CHỮ NÔM CỔ XƯA VÀ Ư NGHĨA VIỆT (Đỗ Thành)
|
|
Video: VIỆT NAM VIỆT NAM Sáng tác: PHẠM DUY - Tŕnh diễn: Đồng Ca
|
CHỮ NÔM CỔ XƯA VÀ Ư NGHĨA VIỆT
|
Chữ “Nôm” có trước “Hán-Việt”! Nếu hôm nay tôi không phát giác th́ cũng
sẽ có người
khác t́m ra điều nầy! Trước hết xin xác định chữ Nôm là ǵ? để dễ thảo luận. Theo quan niệm thông thường của người Việt Nam th́ chữ Nôm là những chữ mượn chữ Hán để thể hiện chữ với phát âm “thuần Việt” phương nam khác với phát âm của “Hán ngữ” th́ gọi là chữ Nôm. C̣n những thứ chữ như Ṇng nọc, Hỏa tự, chữ trên đá Sapa, chữ giả định trên trống đồng… th́ được gọi là chữ Việt cổ. Nhưng, Trong khi đó, người Việt sống ở Hoa Nam như Việt vùng Quảng Đông và Mân-Việt là Triều Châu, Phước Kiến (các nơi nầy có tên là Nam-Việt, Mân-Việt, Đông Việt trong lịch sử) lại cho rằng những chữ, hay tiếng nói cổ xưa của tổ tiên để lại mà không kư âm được bằng chữ Hán – Quan Thoại hiện giờ th́ đều là chữ (tiếng) Nam-Nôm: nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng đă gọi chữ Việt cổ là “tiền Nôm”, c̣n chữ Nôm từ đời Trần về sau là “hậu Nôm”. Trong bài này, tôi gọi chữ Nôm là chữ do người Việt sáng tạo từ xa xưa-chữ Vuông/ Nôm.
Về nguồn gốc chữ Nôm, quan niệm “phổ
biến” hiện nay như sau: -“Chữ Nôm ra đời bắt nguồn
từ tư tưởng chống Hán hóa, là ư thức
phản vệ của dân tộc trước
những ǵ có tính ngoại lai. Vào thời kỳ
Bắc thuộc, người phương Bắc tràn vào
Việt Nam với
dụng ư muốn đồng hóa dân tộc Việt,
chữ Nôm ra đời chống lại xu hướng Hán hóa của người phương Bắc,
đồng thời khẳng định tinh thần dân
tộc, tuy nhiên, điều đó
chưa thực sự mạnh mẽ một cách có ư
thức. Chữ Nôm thuộc loại h́nh văn tự
khối vuông – nghĩa là toàn bộ chữ được
cấu tạo trong một ô vuông, được xây
dựng trên cơ sở chất
liệu là chữ Hán và được đọc theo
âm Việt.
Chữ Nôm xuất hiện ở Việt Nam khi chữ Hán
đă vào Việt Nam và đă được h́nh thành
Khi ư nguyện sáng tạo ra một dạng chữ riêng
của người Việt trở nên mạnh mẽ hơn
trong thời Lê, những chữ Nôm được
tạo ra một cách có ư thức hơn đă giúp cho
sự h́nh thành thêm nhiều chữ Nôm mới đủ để
biểu đạt được tâm tư, nguyện
vọng, tâm hồn và khí phách dân tộc trong các tác phẩm văn chương
như thơ, phú, chiếu, cáo, biểu v.v. Sự sáng
tạo đó đă để lại cho đời sau
những di sản thơ Nôm vô giá từ những bài thơ
của Nguyễn
Thuyên đến Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trăi, từ Hồng Đức quốc âm thi tập của
Lê Thánh Tông đến Bạch Vân Am thi tập của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ Đại Nam quốc
sử diễn ca đến Đoạn Trường Tân
Thanh; từ những bài thất ngôn bát cú thơ Nôm
của Hồ Xuân
Hương đến dạng song thất lục bát
trong Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, thơ
lục bát với Lục Vân Tiên của Nguyễn Đ́nh
Chiểu. Rồi thi văn hát nói của Nguyễn Khuyến,
Tú Xương,v.v. và không ít những tác phẩm
truyện Nôm khuyết danh khác như Thạch
Sanh, Trê Cóc, Nhị Độ Mai, Phan Trần, Tấm Cám, Lưu
B́nh Dương Lễ, Ngư Tiều vấn
đáp y thuật, Kim Thạch Kỳ Duyên, Nữ Tú Tài,
v.v.” (trích: Bách khoa toàn thư mở wikipedia:Chữ
Nôm)
Những điều nêu trên trở thành “quan niệm
truyền thống” khẳng định chữ Nôm mới
có sau nầy, do học được từ chữ Hán!
