người đó, dầu không thể kiểm
chứng được điều đó. Một người
không có niềm tin th́ không phải là vô đạo mà
là vô nhân.
Đức tin vào Thiên Chúa không
dựa vào lư trí, nhưng có thể chứng minh cách
hợp lư. Lư trí có thể giúp chúng ta giải thích
đức tin của chúng ta dễ dàng hơn (1
Phr 3:15) và tránh cho đức tin trở thành mê tín.
Blaise Pascal cho rằng những
người có lư trí tin vào Thiên Chúa. Ông là một tư
tưởng gia, nhà phát minh, khoa học và toán học
gia của thế kỷ thứ 17. Ngay cả ngày nay
khoa học c̣n nh́n nhận Pascal v́ các công tŕnh và thiên
tài của ông bằng cách dùng tên ông để đặt
cho một ngôn tŕnh điện toán và một
đơn vị áp xuất. Lư
luận của ông để chứng minh về Thiên
Chúa được tŕnh bày như cuộc đánh cá,
gọi là Cuộc Đánh Cá của Pascal. Dầu Cuộc
Đánh Cá của Pascal không phải là một bằng
chứng có Thiên Chúa, nhưng là một lư lẽ hùng
hồn cho việc tin vào Thiên Chúa.
Cuộc
Đánh Cá Của Pascal
Đối với Pascal, hoặc là có
Thiên Chúa hoặc là không. Tôi phải đánh cá vào
một. Tôi không thể tránh được cuộc
đánh cá này. Đơn thuần làm lơ với
cuộc đánh cá này đem lại cùng một
hậu quả như cá là không có Thiên Chúa. Nếu tôi
cá là có Thiên Chúa và tôi sai, tôi không mất gí; nhưng
nếu tôi đúng, phần thắng của tôi có
thể là Thiên Đàng. Nếu tôi cá là không có Thiên Chúa
mà tôi đúng, th́ tôi cũng chẳng lợi lộc ǵ.
Tuy nhiên, nếu tôi sai th́ khốn cho tôi.
Một người có lư trí
phải nghĩ đến cái lợi cũng như nguy
cơ của cuộc đánh cá này. Không tin vào Thiên
Chúa th́ không có lợi ǵ (trừ khi hoàn toàn đúng),
trong khi đó cái lợi trong việc tin vào Thiên Chúa là
hạnh phúc đời đời. Cái nguy hiểm
của tin vào Thiên Chúa là có thể sai, nhưng cái
nguy hiểm của không tin là mất hạnh phúc đời
đời. Theo Pascal, một người
có lư trí phải tin và hành động như là có Thiên
Chúa.
Lư
Chứng Cứu Cánh
Lư luận thứ hai về Thiên
Chúa được minh họa bằng câu chuyện sau
đây. Theo một tường thuật th́ một người
vô thần có một người bạn là nhà thiên văn.
Trong khi chờ đợi ở văn pḥng của
bạn, anh ta ngạc nhiên về một mô h́nh thái dương
hệ phức tạp và đang chạy. Khi
người bạn đến, anh hỏi là ai đă làm
ra nó. Nhà thiên văn trả lời là "không ai
cả." Người vô thần hỏi lại
với vẻ bực dọc... Người bạn
vặn lại "Bạn tin rằng (thái dương
hệ) thật không được ai tạo nên, th́
tại sao mô h́nh này lại không như thế?"
Lư luận về Cứu Cánh, như
minh họa ở trên, nh́n nhận sự thiết
kế của vũ trụ. Trước hết vũ
trụ và các sinh vật có trật tự và có
thể nhận ra được. Trí óc của chúng ta
có thể hiểu chúng. Khoa học thừa nhận nó.
Các định luật vật lư là những thí
dụ cụ thể về trật tự này. Thứ
đến trong lănh vực hoạt động của
con người, người ta thường cảm
nghiệm rằng trật tự, mục đích hay sự
thiết kế phải phát xuất từ một nhà sáng
tạo thông minh. Thí dụ Bản Hoà Nhạc Thứ
Chín của Beethoven phải được tạo ra
bởi một nhà sáng tác nhạc tài ba, ngược
lại, những tiếng động bừa băi, không
có chủ tâm đều vô nghĩa. Hơn nữa, các
dinh thự phải có kiến trúc sư, tiểu
thuyết có tác giả, và bằng sáng chế có người
sáng tạo. Tất cả đều có mục đích.
Những sự thật này đương nhiên làm cho
người ta suy nghĩ về mục đích của
cuộc đời, và nhận ra Thiên Chúa là Đấng
Thiết Kế. Lư luận này là một sự nối
dài hiển nhiên của những kinh nghiệm của
thiên nhiên và nhân loại.
