THÀNH H̀NH QUÂN LỰC
VIỆT NAM CỘNG H̉A
Lịch sử thành lập Quân Đội Việt
Nam Cộng Ḥa là một tiến tŕnh khá phức
tạp trải dài trong nhiều năm, và gắn
liền với những diễn biến của gịng
lịch sử Việt Nam cận đại. Để
độc giả có một ư niệm khái quát về
sự h́nh thành đó, chúng tôi xin tóm lược hoàn
cảnh chính trị của nước nhà vào thời
kỳ chiến tranh Việt Nam bắt đầu bùng
nổ.
Sau khi Đệ
Nhị Thế Chiến chấm dứt, quân đội
viễn chinh Pháp trở sang Đông Dương đem theo
lực lượng hùng hậu chiếm đóng ba
xứ Việt, Miên, Lào, với manh tâm đặt
lại nền đô hộ trên các thuộc địa
cũ theo chánh sách thực dân cố hữu của người
Pháp. Tướng De Gaulle bổ nhiệm đô đốc
Thierry d'Argenlieu làm cao ủy Đông Dương và danh tướng
Leclerc de Haute Cloque làm tư lệnh quân đội
viễn chinh. Vào cuối tháng 9 năm 1945, quân đội
Pháp đă núp bóng quân đội Anh do tướng
Gracey chỉ huy để giải giới quân đội
Nhật từ vĩ tuyến 16 trở xuống.
Cuộc xâm lăng
mới của Pháp này đă gặp sức kháng
cự mạnh mẽ của người Việt Nam,
nhất là các đoàn thể vơ trang như Việt
Minh, Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên trong miền Nam, và các
đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân
Đảng và Đại Việt ở miền Trung và
Bắc. Mặc dù tinh thần kháng chiến chống
thực dân của dân ta rất cao, nhưng v́ vũ khí
thô sơ và tổ chức c̣n rời rạc, nên các
lực lượng vơ trang này bị quân Pháp đánh
bại mau lẹ. Đa số phải rút về thôn quê
hay vào bưng biền để tổ chức trường
kỳ kháng chiến. Tuy một số dân chúng c̣n
lại ở các thành phố và vùng bị chiếm
đóng đă phải ngả theo Pháp v́ lư do sinh
kế hoặc muốn được yên thân, nhưng
trong ḷng đa số dân Việt lúc đó đều
nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, mong
sớm phục hồi được độc
lập và thống nhất cho quốc gia.
Trong số
những người phải ra cộng tác với Pháp,
một số đă gia nhập quân đội viễn
chinh và được gọi là Thân Binh Đông Dương
(Partisans Indochinois). Về sau, v́ nhu cầu chiến tranh
bành trướng mau lẹ, người Pháp đă
tuyển mộ lính địa phương tại
chỗ và lập thành các lực lượng phụ
thuộc (forces suppletives) do sĩ quan Pháp chỉ huy. Tưởng
cũng nên nhấn mạnh rằng: không phải ai
hợp tác với người Pháp cũng đều là
Việt Gian. Ngược lại, nhiều người
là những phần tử Quốc Gia chân chính chỉ
muốn nhờ cậy vào thế lực của Pháp
để chống lại bọn Cộng Sản
Việt Minh.
Sang năm 1948,
giải pháp Bảo Đại ra đời với
chủ trương đoàn kết các lực lượng
quốc gia để chống Việt Minh, v́ lúc đó
thành phần này đă ngả theo phe Cộng Sản
quốc tế, dưới sự lănh đạo
của Nga, Tàu để chống lại khối dân
chủ tây phương.
Theo hiệp ước
Élysée kư ngày 8 tháng 3 năm 1949 giữa quốc trưởng
Việt Nam Bảo Đại và tổng thống Pháp
Vincent Auriol, nước Việt Nam được trao
trả nền độc lập, có quân đội và
chính sách ngoại giao riêng. Do đó, quân đội
Việt Nam được chính thức thành lập và
lấy tên là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Thời kỳ phôi thai (1946-1949)
Do nghị định
quốc pḥng ngày 13 tháng 4 năm 1949, quân đội
Việt Nam được thành lập, lúc đầu
lấy tên là Vệ Binh Quốc Gia (Garde Nationale). Quân
Đội Việt Nam lúc này có qui chế riêng và lương
bổng được hưởng tương đối
cao hơn phụ lực quân lúc trước. Ba
đơn vị chiến đấu đầu tiên
được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1949 là
các tiểu đoàn bộ binh số 18, 2, và 3, gọi
tắt là BVN (Batallion Vietnamien hay Bê Vê En). Lần lượt,
các lực lượng quân sự phụ thuộc khác
như Cộng Ḥa Vệ Binh trong Nam, Bảo Vệ Quân
ở miền Trung (sau đổi tên là Việt Binh Đoàn)
và Bảo Chính Đoàn ở Bắc, v.v… được
thuyên chuyển qua hoặc sát nhập vào Quân Đội
Quốc Gia. C̣n các lực lượng vơ trang của các
giáo phái như Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên tại
miền Nam Việt Nam hoặc trở về hợp tác
với chánh phủ quốc gia, hoặc rút vào bưng,
nhưng sau đó cũng bị tiêu diệt lần
hồi. Quân số Quân Đội Quốc Gia Việt Nam vào
cuối năm 1949 là 45,000 người, không kể các
lực lượng c̣n trong hệ thống quân đội
Pháp.
Thời
kỳ thành lập (1950-1952)
Ngày 11 tháng 5 năm
1950, thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên
bố thành lập Quân Đội Quốc Gia với
lập trường chống Cộng, gia tăng quân
số lên 60,000 người, do ngân sách quốc gia
đài thọ 40%, phần c̣n lại do Pháp gánh
chịu. Viện trợ Mỹ cũng bắt đầu
giao thẳng cho các đơn vị Việt Nam, chứ
không qua trung gian quân đội Pháp theo chương tŕnh
Viện Trợ Hỗ Tương Quốc Pḥng MDAP
(Mutual Defense Assistance Program). Trưởng phái bộ
viện trợ Hoa Kỳ đầu tiên tại
Việt Nam là đại tướng O'Daniel. Các quân trường
lớn được bắt đầu thành lập
trong thời kỳ này gồm có: Trường Vơ
Bị Liên Quân Đà Lạt, Trường Sĩ Quan
Thủ Đức và Nam Định. Trường Sĩ Quan
Trừ Bị sau này được đổi tên là
Trường Bộ Binh Thủ Đức. Các trung tâm
nhập ngũ dùng để huấn luyện binh sĩ
quân dịch cũng được thành lập tại
Quang Trung (Nam Việt), Phú Bài (Trung Việt) và Quảng
Yên (Bắc Việt).
Đến năm
1951, sau khi bị thất bại nặng tại vùng
Cao-Bắc-Lạng, Pháp muốn tăng cường Quân
Đội Quốc Gia Việt Nam để nhận lănh trách
nhiệm b́nh định và an ninh lănh thổ. Do đó,
tướng De Lattre de Tassigny đă đề nghị
thành lập nhiều tiểu đoàn hoàn toàn Việt
Nam do các sĩ quan người Việt chỉ huy.