_ Điều nầy không đúng sự thật! *Khi t́m nguồn gốc chữ Nôm mà chỉ xét theo không gian biên giới và địa lư hạn hẹp bởi “riêng một địa phương” là chưa rơ sự thật ! Bỡi v́ lịch sử người Việt đă cư trú trên 1 địa bàn rộng lớn hơn phần cơ bản của “những nhận định Chữ Nôm là Mượn từ chữ Hán”. *Ngược với quan niệm “Chữ nôm có sau”, tôi đă phát giác phát âm Nôm có trước, và phát âm mà người đời gọi là Hán, Hán-Việt, Hoa ngữ là có sau chữ Nôm, chính là phát âm Nôm có trước, rồi mới được căi tiến mà có phát âm mới hơn mà sau nầy gọi là Hán,và Hán Việt.
Khi xét theo “thời gian” ngắn hạn, chỉ từ
thời cận đại hiện nay đến trung
cổ đại, thời bắc thuộc, thời nhà Hán
rồi dừng lại, là chưa rơ sự thật!
Bởi v́, tiếng nói và chữ viết của người
phương nam là người Việt nó bao la v́
nhiều chi tộc, có nhiều phân chi Lạc Việt là
Lạc bộ Chuy, lạc bộ Mă cùng nhiều nước
Việt nhỏ… đă làm chủ vùng Thái Sơn và Hoàng
Hà trước thời Đông Chu Liệt quốc. Để
lại câu ca dao “Công cha như núi Thái sơn…”;
Chữ Nôm trong một chi Việt tộc chỉ là
một phần trong chữ Nôm của cái “đại thể”
là “Bách Việt tộc”. V́ vậy phải khảo
cứu rộng và xa đến thời thượng
cổ, ít nhất là từ giáp cốt văn th́
mới có thể thấy được sự thật.
Chữ Nôm là chữ tượng h́nh và đă biến đổi
trở thành không c̣n là chữ tượng h́nh, mà thành
chữ “biểu ư” vuông cho đẹp, cho nên
gọi là chữ Vuông.
H́nh như là tổ tiên người Việt không
chỉ có sáng tạo ra một loại chữ, mà có
thể kể đến chữ
Ṇng nọc (Khoa đẩu), chữ h́nh ngọn lửa
(Hoả tự), chữ tượng h́nh vẽ chó
vẽ nai -
Có thể gọi đó là: là Chữ “vẽ h́nh”
ở thời nhà Hạ?- Chữ “giáp cốt” ở thời nhà Thương? - Chữ “giáp cốt văn”, “kim văn”, “chung đỉnh văn” ở thời nhà Chu ? - Chữ “Hán” ở thời nhà Hán ? - Gọi là Trung văn, chữ Hoa, chữ Tàu, Chữ China, Chinese v.v…
Ngoài ra, người ở Hoa Nam c̣n gọi là chữ
Đường-
(người Quảng Đông gọi là “Tḥn ch́a”,
người
Triều Châu gọi là “Tưng Dia”); và lại
gọi là “Duyệt粵 mành文” (Việt văn) theo tiếng
Quảng Đông, gọi là “Vuông文 dia字”
(chữ字 Vuông文) theo tiếng Triều Châu. – và,
Ở tận phương nam c̣n gọi cái chữ có
dạng h́nh Vuông là chữ Hán, là Hán Việt, là Nôm và cũng gọi là “chữ
字 Vuông 文”.
Thật ra đó là chữ “Vuông文”
của người Việt, và ngày nay chỉ có
Việt ngữ phương Nam
mới có âm đọc và chữ để viết
“chữ Vuông” bằng hai tiếng “chữ字
Vuông文”.