Nguồn gốc cổ điển
của lư luận này được minh chứng
bằng một thách đố của Êpicurô, một
triết gia Hy Lạp ở thế kỷ thứ ba trước
Công Nguyên. Êpicurô cho rằng tất cả trật
tự và thiết kế trong vũ trụ đều
phát sinh từ sự nối kết t́nh cờ của
các nguyên tử, như thế Đấng Thiết Kế
vũ trụ chỉ là một "sự
t́nh cờ mù quáng". Cicêrô bẻ lại: "Nếu
ai cho rằng thế giới đẹp đẽ và
huy hoàng quá thế này được tạo thành
bởi sự t́nh cờ hợp lại của các nguyên
tử, tôi không hiểu tại sao người ấy
không cho rằng "Biên Niên
của Enniô" cũng được
tạo nên bằng cách quẳng xuống đất hai
mươi mốt chữ cái cách lộn xộn
thật nhiều lần." Cũng thế
nếu ai tin rằng vũ trụ được
tạo nên bởi sự t́nh cờ, th́ người
đó cũng phải tin rằng sách vạn vật
(hay bất cứ sách nào chúng ta có thể đọc)
được tạo nên bằng cách đổ
một hộp các chữ cái trên bàn nhiều lần
cho đến khi đủ chữ.
Trong thời gian gần đây hơn,
các Tiến Hóa Gia đă củng cố thuyết "t́nh
cờ kết hợp" của các nguyên tử
với những tư tưởng như "sự
chọn lựa tự nhiên" và "một thời
gian dài không tưởng." Nhưng Thuyết
Tiến Hóa không cắt nghĩa được tại
sao vận tốc ánh sáng, trọng lượng của
điện tử, hằng số Plank và những
hằng số vật lư khác phải đúng cho
một vũ trụ quân bằng để có thể có
sự sống. Một vũ trụ có thể sống
được đang bị coi rẻ. Thứ đến
người ta phải nghĩ coi làm sao mà một
tế bào sống thật phức tạp có thể
nảy sinh từ một tiến tŕnh hóa học
ngẫu nhiên. Hơn nữa, theo định luật
về Entrôpy th́ điều đó có thể xảy ra
được không? Khi để
mặc kệ, sự vật thường bị hư
hại hoặc đi từ trật tự đến
lộn xộn. Nhưng quan trọng nhất là
Thuyết Tiến Hóa không trả lời được
"tại sao" chúng ta ở đây. Nó không
cắt nghĩa được cứu cánh hay mục
đích của cuộc đời. Theo Thuyết
Tiến Hóa, chúng ta chỉ là một tai nạn của
vũ trụ. Theo Thuyết Tạo Dựng, chúng ta
được dựng nên để được
Thiên Chúa yêu thương. Đó là điểm khác nhau chính
giữa Thuyết Tiến Hóa và Tạo Dựng. Lư
luận trên là lư luận thông thường nhất
để chứng minh có Thiên Chúa.
Lư
Chứng Vũ Trụ Luận
Một lư luận triết
học để chứng minh sự hiện hữu
của Thiên Chúa là Lư Chứng Vũ Trụ Luận. Lư
luận này dựa theo nhân quả, tức là sự liên
quan giữa nguyên nhân và hậu quả, cho thấy
cần một Đấng Vĩnh Hằng (tự ḿnh mà có,
không được dựng nên) như là Khởi Nguyên
của mọi sự vật khác. Sự hiện
hữu của những vật tự nhiên (các vật
tạm bợ) rơ ràng là lệ thuộc vào các vật
khác. Một cây bút ch́ lệ thuộc vào sự
hiện hữu của gỗ và than. Bây giờ với
một chuỗi vô tận những sự vật
lệ thuộc vào những sự vật lệ
thuộc khác không thể giải thích được
sự hiện hữu của chúng. Như một điều
tương tự, một xe lửa với những toa
xe, mỗi toa lệ thuộc vào toa phía trước
để kéo nó chạy, chúng không thể bắt
đầu di chuyển nếu không có đầu máy, dù
có một số toa vô tận. Cũng
thế, phải có một Đấng độc lập,
không được tạo thành là nguồn mạch
của mọi vật hiện hữu, Đấng đó là
chính là Đấng TỰ HỮU, gọi là Thiên Chúa.
Hăy lưu tâm đến
một lư luận cụ thể hơn. Trước
hết, tôi có là từ cha mẹ tôi. Cha mẹ tôi có
là bởi cha mẹ của các ngài. Mắt xích cha
mẹ bởi cha mẹ của cha mẹ mà ra. Cha
mẹ của các ngài lại có cha mẹ, và cứ
tiếp tục như thế. Giây xích cha mẹ này không
thể là một chuỗi vô hạn được, v́
loài người có khởi đầu. Vậy cái ǵ
tạo ra cha mẹ đầu tiên? Có người nói
là Tiến Hóa và cho rằng chúng ta tiến hóa từ
những nhớt ở đại dương. Câu
trả lời này chỉ tŕ hoăn câu hỏi không tránh
được. Cái ǵ làm ra đại dương? Cái
ǵ tạo ra nước? Cái ǵ tạo ra nguyên tử?