Ngày 5 tháng 5 năm
1951, Bộ Quốc Pḥng Việt Nam mới thật
sự thành h́nh, với những cơ cấu tổ
chức đầu năo như Bộ Tổng Tham Mưu,
Nha Quân Pháp, Nha Thanh Tra, Tổng Nha Hành Chánh & Quân Lương,
Nha Quân Cụ, Nha Quân Y, v.v.
Lệnh tổng
động viên được ban hành theo dụ
số 26, ngày 15 tháng 7 năm 1951, gọi các sinh viên sĩ
quan nhập ngũ khóa trừ bị đầu tiên và
60,000 thanh niên thi hành quân dịch. Cuối năm 1951,
quân số dưới cờ lên tới 110,000 người.
Các đơn vị ṇng cốt được thành
lập trong thời kỳ này là:
- Tiểu Đoàn Nhẩy Dù
- Đại Đội 1 & 3 Truyền Tin
- Đệ Nhất (I) Chi Đoàn Thám Thính Xa
- Tiểu Đoàn Pháo Binh
- Đại Đội 2 & 3 Công Binh
Qua năm 1952,
để gia tăng nỗ lực chiến tranh, Bộ
Tổng Tham Mưu được tách riêng khỏi
trụ sở Bộ Quốc Pḥng và đặt
tổng hành dinh tại ṭa nhà lầu góc đại
lộ Trần Hưng Đạo và Trần B́nh Trọng
(Chợ Quán). Vị tổng tham mưu trưởng
đầu tiên là thiếu tướng Nguyễn Văn
Hinh, con trai của thủ tướng Nguyễn Văn
Tâm, nguyên là cựu trung tá Không Quân Pháp. Vào tháng 7 năm
1952, Bộ Chỉ Huy các quân khu được thành
lập như sau:
- Đệ Nhất Quân Khu gồm Nam Việt
- Đệ Nhị Quân Khu gồm Trung Việt
- Đệ Tam Quân Khu gồm Bắc Việt
Cuối năm 1952, Quân Đội Quốc Gia có 148,000 người,
gồm 95,000 quân chánh qui và 53,000 bảo an địa
phương. Các đơn vị gồm có:
- 59 tiểu đoàn bộ binh
- 2 tiểu đoàn nhẩy dù
- 2 tiểu đoàn ngự lâm quân
- 8 tiểu đoàn sơn cước
Về cơ giới có:
- 6 chi đoàn thám thính xa
- 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 pháo đội
biệt lập
- 6 đại đội vận tải
- 6 đại đội truyền tin
- 2 liên đoàn tuần giang
Cũng trong thời kỳ này, các quân chủng Không Quân
và Hải Quân đă bắt đầu đặt
nền móng tại Nha Trang, là nơi có thời
tiết lư tưởng cho việc huấn luyện.
Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân được thành
lập vào tháng 4 năm 1952 (sẽ nói rơ hơn trong
phần lược sử binh chủng Không Quân và
Hải Quân).
Thời kỳ phát triển (1953-1954)
Theo đà phát
triển, kể từ đầu năm 1953 cho tới
khi kư kết hiệp định Geneve (ngày 20 tháng 7 năm
1954), có 4 sự kiện sau đây đáng được
ghi nhận:
1. Phát triển các bộ tham mưu, các cơ
sở chỉ huy từ trung ương đến các
quân khu, tiểu khu theo một hệ thống của quân
đội có qui uớc hẳn hoi.
2. Thành lập thêm Sư Đoàn 7 Bộ Binh và
54 tiểu đoàn khinh quân để hành quân vùng
đồng ruộng thay thế quân đội Pháp.
3. Thành lập 15 liên đoàn bộ binh và 1
liên đoàn nhẩy dù.
4. Tiến hành công việc Việt hóa
bằng cách chuyển dần các lănh thổ và công tác
hành quân cho người Việt, khởi đầu là
các tiểu khu Mỹ Tho (Nam Việt), Hưng Yên, và Bùi
Chu (Bắc Việt).
Ngày 12 tháng 4 năm
1954, thủ tướng Bửu Lộc ban hành lệnh
tổng động viên, ấn định rằng
mọi thanh niên Việt Nam sanh từ ngày 1 tháng 1 năm
1929 đến ngày 31 tháng 12 năm 1933 đều
phải nhập ngũ. Ngoài ra, mọi thanh niên
tuổi từ 18 đến 45 cũng không được
phép xuất ngoại trong thời kỳ chiến tranh.
Ṭa án quân sự được thành lập để
xét xử các thanh phần bất phục ṭng hay đào
ngũ.
Thời kỳ độc lập (1954 trở về sau)
Sau cuộc ngưng
bắn do hiệp ước Geneve ấn định, các
đơn vị của Quân Đội Quốc Gia
Việt Nam đồn trú tại phía bắc vĩ
tuyến 17 được lần lượt di
chuyển vào Nam kể từ tháng 8 năm 1954. Phần
lớn các đơn vị đóng chung quanh Hà Nội
và Hải Pḥng được đưa vào vùng Đà
Nẵng, Nha Trang, và các tỉnh miền Trung. Các
tiểu đoàn Nùng (sơn cước) được
đưa vào Cam Ranh để sau này thành lập sư
đoàn Nùng tại sông Mao do đại tá Ẉng A Sáng
chỉ huy. Bộ Tư Lệnh Đệ Tam Quân Khu
dời vào Nha Trang. Riêng các trung tâm huấn luyện Hà
Nội và Quảng Yên được sát nhập vào
Trung Tâm Quán Tre thuộc tỉnh Gia Định.
Cũng trong thời gian này, các lực lượng
vơ trang giáo phái như Cao Đài, Hoà Hảo, được
sát nhập vào Quân Đội Quốc Gia để thành
lập một quân lực có sự chỉ huy thống
nhất trên toàn quốc. Riêng có một nhóm Ḥa
Hảo ly khai chừng vài ngàn người, dưới
quyền chỉ huy của trung tướng Lê Quang Vinh,
tức Ba Cụt, rút vào Cao Miên để chống
lại chính phủ.
Ngày 26 tháng 10 năm
1955, khi cử hành lễ đăng quan của tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm và cũng là ngày khai sinh
nền Đệ Nhất Cộng Ḥa. Quân
Đội Quốc Gia được đổi tên là Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Lúc đó, quân
số hiện diện dưới cờ là 167,000 người.
Thời kỳ hiện đại hóa (1961-1975)
Kể từ lúc
mang danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH),
quân đội là lực lượng nồng cốt
bảo vệ an ninh và b́nh định lănh thỗ
miền Nam từ vĩ tuyến 17 cho đến mũi
Cà Mau. Trong thời kỳ này, quân lực Việt Nam chú
trọng đến việc gia tăng khả năng tác
chién, đặt vấn đề huấn luyện lên
hàng đầu. Nhiều đợt sĩ quan Hải
Lục Không quân được gởi đi tu
nghiệp tại ngoại quốc, nhất là tại
Hoa Kỳ để chuẩn bị cho việc hiện
đại hóa quân đội.

Lúc này, người Mỹ cũng đă có
mặt khá đông đảo tại miền Nam và
viện trợ quân sự Mỹ có tầm quan
trọng đặc biệt, nếu không muốn nói là
quyết định trong vấn đề hiện
đại hóa. Phái bộ cố vấn quân sự Hoa
Kỳ (Military Assistance & Advisory Group, gọi tắt là
MAAG) được đổi thành MAC-V và đặt
dưới quyền điều khiển của tướng
4 sao William Wesmoreland.
