|
|
NHAC CỤ VIỆT NAM - ĐÀM T'RƯNG (Bamboo Xylophone)
|
|
Video LÀN ĐIỆU VIỆT: ĐÀN T'RƯNG - BAMBOO XYLOPHONE Tài liệu lấy từ INTERNET - Nguyễn Mạnh Thường - sưu tầm
|
NHẠC
CỤ VIỆT NAM Âm
nhạc Việt Nam có một truyền thống khá lâu
đời
Ngay
từ thời xa xưa dân Việt Nam đă rất say mê
âm nhạc. Đối với họ âm nhạc là
một nhu cầu không thể thiếu. Bởi vậy
trong quá tŕnh phát triển lịch sử cư dân ở
đây đă sáng tạo nên rất nhiều loại
nhạc khí và thể loại ca nhạc để
bộc lộ tâm tư t́nh cảm, để có thêm
sự phấn chấn và sức mạnh trong lao động,
trong chiến đấu, để giáo dục cho con cháu
truyền thống của ông cha, đạo lư làm người,
để giao tiếp với thế giới thần linh
trong tâm tưởng và để bay lên với những
ước mơ về một cuộc sống tươi
đẹp, hạnh phúc trong hiện tại và tương
lai.
Trải
qua bao biến thiên, ngày nay tại Việt Nam c̣n lưu
giữ một kho nhạc khí đủ loại từ
những dạng đơn sơ nhất cho tới
những dạng có sự phát triển khá cao với
những kỹ thuật diễn tấu tinh tế.
Tại
đây ta có thể nghe những điệu hát ru,
những bài ca của trẻ nhỏ, những thể
loại ca nhạc trong các Lễ Hội hoặc dùng
trong việc giao tiếp giữa các thành viên cộng
đồng, trong lao động, trong vui chơi giải
trí với những thể hát đố, hát đối
đáp thi tài của trai gái, những điệu hát khi
chơi bài hoặc khi kể những áng trường
ca, những câu ca tiếng đàn của những người
hát rong, của các Ban "Tài Tử" cùng những
thể loại ca kịch truyền thống.
Âm
Nhạc cổ truyền Việt Nam phong phú bởi
sự tích đọng những thể loại thuộc
nhiều thời đại khác nhau và bởi cả tính
đa sắc tộc. Cùng một thể loại ca
nhạc song ở mỗi sắc tộc lại có phương
thức biểu hiện, diễn tấu và âm điệu
riêng. Điệu hát ru Việt khác ru Mường, ru Thái,
ru Tây Nguyên... Có bộ tộc dùng lời ca tiếng hát
để đưa trẻ vào giấc ngủ. Có
bộ tộc lại ru con bằng tiếng đàn,
tiếng sáo êm ái.
Xưa
kia âm nhạc cổ truyền đă từng đóng
một vai tṛ rất quan trọng trong đời
sống của người Việt Nam. Ngày nay nó
vẫn giữ một vị trí đáng kể trong xă
hội. Một số thể loại ca nhạc vẫn
tồn tại trong cuộc sống dân gian. Một
số khác đă bước lên sân khấu, tiếp
tục làm đẹp cho đời và phát huy tác
dụng trong cuộc sống mới.
|
Cây
Đàn Bầu (Monochord) nhạc cụ độc đáo
của dân tộc Việt
Trong kho tàng văn hoá âm nhạc dân tộc
Việt Nam, Đàn Bầu được coi là nhạc
cụ độc đáo và hấp dẫn nhất.
Tiếng đàn du dương, trầm lắng khiến
ai đă nghe một lần th́ thật khó quên. Chẳng
thế mà các cụ ngày xưa đă kín đáo
nhắc nhở:
Làm thân con gái chớ nghe Đàn Bầu,
Cung thanh là
tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha.
Ngân nga em hát, tích tịch t́nh tang...
Dường như âm thanh mộc mạc, chân quê
nhưng sâu lắng đến vô cùng của cây Đàn
Bầu, ḥa quện với tấm ḷng của tác
giả đă tạo nên những vần điệu
chất chứa trong bài hát ru ấy. Điều ǵ
đă kiến cho cây Đàn Bầu có sức quyến rũ
độc đáo đến như vậy?
|
|
|
Có
nhiều cách giải thích khác nhau về sự xuất
hiện của cây Đàn Bầu trong kho tàng văn hoá
dân gian. Chỉ từ tṛ chơi trống đất
của trẻ em đồng bằng Bắc Việt là
đào hố và căng dây qua lỗ đất, khi
đập nghe tiếng bung bung mà các cụ ngày xưa
đă cho ra đời nhạc cụ mang tên Đàn
Bầu, được làm từ ống tre và quả
bầu khô. Từ thời Nhà Lư, Đàn Bầu đă
xuất hiện, nhưng thời ấy nhạc cụ này
chỉ được dùng để đệm cho
những người hát xẩm. Thời gian qua đi cây
đàn dần được cải tiến, đàn
được làm từ những chất liệu
tốt hơn như gỗ, sừng. Ông Đỗ Văn
Thước, một nghệ nhân làm Đàn Bầu nói:
"Cuộc sống và mọi sinh hoạt của nông dân
Việt Nam đều bắt nguồn từ cây tre:
ống nước, ống cơm, rổ rá, đ̣n gánh.