Tuy rằng người
Việt Nam ngày nay đă đọc “文vuông”
là “Văn文”, nhưng dấu tích “văn文”
là “Vuông文” c̣n
giữ được bên tiếng Triều Châu; Người
Mân Việt-Triều
Châu cho đến nay
vẫn chỉ đọc chữ “văn文”
là “Vuông文” mà thôi, không bao giờ đọc là
“văn文”.
“Văn” là do
đọc trệch âm “Vuông文”
mà thành. Nếu nói chữ “Vuông文”
là của dân tộc khác th́ tại sao không có bất cứ dân tộc nào có
2 chữ với phát âm là “chữ字 Vuông文”
để chỉ
hai chữ “chữ Vuông”= 字文 ?
Tiếng Việt ngày nay vẫn gọi cái h́nh vuông là
“Vuông”-mà ngôn
ngữ khác th́ không có điều nầy. - “Wẻn chứa”=文字
là tiếng
Bắc Kinh-Quang Thoại - “Mành ch́a”=文字
là tiếng
Quảng Đông. - “Văn Tự” =文字 là Tiếng Hán Việt. - Tiếng Triều Châu th́ vẫn gọi là “Vuông-chữ” : Phát âm là “Vuông Dia=文字”
Chỉ cần đảo văn phạm của người
Triều Châu hiện nay trở về như trước
kia, (mà sử sách
đă chứng minh là Mân Việt nguyên có cách nói “chính
trước, phụ sau” ngược với
văn phạm Sino-tibetan của Hán văn “phụ trước, chính
sau”), th́ “Vuông dia” sẽ là
“dia Vuông” tức là biến âm bỡi “chịa Vuông”- “chữ
Vuông”; *** “Chữ” Vuông : – phát
âm “Chữ字”
biến âm thành “chià字”: tiếng Quảng Đông, và “chứa字”:
Bắc Kinh, và “Dia字” bên tiếng Triều Châu…. “Dia 字 Vuông文”
chính là “Chữ字 Vuông文”.
Xin mách với bạn đọc hiện tượng thú
vị là người Triều Châu luôn nói tiếng
Việt: Đũa nói là “Tua”, Mắt nói là “Mắt”, đi
tắm th́ nói là đi “chan ét” (chan cho… ướt)
, bị ướt th́ nói là bị “Tắm” (Tắm chính là Đẵm/đẵm
ướt biến âm), nhà th́ nói là “chsùa”, chùa th́ nói là “chśa”… Đọc giả so sánh th́
biết tại sao bên tiếng Việt có tiếng “nhà
chùa” và “chùa
chiền”! “Sẽ” th́ nói là “e xia”, “đọc
chữ” th́ nói “thạc chưa” và c̣n gọi là
“thạc Dia” …và cũng phân ra là “Hán” và “nôm”
trong tiếng Triều Châu! văn hóa th́ nói “Vuông hóe”,
khen ai hay giỏi th́ nói là “khẹn” v.v... *Sách
“Việt chép” có cách nay khoảng
2500 năm, trước Sử kư của Tư Mă Thiên,
toàn bộ là chữ Nôm mà đời Tần và Hán
đă phiên dịch ra “Hán ngữ” và đổi tên thành
“Việt tuyệt thư”, trong đó có “Duy giáp
lệnh” của Việt Vương Câu Tiễn
được giữ nguyên văn là chữ “Nôm”
như sau: 維 甲 修 ‘內-矛’
_Tất cả tụ lại mau. ‘方-舟’
航
治 ‘須-慮’
_Phóng hàng trật tự. 習 之 ‘于-夷’_Tập
cho giỏi. 宿 之 ‘于-萊’
_Sống cho vẻ. 致 之 ‘于-單’_Chết
cho vang. (Xem
bài “phục nguyên Duy Giáp lệnh của Việt Vương
Câu Tiễn”).