Về bộ binh,
bảng cấp số được tăng lên đến
11 sư đoàn bộ binh, một lực lượng
tổng trừ bị gồm Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến (TQLC). Ngoài ra, c̣n có
nhiều Liên Đoàn Biệt Động Quân (BĐQ) được
đặt dưới quyền xử dụng của các
quân khu.
Riêng các quân
chủng Không Quân và Hải Quân cũng được
bành trướng tối đa trong thời kỳ này.
Đây là giai đoạn chuyển ḿnh của QLVNCH,
biết đổi từ một lực lượng
phụ thuộc vào lực lượng viễn chinh Pháp,
để trở thành một quân đội hiện
đại và được trang bị tối tân
nhất vùng Đông Nam Á.
V́ thời kỳ
này là giai đoạn rất quan trọng trong lịch
sử h́nh thành QLVNCH, chúng tôi sẽ lược
duyệt lư do và đi sâu vào chi tiết tiến tŕnh
hiện đại hóa của những quân binh
chủng quan trọng ṇng cốt trong quân lực.
Trong những năm
từ 1961 đến 1975, Cộng Sản Bắc
Việt đă công khai xua quân xâm chiếm miền Nam.
Nấp dưới tấm b́nh phong giả tạo
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN), hàng sư
đoàn quân chính qui cộng sản dùng đường
ṃn Hồ Chí Minh vượt vĩ tuyến 17 vào Nam.
Những sư đoàn này được trang bị
bằng đủ loại vũ khí tối tân với
chiến xa và đại pháo yểm trợ. Nhưng dù
ở thế bị động, Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa đă giáng cho bọn cộng sản xâm lược
những đ̣n quyết liệt, điển h́nh là
trận thảm bại trong cuộc Tổng Công Kích
Tết Mậu Thân vào 1968.
Tuy nhiên sau khi
đă dùng chính sách "ngoại giao bóng bàn" để
bắt tay được với Trung Cộng, và cũng
v́ bị dân chúng phản đối dữ dội, chính
phủ Nixon chuẩn bị kế hoạch rút quân
đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Chương tŕnh này được gọi là "Việt
hóa cuộc chiến" (Vietnamization).
Nguồn gốc
của danh từ "Việt hóa" chỉ là
một sự ngẫu nhiên. Nguyên vào khoảng tháng 3 năm
1971, lúc tổng thống Nixon mới đắc cử,
tướng Andrew Goodpaster lúc đó là phụ tá
của tướng Abrams (tướng Abrams là tổng
tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại
Việt Nam) có tham dự một buổi thuyết tŕnh
của Hội Đồng An Ninh Hoa Kỳ. Trong buổi
thuyết tŕnh, tướng Goodpaster loan báo rằng Quân
Lực VNCH bây giờ đă đủ mạnh, đến
độ Hoa Kỳ có thể "không cần Mỹ hóa"
(de-Americanizing) cuộc chiến tại Việt Nam
nữa. Lúc đó, tổng trưởng quốc pḥng
Hoa Kỳ Melvin Laird, một nhà chính trị già đời,
cho rằng nếu nói "không c̣n Mỹ hóa"
tức là gián tiếp công nhận trước đây
Hoa Kỳ đă biến chiến tranh Việt Nam thành
chiến tranh xâm lược giữa đế quốc
Mỹ và nhân dân Việt Nam. Như vậy sẽ rơi
vào chiêu bài "chống Mỹ cứu nước"
của Cộng Sản. Bộ trưởng Laird đề
nghị chỉ nên dùng một danh từ nào đó gián
tiếp có ư nghĩa là Hoa Kỳ sẽ rút chân
khỏi Việt Nam, nhưng tránh không đả động
ǵ tới vấn đề Mỹ hóa. Thí dụ như
thay v́ nói "de-Americanizing" chẳng hạn.
Tổng thống Nixon, cùng là một con cáo già chính
trị, lập tức đồng ư: "Bộ trưởng
Laird nói có lư." Thế là danh từ "Việt hóa"
(Vietnamization) được ra đời trong tự
điển Hoa Kỳ.
Thực tế, quân
đội Hoa Kỳ tuy đă muốn rút chân khỏi
Việt Nam, tức là không c̣n tham chiến nữa, nhưng
lại không muốn bị mất mặt v́ đă
bỏ rơi đồng minh và bị bọn cộng
sản của một tiểu quốc đánh bại.
V́ danh từ "de-Americanizing" bao hàm ư nghĩa Hoa
Kỳ tháo chạy và bỏ rơi đồng minh, nên
danh từ "Việt hóa" được xử
dụng. Thật ra, Việt hóa tức là chuyển gánh
nặng quân sự sang cho quân lực Việt Nam
Cộng Ḥa, như vậy quân đội Hoa Kỳ
sẽ không c̣n phải tham chiến nữa, tức là
"không Mỹ hóa" vậy.
Chương tŕnh "Việt hóa" hay hiện đại
hóa QLVNCH được chia ra làm 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Huấn luyện và trang
bị QLVNCH để chuyển giao dần trách
nhiệm bộ chiến.
Giai đoạn 2: Phát triển khả năng
yểm trợ của QLVNCH.
Giai đoạn 3: Các quân nhân Hoa Kỳ
nếu c̣n lại ở Việt Nam, sẽ chỉ
giữ vai tṛ cố vấn.
Tuy măi đến khoảng đầu thập niên 1970
vấn đề Việt hóa, tức là giao trọng trách
trên chiến trường cho QLVNCH, mới được
đề cập tới, nhưng trên thực tế,
trước khi có chương tŕnh này, QLVNCH cũng
đă đảm đương phần lớn gánh
nặng của chiến cuộc. Tuy quân lực Hoa
Kỳ có tham dự những trận đánh lớn
với cộng quân, nhưng các lực lượng
QLVNCH đă luôn luôn đụng độ với địch
nhiều hơn, và thiệt hại bao giờ cũng
cao hơn lực lượng đồng minh.
Mặc dù có
nhiều ư kiến chống đối tại Việt
Nam cũng như tại Hoa Kỳ, công cuộc "Việt
hóa" được tiến triển rất nhanh qua
kế hoạch "Hiện Đại Hóa QLVNCH" (gọi
tắt là CRIMP - Consolidated RVNAF Improvement and Modernization
Program). Tính đến năm 1972, Hoa Kỳ đă
chuyển giao cho QLVNCH:
- Trên 800,000 vũ khí cá nhân và cộng đồng.
- Khoảng 2,000 chiến xa và đại bác.
- Khoảng 44,000 máy truyền tin.
So với năm
1968, QLVNCH có khoảng 700,000 người, vào cuối năm
1971 tăng lên trên 1 triệu người. Như
vậy, QLVNCH đă được canh tân và cải
tiến trong đầu thập niên 1970 để có
thể thay thế quân đội Hoa Kỳ trên
chiến trường Miền Nam. Sau đây, chúng tôi
sẽ đi sâu vào thời kỳ hiện đại hóa
rất quan trọng của từng quân chủng:
Lục Quân, Không Quân, và Hải Quân.