Bởi vậy, để bảo vệ bụi tre họ
lấy dây thừng buộc quanh gốc tre, thấy âm
thanh phát ra từ đó như những cuộc giao lưu
t́nh cảm khiến người nông dân xưa nghĩ
đến việc hạ tre thành cọc căng dây tơ
cho âm thanh hay hơn, rồi sử dụng vỏ quả
bầu dài làm hộp cộng hưởng". Song có
lẽ tất cả cũng chỉ là những giả
thuyết. C̣n thực tế th́ Cây Đàn Bầu đă
gắn bó với làng quê con người Việt Nam
từ bao đời nay c̣n chưa ai biết.
Cái độc đáo ở đây là cây đàn
cấu trúc rất đơn giản. Chỉ với
một dây nhưng nó diễn tả được
mọi cung bậc của âm thanh và t́nh cảm. Âm thanh
cũng mang sức quyến rũ lạ kỳ, gần
với âm điệu tiếng nói của người
Việt, bởi vậy mà Đàn Bầu trở thành
nhạc cụ được mọi người ưa
thích.
Để có được cây đàn như ư, người
làm đàn phải chọn lựa chất liệu: Cây
đàn phải hội đủ hai yếu tố "Mặt
ngô thành trắc", có nghĩa là mặt đàn
phải làm bằng gỗ cây Ngô Đồng sao cho
vừa xốp vừa nhẹ, thớ gỗ óng ả,
thẳng th́ mới có độ vang. Khung và thành đàn
làm bằng gỗ trắc hoặc gụ, vừa đẹp
lại vừa bền. Cần Rung, c̣n gọi là Ṿi
Đàn được làm từ sừng trâu. Bầu
đàn được lấy từ quả bầu khô
hoặc tiện bằng gỗ. Từ những chất
liệu hết sức giản dị ấy gia đ́nh
nghệ nhân Đỗ Văn Thước đă cho ra
đời bao đứa con tinh thần này. Sinh trưởng
trong gia đ́nh ba đời đều làm nhạc
cụ dân tộc, năm 1953 bác Đỗ Văn Thước
được ông ngoại và cậu truyền cho
nghề này. Đến nay khi đă nghỉ hưu, bác
lại cùng vợ con chế tạo nên những
chiếc đàn cao cấp chỉ dành riêng cho những
nghệ sĩ chơi đàn trong các đoàn nghệ
thuật. Cũng có nhiều ư kiến khác nhau trong
vấn đề cấu tạo cây đàn. Người
th́ cho rằng nên kéo dài đàn ra để có
được tiếng trầm hơn hoặc đổi
đàn bầu thành hai dây (một cao, một thấp),
hai cần và mở to thùng đàn ra, nhưng cuối cùng
tất cả đều không phù hợp. Việc dùng ṿi
đàn để căng dây lên hoặc hạ chùng dây
xuống đă tạo ra nhiều âm thanh và cao độ
khác nhau. Cần đàn đóng vai tṛ quan trọng trong
việc tạo ra các sắc độ âm thanh khác nhau và
làm cho tiếng đàn tṛn, mượt. Mặt đàn
với thới gỗ óng ả, khi kết hợp
với hộp cộng hưởng sẽ tạo nên
những âm thanh vang, trong. Đàn c̣n được trang
trí nhiều hoa văn hoặc khảm trai với các h́nh
ảnh miêu tả cảnh sinh hoạt phong phú của người
dân Việt Nam. Ngày nay người ta thường có xu
hướng thay thế đàn gỗ bằng đàn
điện, kéo dài và làm mỏng thân đàn để
tạo âm trường và tiếng vang hơn.