*Và 2800 năm trước đă có bài “Việt nhân ca-越人歌”
là chữ Nôm được lưu lại trong sách Thuyết uyển của Lưu Hướng
thời nhà Hán như sau: 滥 兮 ‘抃 - 草’ 滥 予 _Năm
nầy biện-thảo
(bảo) năm xưa 昌 枑 ‘泽 - 予’
昌 州 州 飠 _Thương
hoàng trạch-dữ
(tử) thương chiều chiều xưa. 甚 州 焉 ‘乎-秦’
胥 胥 _Sớm
chiều em hận tương tư 缦 予 ‘乎-昭’ 澶 秦 踰 渗
‘惿-随’
Mà ai hiểu đặng t́nh yêu sâu đầy. …河
湖_Ḥ Hớ。 (xem
bài “Phát hiện lại Việt nhân ca”)
Đến đây th́ có lẽ độc giả đồng
ư với tôi là chữ Nôm đă có từ lâu… Và
Thật ra; Chữ Nôm có trước thời kỳ Đông Chu
Liệt quốc-Thời của Khổng Tử quá lâu: là
thời của Giáp cốt văn đời Thương,
và đă được lưu lại nằm trong dân
ca, sau đó được Khổng
tử biên soạn thành sách vỡ: -“Quan quan thư cưu” là bài dân ca cổ xưa
có lẽ đă có hơn 3000 năm lịch sử. Trong
bài có đoạn
“悠哉悠哉”!
Xin hăy xem và nghe chữ Nôm này được phát âm là:
“Diu chai diu chai” = vui chơi, vui chơi (Hán-Việt
đọc là = Du tăi du tăi”: 悠哉- vui chơi).
Bài “Quan thư”
hát bằng tiếng Bắc Kinh ngày nay vẫn c̣n phát âm
“vui chơi vui chơi” (và c̣n nhiều chữ Nôm khác
trong bài nầy mà tôi phải sẽ tŕnh bày trong 1 bài
viết riêng sau
nầy). Đây là Video clip trên youtube ở đoạn1:10
phút sẽ nghe rơ phát âm “diu chai, diu
chai” tức là “vui chơi, vui chơi”: ***Chữ
Nôm có trước chữ Hán quá lâu, lâu đến
đỗi người ta quên mất “Cố đô thành”
mà chỉ biết
là “Cô tô 菇蘇”
thành một cách vô nghĩa-khiến
không ai hiểu nổi “cô tô” là ǵ…Trong khi tiếng
Mân Việt-Triều Châu th́ “Cố Tô” nghĩa là
“Cố Đô”! và Xin hăy xem Phong kiều dạ bạc hát bằng tiếng Tô
Châu (Tiếng Ngô Việt – vùng đất của Ngô Vương
Phù Sai trước đây) ở đoạn 1:50 phút :
“Thành Ngoại 城外” ngày nay vẫn đọc là “sành
ngoài外”. “sành城
ngoài外”
nầy hoàn toàn phù hợp âm Nôm “ngoài外”:
Cũng với lư do trên, người ta quên tên gọi
của Việt Vương Câu-Tiễn
(鳩淺)
và Phạm Lăi (范蠡). Câu-Tiễn (鳩淺) đọc theo Nôm là Cu-Tí hay Cu
Tửng. Nôm rất là “lạ”, cùng một
chữ đi đôi th́ “喜喜-Hỉ
Hỉ”có thể đọc là “喜喜 Hí-hửng”;
“淺淺 tí
tí” th́ là tí tửng- Tí ti- Tí tẹo… cũng vậy; Người Việt
có chuyện “kỵ Húy” nhiều lắm… chợ “Đông
Hoa” gọi thành
chợ “Đông Ba”, Lê Lị thành Lê Lợi, th́ ngày
xưa “Cu-Tí”
trỡ thành “Câu-Tiễn”;
Tên của
Phạm Lăi (范蠡)
đúng là chữ “蠡lăi” của con Lăi (Lăi蠡/
Nôm). Cha của Phạm Lăi
muốn đặt tên con là “Long” là “rồng”, nhưng
ngại và đặt tên là “Lăi 蠡”
cũng viết bằng
chữ “Trùng-虫”.
Chữ trùng ngày xưa là chữ “Long-rồng-虫-Trùng”
(đây là phong tục
đặt tên con cho “xấu” để cho “dễ nuôi”!).
Cũng v́ vậy, người ta cũng quên và không
hiểu nghĩa tên của “Trụ Vương” là “Đụ”
(Nôm) và “Đắc-kỷ” là “Đĩ” (nôm) thời nhà Thương.