Cái ǵ tạo ra những nguyên tắc căn bản
của những phân tử của vật chất?
Những phân tử đó có thể bị hủy
diệt, th́ chính chúng cũng chỉ tạm thời.
Vậy cái ǵ tạo ra vũ trụ? Theo thuyết
"Big Bang", th́ vũ trụ và tất cả
vật chất trong đó bắt đầu bằng
một vụ nổ. Nhưng cái ǵ là nguyên nhân
của "Big Bang"? Câu trả lời là không
biết. Ngay cả nếu "Big Bang" xảy ra v́
một vụ nổ nội tại hay ǵ đi nữa,
th́ cái ǵ làm cho nổ? Rốt cuộc căn nguyên đầu
tiên hoặc là "Nhưng Không" hoặc một Đấng
Độc Lập và Tư Hữu, là Thiên Chúa. Thật là
ngu xuẩn khi tin rằng "Nhưng Không" có thể
tạo nên một vật ǵ. Vậy hoặc là tin vào
Thiên Chúa hay chấp nhận sự ngu xuẩn (thí
dụ như thuyết Nhưng Không).
Bởi v́ khoa học hiện
thời xem ra chấp nhận rằng vũ trụ có
một khởi nguyên (như Big Bang, vũ trụ
mỗi ngày một phát triển và entrôpy), lối
giải thích ở trên dựa theo một chuỗi nguyên
nhân t́nh cờ nhưng liên hệ với nhau để
đơn giản hóa việc chứng minh. Cách giải thích
nguyên thủy ở thế kỷ thứ 13 dựa theo
một chuỗi những nguyên nhân có hiệu quả,
thiết yếu và liên hệ với nhau (tương
tự như xe lửa), và vẫn có giá trị ngay
cả trường hợp vũ trụ có từ muôn
thủa. Độc giả nào thích xin
đọc Thần Học Yếu Lược, Phần
I, Câu hỏi 2, mục 3
Một số người cho
rằng có vũ trụ là v́ chúng ta quan sát được
nó. Quan niệm này thường cho là có nhiều vũ
trụ vô kể và vũ trụ của chúng ta chỉ
là một trong các vũ trụ đă tiếp nối
trong việc tiến hóa chúng ta, là những người
có thể nhận ra nó. Lư luận này là lư luận
quanh: Chúng ta nhận xét được, nên có vũ
trụ; nên có chúng ta; nên chúng ta nhận xét được.
Nó là "tự đưa ḿnh lên" cách siêu h́nh.
Thay v́ cho là có Thiên Chúa, th́ chúng ta cho là có một
số vũ trụ vô kể. Nhưng câu hỏi
vẫn c̣n nguyên: Tại sao có vô số thay v́ không?
Lư Chứng Vũ Trụ Luận
chứng tỏ bản chất của Thiên Chúa là
TỰ HỮU, nguồn gốc tuyệt đối
của mọi sự hiện hữu. Nhưng lại có
người cho rằng Lư Chứng Vũ Trụ
Luận không chứng minh được là có một
Thiên Chúa có cá thể. Nó không cho thấy rằng Thiên
Chúa là Đấng yêu thương và chăm sóc. Đúng hay
không th́ Thánh Kinh có những bằng chứng về
một Thiên Chúa đầy quan tâm. Điều này
dẫn chúng ta đến những bằng chứng
lịch sử.
Một
Dấu Chỉ Lịch Sử
Theo Thánh Kinh và truyền thống lịch sử
cổ thời của người Do Thái, th́ Thiên Chúa
có một danh xưng. Trong chương 3 của Sách
Xuất Hành, Thiên Chúa gọi ông Môsê làm thừa tác
viên của Ngài trong việc cứu dân Ngài khỏi ách
nô lệ. Sự lo lắng cho dân Ngài chứng tỏ
rằng Ngài là một Thiên Chúa đầy quan tâm và yêu
thương. Thiên Chúa đầy yêu thương này
tỏ danh Ḿnh ra:
Rồi ông Môsê thưa cùng Thiên
Chúa, "Này, tôi sẽ đến cùng con cái Israel,
và sẽ nói với họ 'Thiên Chúa của tổ tiên
anh em đă sai tôi đến với anh em.' Rồi
họ sẽ nói với tôi, 'Tên Ngài là ǵ?' Tôi sẽ
nói với họ ra sao?" Và Thiên Chúa nói cùng Môsê,
"Ta là Đấng Tự Hữu"; và Ngài nói "Vậy
ngươi hăy nói cùng con cái Israel 'Đấng Tự
Hữu' đă sai tôi đến với anh em.'" [XH
3:13-14]
Đối với người Do Thái
ngày xưa, tên một người quan trọng hơn
là một nhăn hiệu; nó thực sự nói lên
bản chất của người đó. Thí dụ
với giao ước, tên của Abram được
đổi thành Abraham, có nghĩa là "cha
của nhiều người" (STK
17:5) Trong tiếng Do Thái, tên Thiên Chúa
được viết là YHWH (Giavê), được
gọi là Kết từ tứ tự, rất thánh
đến nỗi không thể nói ra được.