Đàn Bầu thể hiện một cách thành công
những làn điệu dân ca khác nhau của từng vùng,
từng miền của dân tộc. nó c̣n có thể
diễn tấu rất hay những giai điệu
của nước ngoài, từ nhạc dân gian đến
nhạc nhẹ. Nghệ sĩ Đàn Bầu Kim Thành cho
biết, hiện anh c̣n giữ chiếc Đàn Bầu có
tuổi thọ 90 năm của nghệ sĩ Bá Sách
để lại. Chơi đàn dân tộc không
phải là một nghề đem lại sự giàu có,
nhưng với anh đó là niềm đam mê từ khi c̣n
bé. Đến nay đă 32 năm trong nghề, bằng
lối chơi đầy sáng tạo qua mỗi lần
biểu diễn, anh đă khiến người nghe say mê.
Anh cho biết: "Năm 1994, tôi được mời
đến nước Anh biểu diễn cho nữ hoàng
Elizabeth tại nhà hát Hoàng Gia. Buổi biểu diễn
rất thành công. Sau đó tôi được mời
ở lại định cư tại đất nước
này. Nhưng tôi không thể rời bỏ được
tổ quốc và gia đ́nh ruột thịt của ḿnh.
Đến năm 1995 một lần nữa nữ hoàng
Anh lại mời tôi sang biểu diễn. Đây
thật là một vinh dự lớn trong cuộc đời
làm nghệ thuật của tôi. Không chỉ ḿnh tôi,
đến nay chúng ta đă có rất nhiều tài năng
trẻ chơi Đàn Bầu đang được
cả nước và thế giới biết đến
như Hoàng Tú, Huỳnh Tú..."
Phải chăng v́ sự độc đáo có
một không hai của cây Đàn Bầu mà mỗi khi
nhắc đến Việt Nam, nhiều khách nước
ngoài đă cho cây Đàn Bầu như một biểu tượng
của Việt Nam "Đất nước Đàn
Bầu". "Quê hương Đàn Bầu". Nhà
thơ nữ người Pháp MeRay đă thốt lên:
"Cây Đàn Bầu thật giống với con người
Việt Nam. Nghèo của cải mà giàu ḷng nhân ái,
giản dị mà thanh tao, đơn sơ mà phong phú".
|
Cây
Đàn C̣ (Đàn Nhị: Two-String Fiddle)
Cây Đàn C̣ (Đàn Nhị) đă
có mặt trong nền âm nhạc truyền thống
Việt Nam từ lâu đời, đă trở nên thân
quen và gần gũi với mọi người dân
Việt Nam, nó được trân trọng quí báu như
cổ vật gia bảo. Đàn C̣ đóng góp một
vai tṛ vô cùng quan trọng và đắc lực không
thể thiếu trong các dàn nhạc dân tộc Việt
Nam từ xưa đến nay.
Người Sàig̣n gọi là "Đàn C̣" v́
h́nh dáng giống như con c̣, trục dây có đầu
quặp xuống như mỏ c̣ - Cần đàn như
cổ c̣ - thân đờn như con c̣ - tiến đờn
nghe lánh lót như tiếng c̣. Trong các dàn nhạc phường
bát âm, ngũ âm, nhă nhạc, chầu văn, sắc bùa,
nhạc tài tử, cải lương dàn nhạc dân
tộc tổng hợp, dân ca... đều có Đàn C̣.
|
|
Đàn
Nguyệt (Moon-Shaped Lute)
Đàn Nguyệt được sử dụng
rộng răi trong ḍng nhạc dân gian cũng như cung
đ́nh bác học cổ truyền của người
Việt. Xuất hiện trong mỹ thuật Việt Nam
từ thế kỷ XI, cho tới nay nó vẫn giữ
một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt âm
nhạc của người Việt và là nhạc cụ
chủ yếu dành cho nam giới.
Nhờ có cần tương đối dài và
những phím cao, nhạc công có thể tạo được
những âm thanh uyển chuyển, mềm mại.
Tiếng đàn trong, vang, khả năng biểu
hiện phong phú; khi th́ sôi nổi ṛn ră, lúc lại
nỉ non sâu lắng, do đó Đàn Nguyệt có
mặt cả trong những cuộc ḥa tấu nhạc
trang nghiêm, những cuộc hát văn lôi cuốn,
những lễ tang bùi ngùi xúc động cũng như
những cuộc hoà tấu thính pḥng thanh nhă với
những h́nh thức diễn tấu khác nhau: đệm
cho hát, hoà tấu và độc tấu.