Tên vua cuối cùng của nhà Hạ thật
ra là bị dân chúng chữi là “Kẹch (cặc)桀” theo giọng phát âm Mân Việt, khi
cần nói đến
tên nầy, v́ ngại phát âm chữ đó mà đọc
thành ra là “Kiệt”, v́ ông vua nầy mê gái quá xá!_đây là những vết tích rơ ràng
thời của nhà Hạ và Thương-Thời của Giáp cốt văn
là phát âm Nôm-chữ
Nôm, và sau nầy, đến thời Hán và càng về
sau th́ phát âm đọc chữ
đă biến âm theo thời gian lịch sử và
gọi là Hán ngữ,… Và Phát âm của Hán, Hoa ngữ
đă không thể nào hiểu nỗi nghĩa của
những “chữ” ghi trong cổ sử có nghĩa là ǵ! May thay! Tôi
phát giác đó là CHỮ NÔM-chỉ cần đọc theo phát âm Nôm là Rơ
nghĩa. V́ Đó là: Chữ
Nôm có trước. Người
ta quên đi chữ Vợ媒 (媒-某-畝:
các chữ nầy đều là “Bợ”, “Vợ”)
“chồng棕”
là chữ Nôm (bây
giờ chỉ thấy tự điển ghi là “Mỗ某” và “tông棕”),
chữ “Thổ-土”
cũng là chữ Nôm, chữ cái chân, bàn chân, “bàn番”
(bàn tay, bàn chân) là chữ Nôm trong giáp cốt
văn v v…. ***
Chữ Nôm là có trước chữ Hán qúa lâu, lâu
đến đỗi người ta quên đi “chữ字Vuông 文 ”
mà chỉ biết có “Văn文Tự字”. Xin Trích phần nầy từ
“thuyết văn” cuả Hứa Thận thời
nhà Hán: 号:5693 文部 文 wen2 錯畫也。象交文。凡文之屬皆从文。
無分切 : (Phiên
hiệu:5693_Văn Bộ_Văn_WEN2_Thác Họa dă._Tượng
Giao Văn>_Phàm Văn chi
thuộc giai tùng Văn_Vô Phân Thiết.) Giải
thích của “Thuyết văn” 2000 năm trước
về chữ Văn文 nghĩa là: “Văn文”
: Vẻ sai vậy,
như “chéo” là Văn. Phàm là thuộc về văn
th́ theo Văn (cách giải thích ngày xưa khó
hiêủ nhưng rơ nghĩa là “viết sai” cái h́nh
“vuông”, “như đường chéo” của “h́nh vuông”). Nghĩa là, 2000 năm trước,
Hứa Thận đă giải thích chữ “Văn文” được tŕnh bày
theo cách như là “viết sai” : thay v́ phải vẽ
“h́nh Vuông” th́ khó khăn, người ta đă dùng cách
thể hiện bằng 2 đường chéo “X”
của h́nh vuông, để nói lên h́nh ảnh của cái h́nh “Vuông”/文. “Văn文”
là “Vuông” từ xưa, được Hứa
Thận “ghi nhận” trong sách Thuyết văn, và người Triều Châu
vẫn luôn luôn đọc là “Vuông文”.
Cám ơn Hứa Thận,
và cám ơn tiếng Triều Châu-Mân Việt đă chứng minh dùm tôi là:
Chữ “Vuông – 文”có
trước, chữ “Văn – 文” có sau. Dưới đây xin dẫn một số chứng cứ cho thấy chữ Nôm có trước chữ Hán:
Ngày nay, tuy
rằng đă thay đổi và chữ “cổ”,
chữ “vuông” được gọi là chữ Hán,
hay là Hán-Việt, nhưng nh́n kỹ th́ vẫn thấy
đầy rẫy chữ Nôm trong đó mà người
Việt không biết.