Chữ này được lấy từ động
từ "có" của Do Thái. Thường
được tiếng Anh dịch là "I
AM WHO AM" hoặc theo Bản Bảy Mươi,
bản dịch thế kỷ thứ 2 trước Công
Nguyên của Thánh Kinh Do Thái sang Hy Lạp là "ĐẤNG
TỰ HỮU" (mà người Việt Nam quen
dùng). Không chắc chắn là người Do Thái
thời xưa hiểu ư nghĩa chữ này thế nào;
tuy nhiên những người Do Thái thời Tản Mác
(Thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên) nhận
ra chữ này biểu thị SỰ TỰ HỮU như
bản Bảy Mươi làm chứng. Sau hết
Hội Thánh thời Sơ Khai (Thế Kỷ thứ
nhất sau Công Nguyên) cũng nhận ra chữ này
biểu thị SỰ TỰ HỮU (Ga
8:58...); tuy nhiên, các Kitô hữu, qua công tŕnh
của Thánh Tôma Aquina, chỉ nhận ra được
ư nghĩa trọn vẹn hơn của chữ này sau
thế kỷ thứ 13 sau Công Nguyên trong liên quan
với Lư Chứng Vũ Trụ Luận.
Nguồn gốc của danh xưng
này thật là lạ lùng. Truyền thống của nó
đă có từ xa xưa như những nguồn
lịch sử cổ thời làm chứng. Ít ra một
thế kỷ trước các triết lư Hy Lạp
của Platô và Aristôte, là những người bắt
đầu hiểu Thiên Chúa theo nghĩa tự hữu.
Dầu danh Chúa, Giavê, là trọng tâm của Do Thái Giáo,
tư tưởng Thiên Chúa TỰ HỮU lại không.
Người Do Thái biết Thiên Chúa theo nghĩa cụ
thể, là Chá, Cứu Chúa, Vua, Chúa và ngay cả Đá
Tảng! (TV 89:26) Người Do Thái
thời xưa không có một triết lư trừu tượng
được khai triển rành mạch. Tuy thế,
một số tôn giáo cổ có thể đă nh́n
nhận đấng tạo hóa là các thần minh, nhưng
thường không phải thần minh với danh
hiệu hàm ư TỰ HỮU. Ngay cả nếu người
Do Thái nghe danh hiệu như thế dành cho Thiên Chúa
từ một nền văn hóa có triết lư hơn,
những danh hiệu ám chỉ quyền năng và vinh
quang vẫn hấp dẫn hơn đối với
họ, thay v́ điều trừu tượng như TA
LÀ ĐẤNG TỰ HỮU. Nếu Thiên Chúa đầy
yêu thương không tỏ Danh Ngài ra cùng ông Môsê, th́
làm sao người Do Thái biết và chấp nhận
danh xưng như thế cho Chúa của họ là danh xưng
diễn tả chính bản chất của Thiên Chúa?
Đối với các
Kitô hữu, Đức Tin là Ân Sủng - một món
quà nhưng không từ Thiên Chúa. Như những món quà
khác, đức tin cần phải được người
ta vui ḷng đón nhận để lănh nhận
được nó. Lư trí có thể giúp đỡ
quyết định đón nhận này. Nhưng v́ lư
trí có giới hạn và bất toàn (như không
biết tương lai), nên nó không bao giờ thay
thế được đức tin cả. Đức Tin
và lư trí đi đôi với nhau. Những
lư luận trên về Thiên Chúa không bao giờ cạn;
c̣n rất nhiều. Chúng có thể không thuyết
phục được mọi người; tuy nhiên, chúng
chứng tỏ rằng tin vào Thiên Chúa hợp lư.
Không những thế, không tin vào Thiên Chúa là phi lư.
Những thú vui tội lỗi tạm bợ có thể
khiến chúng ta chối từ Thiên Chúa cách phi lư, như
Thánh Vịnh 14 viết: "Kẻ
khờ dại tự bảo ḷng ḿnh rằng: Không có
Thiên Chúa" [TV 14:1].
hipoteca buro credito telmexpostales amor gusanito GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi Dịch từ:Catholic Response |
Deal Hudson: 12 Điều Người Công Giáo Phải Trả Lời Được (Phạm Xuân Khôi)