|
|
|
Đàn
Tranh (Tranh Zither)
H́nh
dáng đàn dài, có 16 dây bằng kim loại. Mặt
đàn nhô lên h́nh ṿng cung. Từ trục đàn đến
chỗ gắn dây đàn, khoảng giữa của
mỗi dây đều có một con nhạn gọi là
"Nhạn Đàn" để tăng âm, lên dây
đàn từ nửa cung đến một cung, khi đàn
cần chuyền đổi dây, về sau Đàn Tranh
rất thông dụng được đứng thứ
ba trong bộ tam tuyệt của dàn nhạc tài tử. V́ Đàn Tranh được thiết kế theo h́nh thức nhiều dây, nên khi tấu nhạc, đờn tranh phát ra âm thanh đanh tiếng, sắt tiếng hơn khi tấu chữ, đàn thường là "song thanh", ví dụ khi hết một câu hay hết một đoạn nhạc, hoặc một láy nào đó thường lặp lại một nốt, một chữ nhạc của láy đàn (ḥ - líu, xàng - xang, xề - xê...) |
|
|
Đàn
T'rưng (Bamboo Xylophone)
Người Tây Nguyên lời ca tiếng đàn luôn
luôn là nguồn cổ vơ trong đời sống. Đêm
đêm quanh ngọn lửa hồng người ta kể
Khan, kể H'mon và hát lên những làn điệu dân ca
Jôn-jơ, đợi chờ, giă gạo... Nói tới âm nhạc Tây Nguyên không thể không nhắc tới kho tàng nhạc khí hết sức phong phú với nhiều loại, nhóm và chất liệu khác nhau. Hầu hết các nhạc khí cổ thường dùng chất liệu sẵn có trong thiên nhiên như Sáo, Tiêu, Goong Rel, Tù Và, K'lông Pút và T'rưng. |
|
Đàn
T'rưng là một loại nhạc khí "thô"
được chế tạo từ những khúc gỗ
bóc vỏ phơi khô hoặc những ống nứa,
ống tre vót một đầu, chặt theo những
độ dài khác nhau để tạo nên những âm
thanh ưng ư đem treo lên một cái giá để
trở thành một cây đàn gơ "phím" cho
một hoặc hai người diễn tấu bằng cách
cầm những dùi tre gơ vào phím này. Đàn T'rưng thường được diễn tấu bên trong nhà hoặc ngoài trời vào các dịp Lễ Hội truyền thống hay trong sinh hoạt cộng đồng của các dân tộc người Banah, Jarai, Êđê...
Đàn T'rưng có khả năng diễn tấu phong phú
và đa dạng. Với nguồn âm thanh bất tận
khi êm nhẹ theo giai điệu trữ t́nh của
một khúc hát giao duyên, khi ḥa cùng dàn nhạc tấu lên
bản hợp tấu của núi rừng hùng vĩ...
Trong giao lưu văn hoá Đàn T'rưng cũng xuất
hiện trên các sân khấu ca nhạc hiện đại
phụ họa theo tiếng hát rực lửa của
những người Tây Nguyên, nâng cánh cho những
giọng ca vàng vang đến mọi nơi chốn xa xôi.
Là
một loại nhạc cụ đặc sắc trong kho
tàng nhạc khí Tây Nguyên, âm thanh độc đáo
của Đàn T'rưng không chỉ lôi cuốn làm say
đắm tâm hồn các dân tộc anh em trên đất
Việt, mà c̣n ra khỏi biên giới ngân vang đến
tận những vùng đất xa xôi và được
các bạn bè khắp năm châu bốn bể nhiệt
t́nh đón nhận. Trải qua quá tŕnh sàng lọc với bao biến đổi của lịch sử, Đàn T'rưng đă và sẽ tồn tại măi măi cùng với các dân tộc Tây Nguyên và cộng đồng dân tộc Việt. |
|
Đàn
Tỳ Bà (Pear-Shaped Lute) Người ta chế tạo Đàn Tỳ Bà bằng gỗ Ngô Đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như h́nh quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc Thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là h́nh chữ thọ, khi là h́nh con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.
|
|
Chiều
dài của thân đàn từ 94 - 100 cm. Phần cần
đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong ṿm lên gọi là
Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre
hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các
cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se
bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho
mịn, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây
nilon. Đàn có 4 dây lên theo 2 quăng 4, mỗi quăng 4 cách
nhau một quăng 2: Đồ - Fa - Sol - Đô1 hoặc Sol
-Đô1 - Rê1 - Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy
đàn bằng miếng đồi mồi hoặc
miếng nhựa.