Sự thật này làm tôi ngỡ ngàng! Và người
Hoa bên Trung Quốc cũng không biết, càng
làm cho tôi kinh ngạc! Chữ tượng h́nh, chữ
vuông được cho rằng của người Hoa, không
phải của người Việt! Lịch sử Trung
Hoa được chính thức tính từ thời
Hạ, Thương,
Chu. Và văn hóa, văn học viết bằng chữ tượng
h́nh, chữ Vuông đă phát triển rực
rỡ từ thời Chu với Bách gia chư tử, có
Nho giáo, Đạo giáo và Tứ thư, Ngũ kinh, có
nhiều cổ thư và sách sử. Sự thật đă
bị đánh tráo! Thật ra th́ chữ tượng h́nh,
chữ Vuông là
của người Việt. V́ không phải là 24
chữ cái kèm theo nguyên âm để đánh vần, cho
nên, thuở ban đầu chữ viết là phôi thai
rồi lớn dần như em bé c̣n chưa định
h́nh tính cách của ḿnh và c̣n nhiều khuyết điểm.
Theo thời gian phát triển th́ chữ vuông được
cải cách thành h́nh vuông và đạt nhiều tiến bộ, đạt
tới sự “định h́nh” và “ổn định”.
Cũng chính v́ vậy, sau một thời gian, người
ta đă quên đi cái gốc là “chữ Nôm” ban đầu
rồi cho đấy
là chữ Hán của người Hoa. Nhận định
sai lầm nầy làm người ta không thể nào hiểu nổi lịch sử cổ đại
được ghi bằng chữ vuông cho đúng! Đi
vào chi tiết, th́ nhiều ḍng chữ và địa danh, tên người v.v…
thật “ngắn gọn” của cổ sử mà người
ta c̣n
Có một số chữ được “Nôm” và “Hán”
dùng chung, v́ thật ra chỉ là 1 thứ chữ trước-sau. Chữ
vuông với phát âm cổ là Nôm dù đă bị gọi
là chữ Hán, nếu như so sánh với cách phát âm Hán-Việt hay Hoa ngữ-quan
thoại ngày nay, th́ vẫn bộc lộ cách phát âm Nôm
có trước khi
bắt đầu có chữ Vuông. V́ sao ? Ví
dụ: chữ “Cổ古”
(từ Hán-Việt)
ở Phiên Ngung là ngoại ô Quảng Châu tỉnh
Quảng Đông,Trung
Quốc ngày nay vẫn đọc là “Củ古”(từ
Thuần Việt-Nôm).
Người Việt ngày nay
vẫn nói “đồ cũ” hay “đồ cổ”.
Chữ “văn文” th́ người Triều Châu vẫn
đọc là “Vuông 文 ”.
Người Việt vẫn nói “h́nh Vuông” chứ không
nói “h́nh Văn”. Th́ ra, có quá nhiều lớp bụi
mờ của lịch sử đă phủ lấp sự
thật xa xưa, và biến đổi cách phát âm Nôm làm cho người ta không biết rằng “phát âm Nôm-chữ Nôm có trước âm Hán-Việt/
chữ Hán”. Các
nhà ngôn ngữ học do chối bỏ hay là thiếu
tiếp xúc, so sánh và thiếu hiểu biết tường
tận về lịch sử và cổ sử, nên đă
không thấy rằng đường ranh biên giới nhân
tạo của quốc
gia không thay đổi được tiếng Việt
của dân chúng bao nhiêu! Ví dụ, Cắt đôi
một miền
đất người Việt ra làm hai bên A và B
với thời gian dài th́ tiếng nói hai bên vẫn là Việt! - Sau khi phân chia, cả A và B cùng nói “cũ古”.