Để giúp quư
độc giả, nhất là những bạn trẻ
không có dịp chiến đấu trong QLVNCH, dễ dàng
nắm vững được những phần
nồng cốt trong bài biên khảo này, chúng tôi xin
mạn phép được đề câp sơ qua
về cơ cấu tổ chức của QLVNCH.
Tổng quát, Quân
Lực VNCH được phân chia làm 3 quân chủng:
Hải Quân, Không Quân, và Lục Quân, thường
được gọi tắt là Hải, Lục, Không
Quân. Cũng như đa số các quân đội trên
thế giới, Lục Quân bao giờ cũng phải
đảm đương phần lớn trách
nhiệm trong các cuộc chiến, nên quân chủng này
quan trọng nhất và có đông quân nhất.
Theo định
nghĩa khái quát, Lục Quân gồm các quân nhân đánh
giặc "trên mặt đất". Không Quân dùng
phi cơ để bay trên trời, và Hải Quân
xử dụng các chiến hạm chiến đĩnh
trên sông ng̣i hay biển cả. Có nhiều người
thường xử dụng lẫn lộn danh từ
"quân chủng" và "binh chủng", thí
dụ như "binh chủng" Không Quân, "binh
chủng" Hải Quân"... Điều này cũng không
lấy ǵ làm lạ, v́ "quân" hay "binh" cũng
đều là lính cả! Tuy nhiên, nếu phân biệt
rơ ràng, một binh chủng chỉ là thành phần
của một quân chủng, cũng như tiểu
đoàn là thành phần của một trung đoàn.
Lục Quân là một quân chủng lớn với
gần nửa triệu quân dưới cờ, nên
được chia thành nhiều binh chủng như:
Bộ Binh, Công Binh, Pháo Binh, Thiết Giáp Binh, v.v. C̣n
hai Quân Chủng Không Quân và Hải Quân không được
chia thành những binh chủng riêng biệt. Nếu
chỉ kể riêng về quân số, binh chủng
Bộ Binh c̣n đông hơn cả quân chủng Không
Quân và Hải Quân hợp lại.
Đối với các binh chủng đặt
biệt như Nhẩy Dù hay Thủy Quân Lục
Chiến, tuy có dùng chiếm hạm của Hải Quân
hay phi cơ của Không Quân khi đi hành quân, nhưng
đều được kể là những binh
chủng của Lục Quân. Nh́n chung, Lục Quân
được gia tăng lên đến 450,000 người,
chia ra 13 sư đoàn, gồm 171 tiểu đoàn lưu
động được phối trí như sau: Sư
Đoàn 1, 2, và 3 trấn đóng tại Vùng 1 Chiến
Thuật. Sư Đoàn 22 và 23 trấn đóng tại vùng
2 Chiến Thuật. Sư Đoàn 5, 18, và 25 trấn đóng
tại Vùng 3 Chiến Thuật. Sư Đoàn 7, 9, và 21
trấn đóng tại Vùng 4 Chiến Thuật.
Ngoài ra, c̣n có hai
sư đoàn tổng trừ bị là Sư Đoàn Dù và
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Bốn mươi
lăm (45) tiểu đoàn Biệt Động Quân
được chia ra thành những liên đoàn đặt
trực thuộc các Vùng Chiến Thuật. Năm mươi
tám (58) tiểu đoàn Pháo Binh. Trong số những
tiểu đoàn này, chỉ có mỗi một tiểu
đoàn được trang bị đại bác 175 ly
có tầm bắn xa tương đương với
đại bác 130 ly của cộng quân. Các đại
bác khác đều thuộc loại 105 ly hay 155 ly có
tầm bắc ngắn hơn đại pháo của
địch tới mươi cây số. Mười chính
(19) thiết đoàn Kỵ Binh.
Lực lượng
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tại các
tiểu khu và chi khu cũng gia tăng đáng kể, lên
đến 550,000 người vào năm 1972. Quan
trọng hơn nữa, lực lượng này
được trang bị vũ khí tối tân M-16 và
M-60 để thay thế các vũ khí lỗi thời
như M-1 và trung liên BAR. Lục Quân có Lục Quân Công
Xưởng tại G̣ Vấp để sửa
chữa và bảo tŕ những chiến cụ nặng
như chiến xa và đại bác, v.v.
Binh Chủng Thiết Giáp
Vào năm 1950, người
Pháp thành lập một đơn vị Thám Thính Xa
cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Đến khi đất
nước bị chia đôi vào năm 1954, binh
chủng Thiết Giáp gồm Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp
và 4 thiết đoàn biệt lập. Cho tới đầu
năm 1955, Bổ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh mới
được chính thức thành lập cùng với
nền Đệ Nhất Cộng Ḥa.
Những chiến
xa đầu tiên của binh chủng Thiết Giáp
đều thuộc loại M-24 Chaffees nhẹ, thiết
xa M8 loại nửa bánh nửa xích. Vào năm 1956,
Thiết Giáp Binh được tổ chức theo tiêu
chuẩn Hoa Kỳ, gồm những thiết đoàn
kỵ binh, mỗi thiết đoàn gồm 2 chi đoàn
trang bị chiến xa M-8, M-3, và M-24.
Trong thời gian
từ 1957 đến 1962, Thiết Giáp Binh chỉ
giữ một vai tṛ khiêm nhường trên chiến trường
miền Nam v́ các nhà quân sự cho rằng Việt Nam
với nhiều rừng rú và sông rạch ruộng vườn
lầy lội, không phải là chiến trường
thích hợp cho chiến xa di chuyển. Tuy nhiên, cùng
với sự sôi động của chiến trường,
những thiết vận xa hay thiết quân vận M-113
được mang ra xử dụng thành công trong các
cuộc hành quân tại Vùng 4. Sau đó, các thiết
quân vận M-113 được trang bị hỏa
lực mạnh hơn và lá chắn để trở
thành một loại "chiến xa" đa dụng
của Thiết Giáp Binh (xin phân biệt chiến xa hay
xe tăng có nhiệm vụ chính là dùng hỏa lực
tiêu diệt địch quân, c̣n thiết quân vận có
mục đích nguyên thủy là dùng để chở
quân đổ vào mục tiêu). Đến năm 1964, các
chiến xa Chaffees cũ kỹ được thay
thế bằng loại M-41A3 "Walker Bulldog"
tối tân hơn. Chiến xa M-41 chẳng bao lâu đă
trở thành xương sống của Thiết Giáp
Binh với 5 chi đoàn và rất được các
chiến sĩ mũ đen ưa chuộng. Loại này
tuy bị coi là nhỏ bé chật chội đối
với người tây phương cồng kềnh, nhưng
đối với người Việt Nam nhỏ tác th́
lại rất vừa vặn và hữu hiệu.