|
|
Ở Việt Nam Đàn Tỳ Bà có mặt trong các dàn nhạc: Nhă Nhạc, Thi Nhạc của cung đ́nh, Thiền Nhạc của Phật Giáo, ban Nhạc Tài Tử, Phường Bát Âm, Dàn Nhạc Dân Tộc tổng hợp. Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đă được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc. |
|
Sáo
Trúc Sáo được làm bằng một đoạn ống trúc, hoặc nứa có chiều dài 40 - 55 cm, đường kính 1,5 - 2 cm. Ở phía đầu ống có một lỗ h́nh bầu dục đó là lỗ thổi. Trong ḷng ngay gần lỗ thổi được chặn bằng một mẩu nút bấc hoặc gỗ mềm để điều chỉnh độ cao thấp khi cần thiết. Thẳng hàng với lỗ thổi có khoét 6 lỗ bấm, lỗ bấm thứ nhất cách lỗ thổi 12 cm, các lỗ bấm c̣n lại cách đều nhau (1 cm). Mở dần các ngón ở 6 lỗ bấm ta sẽ có các âm Đồ, Rê, Mi, Fa, Sol, La, Si, Đố. Phía sau cuối ống sáo có một lỗ không bấm là lỗ định âm. ![]() Khoảng cuối năm 1970 nghệ sĩ Đinh Th́n và Ngô Nam đă cải tiến cây sáo 6 lỗ thành sáo 10 lỗ để mở rộng âm thanh, cho các nghệ sỹ chơi những tác phẩm tương đối dễ dàng hơn như "Tiếng Gọi Mùa Xuân" của Đinh Th́n, "T́nh Quê" của Hoàng Đạm, "Tiếng Sáo Bản Mèo" của Ngọc Phan v,v...
|
|
|
Đàn
Tam Thập Lục (36-String Zither) Đàn Tam Thập Lục là nhạc khí dây, chi gơ của dân tộc Việt. Đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục.
Đàn
Tam Thập Lục h́nh thang cân, mặt đàn hơi
phồng lên ở giữa, làm bằng gỗ nhẹ,
xốp, để mộc. Cầu đàn, thành đàn làm
bằng gỗ cứng, trên mặt đàn đặt so
le hai hàng ngựa, mỗi hàng 18 ngựa. Cần đàn
bên trái có 36 móc để mắc dây, bên phải có 36
trục để lên dây. Dây đàn làm bằng kim khí.
Que đàn được làm bằng hai thanh tre mỏng,
dẻo, ở đầu được quấn dạ
để tiếng đàn được êm. Âm thanh
Đàn Tam Thập Lục trong sáng, thánh thót, rộn ră.
- Khoảng âm dưới: Tiếng đàn ấm áp, khá vang. - Khoảng âm giữa: Tiếng đàn đầy đặn, trong. - Khoảng âm cao nhất: Tiếng đàn sắc, gọn. Khi biểu diễn nhạc công dùng 2 que gơ vào mặt đàn tạo ra các ngón như: Ngón rung, ngón vê, ngón bịt, ngón á, đánh cồng âm, hợp âm... Đàn Tam Thập Lục giữ vai tṛ quan trọng trong các dàn nhạc sân khấu chèo, cải lương. Đàn đệm cho hát, độc tấu, tham gia dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
|
|
|
Đàn
K'lông
Pút
Một trong số không nhiều nhạc khí dành cho
nữ giới. Tên gọi tiếng Xê-đăng này
đă trở nên phổ thông để chỉ loại
nhạc khí hơi của một số tộc trên Tây
Nguyên như Xê-Đăng, Bâhnar, Gia-Rai, Hrê...
Đàn
K'lông Pút là một dàn gồm 2 - 3 cho tới 5 - 12
ống nứa, lồ ô hoặc tre cỡ tương
đối lớn. Đường kính các ống
khoảng 5 - 8 cm, chiều dài 60 - 120 cm, có khi 20 - 200 cm. Có
loại K'lông Pút kín một đầu và có loại
rỗng hai đầu. Khi diễn tấu các ống
được đặt nằm ngang vừa tầm tay
người vỗ trong tư thế đứng lom khom
hoặc quỳ. Dùng hai bàn tay khum vỗ vào nhau trước
miệng ống, các cô gái tạo nên luồng hơi lùa
vào ống làm vang lên âm thanh.
|
|
Đàn K'lông Pút được coi là nhạc cụ gắn
với sản xuất nông nghiệp và là nơi trú
ngụ của Mẹ Lúa. V́ vậy K'lông Pút là nhạc
cụ của giới nữ và chỉ được chơi
trên rẫy vào mùa tra lúa và trong buôn làng vào ngày Lễ
Đóng Cửa kho lúa hoặc vào dịp Tết của
tộc và Lễ Hội ăn lúa mới với số lượng
bài hạn chế. Ngày nay K'lông Pút đă được
đưa lên sân khấu ca múa nhạc chuyên nghiệp
để diễn tấu nhiều loại bài bản khác
nhau.
|
Nguyễn
Mạnh Thường - sưu
tầm
|
Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.
|