Vào những năm
cuối cùng của cuộc chiến, khi Cộng
Sản Bắc Việt dùng các loại chiến xa T-54 và
PT-76 để yểm trợ cho bộ binh xung trận,
Thiết Giáp Binh QLVNCH lại được canh tân qua
chương tŕnh Việt Nam hóa với các chiến xa
tối tân hơn như M-48 có máy nhắm bằng
Xenon. Trong các cuộc hành quân lớn như vượt
biên qua Cam Bốt năm 1970, Hạ Lào năm 1971, và
trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, các
chiến xa của ta đă tỏ ra trội vượt
so với thiết giáp của đối phương và
gây cho chúng những thiệt hại nặng nề. Riêng
trong trận xa chiến đầu tiên với chiến
xa cộng sản tại Hạ Lào vào năm 1971, các
chiến xa M-41 của Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ (do
đại tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy)
đă bắn hạ 6 chiến xa T-54 và 16 PT-76 của
địch mà không bị một tổn thất nào.
Vị tư lệnh cuối cùng của binh
chủng Thiết Giáp là chuẩn tướng Phan Ḥa
Hiệp.
Binh Chủng Pháo Binh
Pháo binh Việt Nam xuất hiện trên
chiến trường vào cuối năm 1951 với các
đơn vị đầu tiên được gọi
là Pháo Đội Biệt Lập (Batterie de tir autonome). Sau
đó, vào các năm 1952-1953, các pháo đội này
được tập trung thành các tiểu đoàn pháo
binh (Group d'artillerie). Các tiểu đoàn pháo binh
Việt Nam, Pháo gọi là GAVN, gồm 3 pháo đội
với 12 khẩu đại bác 105 ly. Sau đây là danh
sách các tiểu đoàn pháo binh đầu tiên với
ngày thành lập:
- Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng
11 năm 1952 tại Bắc Việt.
- Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng
3 năm 1953 tại Trung Việt.
- Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng
3 năm 1953 tại Cao Nguyên.
- Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng
5 năm 1953 tại Nam Việt.
Tuy được
thành lập đă lâu, nhưng măi tới tháng 10 năm
1954, các sĩ quan pháo binh Việt Nam mới đảm
nhiệm chức vụ tiểu đoàn trưởng. Và
măi đến tháng 3 năm 1955, binh chủng Pháo Binh
mới có vị chỉ huy trưởng đầu tiên.
Một trong những vị chỉ huy trưởng lúc
ban đầu rất nổi tiếng của Pháo Binh là
tướng Nguyễn Đức Thắng.
Về sau, cùng
với sự bành trướng của QLVNCH, binh
chủng Pháo Binh cũng gia tăng nhanh chóng với các
đơn vị pháo binh diện địa và di động
đi theo các sư đoàn tổng trừ bị Dù và
Thủy Quân Lục Chiến. Vào năm 1972, khi chương
tŕnh hiện đại hoá QLVCH lên tới cao độ,
có tới 58 tiểu đoàn Pháo Binh đồn trú
khắp nơi trên các vùng Chiến Thuật.
Pháo Binh, cùng
với Không Quân và Hải Quân, được coi như
là những vị cứu tinh của các tiền đồn
bị cô lập hay các đơn vị bộ binh
đang chạm địch. Với những khẩu
đội pháo bắn tập trung và tiêu diệt,
lợi điểm của Pháo Binh là có thể tác
xạ yểm trợ lâu dài và hữu hiệu dưới
mọi thời tiết.
Nhưng rất tiếc khi chiến cuộc
Việt Nam gần tàn vào những năm 1973-1974,
khả năng hoạt động của Pháo Binh không
c̣n được hữu hiệu như trước v́
t́nh trạng đạn dược bị hạn
chế. Hơn nữa, cả binh chủng Pháo Binh
chỉ có một tiểu đoàn được trang
bị đại pháo 175 ly có tầm bắn tương
đương với trọng pháo 130 ly của địch
quân lúc đó đang đầy rẫy khắp
chiến trường. Đa số đại bác của
ta là loại 105 ly và 155 ly với tầm bắn
ngắn hơn trọng pháo của địch. Do đó,
địch có thể pháo kích những căn cứ
hỏa lực hay nơi đặt pháo mà ta không
phản pháo được v́ ngoài tầm tác xạ.
Đoàn Nữ Quân Nhân
Thiết tưởng
khi đề cập đến lịch sử của
QLVNCH mà không nhắc đến Đoàn Nữ Quân Nhân, có
thể là một thiếu sót đáng trách. Những
"đóa hoa nở trên đầu súng" này, tuy không
trực tiếp xông pha nơi tuyến đầu, nhưng
cũng đă góp phần không nhỏ trong việc xây
dựng đại gia đ́nh quân đội. Vào lúc
cuộc chiến giữa hai phe Quốc Gia và Cộng
Sản đang thời sôi động nhất, khi "lời
sông núi giục vang bốn phương trời,"
đă có khá đông phụ nữa đi theo bước
chân "Triệu Trưng xưa đẹp gương
sáng muôn đời," gia nhập quân ngũ để
đảm nhiệm những công tác xă hội.
Sở xă hội
được thành lập vào tháng 7 năm 1952
với khóa huấn luyện Nữ Trợ Tá đầu
tiên được tổ chức vào ngày 21 tháng 8 năm
1952 tại trường Hồng Thập Tự Pháp.
Từ đó, bóng dáng người phụ nữ
Việt Nam trong quân phục đă trở thành khá quen
thuộc trong một tập thể trước đây
được coi là độc quyền của nam
giới. Đoàn Nữ Quân Nhân được chia làm hai
thành phần chính: Nữ Phụ Tá (Personnel Auxilliaire
Feminin, gọi tắt là PAF) đảm nhiệm
những công tác văn pḥng để nam quân nhân có
thể cầm súng ra trận. Nữ Trợ Tá Xă
Hội (Assistance Sociale hay Auxiliaire Sociale) chuyên lo công tác
xă hội như cứu trợ gia đ́nh hay săn sóc
thương bệnh binh. Sở Xă Hội khi mới thành
lập do phu nhân của thiếu tướng Nguyễn
Văn Hinh là một người Pháp điều
khiển. Đến tháng 4 năm 1954, Sở Xă Hội
được mở rộng thành Nha Xă Hội và Văn
Hóa. Về sau này, các Nữ Trợ Tá trở thành các
Nữ Quân Nhân có mặt hầu hết trong các Quân
Binh Chủng. Trong binh chủng Nhẩy Dù, thoạt
đầu các Nữ Quân Nhân đảm trách việc
xếp dù, sau đó họ học nhẩy dù và thành
lập một toán Nữ Quân Nhân chuyên biểu
diễn nhẩy dù rất thành thạo và ngoạn
mục.
Đoàn Nữ Quân
Nhân QLVNCH có nhiều cấp chỉ huy rất nổi
tiếng như bà trung tá Vẽ, bà trung tá Hương,
bà thiếu tá Hằng. Trường Nữ Quân Nhân sau
này được thiết lập tại Phú Thọ.
Khi tham dự các cuộc diễn binh hay lễ lớn,
đoàn Nữ Quân Nhân thường diễn hành
rất hùng dũng và nhịp nhàng, luôn luôn được
hoan hô và tán thưởng nhiều nhất.
Quân
Chủng Không Quân
Quân chủng Không
Quân Việt Nam (KQVN) được thành lập
bởi Dụ Số 9 ngày 25 tháng 6 năm 1951, nhưng
măi tới tháng 6 năm 1952 mới bắt đầu
chính thức hoạt động tại Nha Trang, nơi
được xem như là cái nôi của Không Quân.

Thoạt
tiên, KQVN được nảy sinh ra từ lực lượng
Không Quân Viễn Đông Pháp (Forces Aeriennes en Extreme Orient),
bắt đầu từ một trung tâm huấn
luyện đặt tại bờ biển Nha Trang để
huấn luyện phi công và quan sát viên trên phi cơ
Morane 500 (máy bay Bà Già!). Lúc đầu, hầu hết
các hoa tiêu và cơ khí viên đều được
gửi đi thụ huấn tại các trường Không
Quân ở Pháp và Bắc Phi Châu như Salon, Fes,
Marrakech, Rochefort. Quân số Không Quân lúc thành lập
chỉ độ 3,000 người.
Bước sang năm
1961, v́ nhu cầu chiến trường gia tăng để
chống lại các cuộc tấn công của Cộng
Sản, Không Quân Việt Nam được trang bị
một cách tích cực bằng những loại phi cơ
tối tân hơn và quân số đă gia tăng
gấp 10 lần so với lúc thành lập. Nhiều phi
trường cũng được cải tiến
để tiếp nhận các oanh tạc cơ hạng
nặng. Phi đạo tại các phi trường
lớn như Tân Sơn Nhất, Biên Ḥa, Đà Nẵng
được nối dài thành 10,000 bộ để
trở thành phi trường quốc tế hạng A.
Trong đợt
đầu, vào năm 1962, KQVN đă có những phi
đoàn sau đây: Phi Đoàn Khu Trục trang bị phi cơ
A-1H đồn trú tại Đà Nẵng, Biên Ḥa, và B́nh
Thủy. Ba (3) phi đoàn vận tải cơ C-47 cùng 2
phi đoàn C-119 và C-123 đồn trú tại Tân Sơn
Nhất. Năm (5) phi đoàn Quan Sát. Bốn (4) phi
đoàn Trực Thăng: 211 tại Sàig̣n – Tân Sơn
Nhất, 213 & 217 tại Đà Nẵng, 215 tại Nha
Trang. Và nhiều phi đoàn cho những phi vụ đặc
biệt.
Sau này, các phi cơ
cánh quạt được thay thế bằng phi cơ
phản lực tối tân, cùng hàng trăm phi cơ
trực thăng UH-1H và Chinook CH-47. Vào tháng 7 năm
1964, Phi Đoàn Khu Trục 524 tại Nha Trang là phi đoàn
đầu tiên tiếp nhận phi cơ A-37, là
loại chiến đấu phản lực 2 động
cơ, đánh dấu KQVN tiến thêm một bước
nữa vào "thời đại phản lực."
Trong những năm kế tiếp, căn cứ Không
Quân Biên Ḥa thành lập thêm 3 phi đoàn chiến
đấu cơ siêu thanh (supersonic fighter) F-5, là một
trong những loại hiện đại nhất vào
thời điểm này. Về ngành vận tải, Sư
Đoàn 5 Không Quân tại Tân Sơn Nhất cũng
được trang bị thêm 2 phi đoàn vận
tải bán phản lực với loại phi cơ C-130
Hercules.

Để bảo tŕ và sửa chữa các
loại phi cơ, một Không Quân Công Xưởng cũng
được thiết lập tại Biên Ḥa. Không Quân
Công Xưởng này được trang bị rất
tối tân với những chuyên viên bảo tŕ
thuộc vào hàng giỏi nhất vùng Đông Nam Á.
Vào lúc cao điểm
của chiến tranh Việt Nam, Không Lực Việt
Nam có quân số lên đến 60,000 người
với khoảng 1,860 phi cơ kể cả trực thăng.
Không Quân Việt Nam đă có lúc được coi là
hùng hậu nhất Đông Nam Á và đứng vào hàng
thứ tư trên thế giới, được
tổ chức thành 6 Sư Đoàn Không Quân Chiến
Thuật, phối trí như sau: Sư Đoàn 1 Không Quân:
Vùng 1 Chiến Thuật. Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 6 Không
Quân: Vùng 2 Chiến Thuật. Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn
5 Không Quân: Vùng 3 Chiến Thuật. Sư Đoàn 4 Không
Quân: Vùng 4 Chiến Thuật.
Quân
Chủng Hải Quân
Vào khoảng
đầu năm 1951, tuy Hải Quân Việt Nam chưa
chính thức ra đời, nhưng đă có nhiều
Liên Đoàn Tuần Giang (tiếng Pháp gọi là Garde
Auxiliaire Escadrille Fluviale, gọi tắt là GAEF) được
thành lập để đáp ứng như cầu hành
quân trên sông ng̣i toàn lănh thổ Việt Nam. Các Liên
Đoàn Tuần Giang (LĐTG) này được phân phối
như sau:
- LĐTG số 1, đồn trú tại Sài G̣n, gồm có
4 Đoàn Tuần Giang (ĐTG):
ĐTG 1 đóng tại Cần Thơ.
ĐTG 2 đóng tại Mỹ Tho.
ĐTG 3 đóng tại Vĩng Long.
ĐTG 4 đóng tại Sài G̣n.
- LĐTG số 2, đồn rú tại Huế, chỉ có
một ĐTG độc nhất cũng đóng tại
Huế.
- LĐTG số 3, đồn trú tại Hà Nội, gồm
có 3 ĐTG:
ĐTG 1 đóng tại Hà Nội.
ĐTG 2 đóng tại Hải Pḥng.
ĐTG 3 đóng tại Nam Định.
Trên lư thuyết,
mỗi Bộ Chỉ Huy LĐTG gồm 2 sĩ quan, 2
hạ sĩ quan, 9 binh sĩ, và có một tàu chỉ
huy. Mỗi ĐTG có 1 sĩ quan, 15 hạ sĩ quan, 76 binh
sĩ, và 6 tầu Vedettes. Tuy nhiên, quân số và
chiến đĩnh thuộc mỗi ĐTG được
du di tùy theo nhu cầu chiến trường. Quân
số tổng cộng của các LĐTG là 920 người.
V́ lúc đó Hải Quân chưa được thành
lập nên những LĐTG được đặt dưới
quyền của Vệ Binh Quốc Gia (GA). Có thể nói
những LĐTG là thủy tổ của Hải Quân
Việt Nam lúc chưa thành h́nh.
Tưởng cũng
nên nhắc lại vào thời gian đó cũng có
những đại đội Commando chuyên đánh
thủy như các đại đội Ouragan, Tempete,
Jaubert, Montfort. Ta cũng có thể nói những đại
đội "lính bộ đánh thủy" này là
tiền thân của binh chủng Thủy Quân Lục
Chiến sau này.
Trước đó, vào năm 1950, đă có
một số thanh niên Việt Nam được
gửi sang Pháp thụ huấn các khóa ngắn hạn
tại trường Hải Quân Brest. Trung Tâm Huấn
Luyện Hải Quân (TTHLHQ) Nha Trang được
khởi công xây cất vào tháng 11 năm 1951. Sau đây
là những thơi điểm chính trong lịch sử
h́nh thành Hải Quân Việt Nam (HQVN).
- Ngày 6 tháng 3 năm 1952: Hải Quân Việt
Nam được chính thức thành lâp bởi Dụ
Số 2.
- Ngày 20 tháng 5 năm 1952: Thành lập Bộ
Tư Lệnh HQVN.
- Ngày 12 tháng 7 năm 1952: Khánh thành TTHLHQ. Đô
đốc Ortoli (Pháp) chủ tọa.
- Tháng 9 năm 1952: Khóa 1 SQHQ Nha Trang ra trường,
gồm 9 sĩ quan.
- Tháng 10 năm 1952: sáu người được
tuyển chọn đi học khóa SQHQ tại Brest (Pháp).
- Đầu năm 1953: Hai đoàn tiểu
đĩnh được biến cải thành hai
Hải Đoàn Xung Phong đầu tiên đóng tại
Cần Thơ và Vĩnh Long. Hải Đoàn Xung Phong
Cần Thơ là đơn vị Hải Quân đầu
tiên có chiến đĩnh mang quốc kỳ Việt
Nam trên kỳ đài. Măi đến đầu năm
1954, một Hải Đoàn Xung Phong thứ ba mới
được thành lập để tham chiến
tại vùng trung châu Bắc Việt.
Tháng 4 năm 1953: Pháp chuyển giao cho HQVN
một Giang Pháo Hạm (Landing Ship Infantry Large, gọi
tắt là LSIL). Chiến hạm này vẫn mang cờ Pháp.
Đầu năm 1954: Quân số HQVN gồm có 22 sĩ
quan và 984 hạ sĩ quan và đoàn viên.
Ngày 30 tháng 6 năm 1955, thủ tướng Ngô Đ́nh
Diệm chỉ định tướng Trần Văn
Đôn chỉ huy HQVN. Như vậy, tuy đă chuyển
gia một số đơn vị cho HQVN, sĩ quan Pháp
vẫn tiếp tục chỉ huy HQVN cho đến
đầu năm 1955. Vào năm 1950 đă có 8 sĩ
quan Hải Quân Hoa Kỳ trong phái bộ MAAG (Military
Assistance Advisory Group) nhưng măi đến năm 1954
mới có cố vấn Hoa Kỳ trong Hải Quân
Việt Nam.
Ngày 20
tháng 8 năm 1955: Quân đội Pháp chính thức
chuyển giao quân chủng Hải Quân cho QLVNCH (cùng ngày
với Không Quân). Hải Quân Thiếu Tá Lê Quang
Mỹ được thủ tướng Ngô Đ́nh
Diệm bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh
Hải Quân đầu tiên (kiêm tư lệnh Thủy
Quân Lục Chiến).
Ngày 7 tháng 11 năm 1955: Pháp chuyển giao TTHL/HQ
Nha Trang cho HQVN. Tính cho đến cuối năm 1955, Pháp
đă chuyển giao cho HQVN những đơn vị sau
đây:
-- 4 Hải Đoàn Xung Phong: HDXP 21 đóng
tại Mỹ Tho, 23 đóng tại Vĩnh Long, 24 đóng
tại Sài G̣n, 25 đóng tại Cần Thơ.
-- 3 căn cứ Hải Quân: Sài G̣n, Cát Lái,
và Đà Nẵng.
-- 4 đồn Hải Quân tại Mỹ Tho,
Cần Thơ, Vĩnh Long, và Long Xuyên.
-- Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha
Trang.
-- Hải Quân Công Xưởng Sài G̣n (Ba Son).
-- Kho đạn Thành Tuy Hạ.
Lúc đó, HDXP 22 đă được thành
lập và di chuyển từ miền Bắc vào, nhưng
giang đĩnh bị thiệt hại khá nặng nên
phải giải tán và sát nhập vào HDXP 21.
Tháng 7 năm 1955: Bảng cấp số lư
thuyết của Hải Quân được chấp
thuận, tăng quân số lên 4,250 người. Lúc
đó, quân số Hải Quân đă có 3,858 người
phân chia như sau:
-- Hải Quân chính thức: 2,567 người
gồm 190 sĩ quan, 2,377 hạ sĩ quan và đoàn viên.
-- Thủy Quân Lục Chiến: 1,291 người,
gồm 43 sĩ quan, 257 hạ sĩ quan và 991 binh sĩ.

Sau khi được chuyển giao, HQVN chia thành
ba lực lượng chính sau đây:
1. Hải Trấn: Gồm 4 Duyên Khu (Phú Quốc, Nha
Trang, Vũng Tầu, Đà Nẵng). TTHL/HQ Nha Trang và ba
Thủy Xưởng (miền đông: Sài G̣n, miền
tây: Cần Thơ, miền trung: Đà Nẵng).
2. Hải Lực: Gồm có các chiến hạm
tuần tiễu hay yểm trợ ven biển:
- 5 tuần duyên hạm (PC - Patrol Craft): HQ 01
Chi Lăng, HQ 02 Vạn Kiếp, HQ 04 Tụy Động, HQ
05 Tây Kết, HQ 06 Vân Đồn.
- 3 trục lôi hạm (YMS - Yatch Mine Sweeper - tàu
rà ḿn): HQ 111 Hàm Tử, HQ 112 Chương Dương,
HQ 113 Bạch Đằng.
- 2 Trợ Chiến Hạm (LSSL - Landing Ship
Support Large): HQ 225 Nỏ Thần, HQ 226 Linh Kiếm.
- 5 Giang Pháo Hạm (LSIL - Landing Ship Infantry
Large): HQ 327 Long Đao, HQ 328 Thần Tiễn, HQ 329 Thiên Kích,
HQ 330 Lôi Công, HQ 331 Tầm Sét.
- 4 Hải Vận Hạm (LSM - Landing Ship
Medium): HQ 400 Hát Giang, HQ 401 Hàn Giang, HQ 402 Lam Giang, HQ 403
Ninh Giang.
3. Giang Lực: gồm một số tầu trục
vớt trong sông và quân vận đĩnh (LCU - Landing
Craft Utility) và năm Hải Đoàn Xung Phong được
phân phối như sau:
- HDXP 21 đóng tại Mỹ Tho.
- HDXP 23 đóng tại Vĩnh Long.
- HDXP 24 đóng tại Sài G̣n.
- HDXP 25 đóng tại Cần Thơ.
- HDXP 26 đóng tại Long Xuyên.
(Lúc đó v́ HDXP 22 bị thiệt hại nặng ngoài
Bắc Việt, nên khi di chuyển vào Nam được
sát nhập vào HDXP 21).
Tháng 5 năm 1957: Các sĩ quan HQ Pháp cuối
cùng rời khỏi TTHL/HQ Nha Trang. SQHQ Việt Nam hoàn toàn
đảm trách việc huấn luyện. Năm 1958: Khóa
8 Đệ Nhất Hổ Cáp là khóa SVSQ/HQ đầu tiên
được chính SQ Hải Quân VN tuyển mộ và
huấn luyện.

Trong khoảng 10 năm từ 1958 tới 1968,
Hải Quân Việt Nam tiếp tục bành trướng
mạnh mẽ, cả về quân số lẫn
chiến hạm. Nhiều nhân viên được
gửi đi thụ huấn tại ngoại quốc và
Hoa Kỳ cũng chuyển giao nhiều chiến hạm.
Vào tháng 11 năm 1969, trong khuôn khổ kế hoạch
"Việt Hóa Cuộc Chiến" (Vietnamization) và
"Chuyển Giao Cấp Tốc" (Accelerated Turn Over
to the Vietnamese - ACTOV), chỉ trong một thời gian
ngắn, HQVN nhận được trên 500
chiếnhạm và chiến đỉnh đủ
loại. Cho tới tháng 4 năm 1975, quân số của
Hải Quân lên đến gần 43,000 người
với khoảng 1,600 chiến hạm và chiến đỉnh
đủ loại.
Tưởng cũng
nên nhắc nhở là Hải Quân Công Xưởng (c̣n
được gọi là Sở Ba Son) là môt thủy xưởng
được thiết lập ngay trên bờ sông Sài
G̣n từ thế kỷ thứ 19, trên một khu đất
rộng chừng 53 mẫu tây. Thủy xưởng này
có nhiều ụ nổi đủ sức tân trang và
đại kỳ những chiến hạm cỡ
lớn.
Các đại đơn vị thuộc quân chủng
Hải Quân được tổ chức như sau.
Bộ
Tư Lệnh Hành Quân Sông, gồm có:
1. Vùng III Sông Ng̣i đóng tại Sài G̣n,
chỉ huy các Giang Đoàn Xung Phong.
2. Vùng IV Sông Ng̣i đóng tại Cần Thơ,
chỉ huy các Giang Đoàn Xung Phong.
3. Lực Lượng Thủy Bộ (LL Đặc
Nhiệm 211) đóng tại B́nh Thủy, chỉ huy các
Giang Đoàn Thủy Bộ.
4. Lực Lượng Tuần Thám (LL Đặc
Nhiệm 212) đóng tại Châu Đốc, chỉ huy các
Giang Đoàn Tuần Thám.
5. Lực Lượng Trung Ương (LL Đặc
Nhiệm 214) đóng tại Đồng Tâm, chỉ huy các
Giang Đoàn Ngăn Chận.
Bộ Tư Lệnh Hành Quân Biển, gồm có:
1. Hạm Đội: Chia thành Hải Đội I
Tuần Duyên, Hải Đội II Chuyển Vận, và
Hải Đội III Tuần Dương, gồm nhiều
chiến hạm đủ loại, đủ cỡ
hoạt động trong sông cũng như ngoài
biển, từ vĩ tuyến 17 đến Vịnh Thái
Lan.
2. Các vùng duyên hải: Chỉ huy các Duyên Đoàn,
Giang Đoàn, Đài Kiểm Báo, Hải Đội Duyên Pḥng,
Tiền Doanh Yểm Trợ. Mỗi vùng duyên hải
chịu trách nhiệm một vùng bờ biển.

- Vùng I Duyên Hải, đóng tại Đà
Nẵng, chịu trách nhiệm từ vĩ tuyến 17
đến Quảng Ngăi.
- Vùng II Duyên Hải, đóng tại Cam Ranh,
chịu trách nhiệm từ B́nh Định đến
Phan Thiết.
- Vùng III Duyên Hải, đóng tại Vũng
Tàu, chịu trách nhiệm từ Phước Tuy
tới Kiến Ḥa.
- Vùng IV Duyên Hải, đóng tại Phú
Quốc, chịu trách nhiệm từ Mũi Cà Mau đến
biên giới Miên-Việt trong vịnh Thái Lan.
- Vùng V Duyên Hải, đóng tại Năm Căn,
chịu trách nhiệm vùng biển Ba Xuyên, An Xuyên,
một phần tỉnh Kiên Giang và các hải đảo
như Poulo Obi.
Kết
luận
Khi đề
cập đến chiến tranh là nói đến tàn phá
và chết chóc (nhất tướng công thành vạn
cốt khô!), nhưng ngoài việc hy sinh xương máu
để bảo vệ tổ quốc, QLVNCH cũng
đă đóng góp đắc lực vào việc xây
dựng đất nước. Các doanh trại hàng hàng
lớp lớp, các hải cảng, giang cảng tối
tân có thể đón nhận những thương
thuyền cỡ lớn, những phi trường
quốc tế hạng A, những cầu cống
tối tân do Công Binh xây cất đă từng thay
đổi hẳn bộ mặt quê hương
Việt Nam, tự một thuộc địa nghèo nàn
dưới sự cai trị của thực dân Pháp
gần 100 năm, thành một quốc gia tiến
bộ vào bậc nhất trong vùng Đông Nam Á.
Riêng Quân Lực
VNCH, thoát thai từ một đội quân phụ
thuộc vào lực lượng viễn chinh Pháp, không
có chính nghĩa quốc gia, nhưng sau này đă
trở thành một quân lực hùng mạnh dưới
thời Đệ Nhất Cộng Ḥa vào năm 1955 cho
tới khi tàn cuộc chiến. Biến cố đau thương
vào tháng 4 năm 1975 đă bức tử quân đội
miền Nam, nhưng dư âm và h́nh ảnh oai hùng
của người lính chiến VNCH v́ dân trừ
bạo vẫn c̣n ghi sâu vào tâm khảm mọi người.
Cuộc đời
như "như mây nổi, như gió thổi, như
chiêm bao," như "bóng câu qua cửa sổ".
Mười mấy tám năm trôi qua như gió
thoảng ngoài hiên, nhưng đối với người
lính chiến Việt Nam, dù lưu lạc nơi đâu
vẫn tưởng như đêm nào c̣n ôm súng
chờ giặc nơi tuyến đầu. Mỗi khi
nhắc đến quá khứ, người ta cho đó
chỉ là "vang bóng một thời." Nhưng
đối với những chiến sĩ QLVNCH,
những người trong cuộc, những người
đă từng cầm súng đánh lại bọn
Cộng Sản vong nô, những chứng nhân hào hùng và
đau thương của cuộc chiến, sẽ không
thể nào quên được một tập thể
trong đó họ đă đóng góp biết bao xương
máu và cả tuổi hoa niên. Mỗi khi nhắc đến
lịch sử oai hùng của QLVNCH, những người
lính chiến Việt Nam tưởng như nhắc
lại chính cuộc đời ḿnh và những trách
nhiệm cũng như bổn phận đối
với đất nước chưa làm tṛn.

V́ vậy, dù không c̣n được cầm
súng giết giặc ngoài sa trường, nhưng người
lính QLVNCH vẫn bền gan đấu tranh trên các
mặt trận chính trị, văn hóa, kinh tế, cho
đến khi nào gót thù không c̣n giầy xéo trên quê hương
và thanh b́nh thịnh vượng thật sự trở
về với quốc gia dân tộc. Nếu v́ hoàn
cảnh bó buộc không thể trực diện đấu
tranh với bọn Cộng Sản bạo tàn, ít ra chúng
ta cũng không hèn nhát, không phản bội quê hương
hay đâm sau lưng đồng đội bằng cách
bắt tay với giặc thù dù dưới chiêu bài
đẹp đẽ đến đâu đi nữa.
Mọi ư đồ,
tham vọng đen tối, ngông cuồng và man rợ
của bất cứ cá nhân, đoàn thể hay đảng
phái nào đi ngược lại với quyền
lợi tối thượng của dân tộc trước
sau thế nào cũng bị thất bại. Những
chiến sĩ QLVNCH chân chính và xứng đáng luôn luôn
sáng suốt để phục vụ cho chính nghĩa
quốc gia dân tộc.
Trần Hội & Trần Đỗ Cẩm
|