Sau đó nhiều trăm năm, bên A do có những
biến đổi bỡi “thiên-địa-Nhân”,
“古”
chuyển thành âm mới là “Cổ”. “Cổ古” sau đó
được thông dụng bên A. -Nhiều thời gian sau nữa, đại đa
số người bên A chỉ biết “Cổ古”(quên
đi âm “cũ古”) và
có đông dân hơn. Bên B v́ ít người hơn,
trở thành thiểu số, và bắt buộc phải
bị ảnh hưởng
và học thêm phát âm “Cổ古”
của bên A, đồng thời vẫn dùng âm “Cũ古”. - Thời gian lâu sau nữa, thiểu số B
muốn thoát khỏi ảnh hưởng của bên A, và
bắt đầu
muốn dùng lại “Cũ古”
mà thôi. Khi B bắt đầu dùng lại “Cũ古”
th́ “cổ 古”
đă tồn tại
từ ngàn xưa! Thêm thời gian kéo dài đă làm A và
B bên nào cũng “quên”, và cho rằng
“Cổ古” có
trước và “Cũ古” có sau! V́ dân số nói “Cổ古”
đông hơn bên “Cũ古”, nên
dễ làm người ta nghĩ rằng “đa số”
là cái gốc! Nhưng có một vài nhóm nhỏ bên A, vẫn
sống theo tinh thần “bảo thủ” và “bảo
tồn văn hóa truyền thống”, họ chỉ nói
“Cũ 古”
từ thời cổ đại cho đến ngày nay. Ví
dụ nầy là để nói lên nguyên nhân sự
ngộ nhận về phát âm Nôm hay chữ Nôm có sau Hán Việt.
Để chứng minh rằng “chữ Nôm- 字喃”
có trước chữ Hán, “Nôm喃”
lại là phát âm của dân
“Nam”, của người Việt越/粵,
vậy, tôi xin tŕnh bày về “chữ Nôm” đơn
giản nhất đó là chữ Việt. -Trước hết, chữ Nôm hay chữ Hán
đều là chữ “tượng h́nh”, rồi
trở thành chữ “biểu ư” và thành ra “chữ Vuông”. -Khi viết Nguyệt月
là vẽ h́nh/ “tượng
h́nh” về mặt trăng, h́nh bán nguyệt. -Khi viết Nhật日
là vẽ h́nh/ “tượng
h́nh”, h́nh mặt trời. - Khi nhập Nhật日
và Nguyệt月 chung
thành chữ “Minh明”, là “biểu Ư”, chứ không c̣n
là vẽ h́nh nữa. Và biểu hiện ư nghĩa th́ c̣n
dùng cách ghép và mượn chữ có sẵn bằng ư
nghĩa của chữ gốc (gọi là giả tá),
bằng âm thanh của chữ gốc (gọi là hài thanh).
Ví dụ: Thỉnh請 là sinh, thanh清 là
sạch, đều là theo cách “biểu ư”; cũng như
chữ t́nh情 và
chữ thanh青 là xanh cũng là chữ “biểu ư”,
để nói lên ư nghĩa, chứ không thể
“dùng màu xanh để vẽ ra cái h́nh màu xanh”! và
làm sao vẽ ra h́nh chữ “t́nh” ?
Thông thường th́ người ta chỉ đề
cập hai chữ Việt là: Việt粵 và Việt越. “Việt”
có phải là Nôm hay không ? Khi vẽ h́nh mặt trời
là ṿng tṛn >O< phát sáng bởi có
nhiều tia sáng chung quanh, th́ đó là chữ tượng
h́nh. Sau đó chữ tượng h́nh được đơn
giản hóa, bỏ đi các tia sáng, chỉ c̣n ṿng tṛn
O và gạch ngang ở chính giữa ṿng tṛn.
Sau đó, cái ṿng tṛn lại được sửa
lại, thành ra h́nh chữ Nhật日
ngày nay. Phát âm
Hán Việt đọc là “Nhật日”.
Phát âm Bắc kinh-Hoa
ngữ đọc như là “Rướ日”. -Thật ra là được biến âm từ
chữ Nôm “Rực/rỏ日-hay
(Diệt)” và thường dùng Anh văn/ English
để phiên âm là “ri日”.
Phát âm Mân Việt-Triều
Châu th́ đọc là “Diềt日”.
“Diềt日”
hay là “Rực日”
là Nôm ngày xưa của Bách Việt, và chỉ có người
Việt có phát âm
“Diềt日”
nầy. Tôi xin tŕnh bày rơ ở đây và xin phục
nguyên âm đọc cổ xưa và có thể gọi là
Nôm hoặc là Nôm cổ đại đọc là
Diềt/(Việt)日. (Việt)/Diềt日
là mặt trời,
và cũng là “Việt” mà có nhiều cách viết khác
là “Việ粵” và
“Việt越”
v v…(Điều này giải
thích v́ sao có quá nhiều trống đồng có h́nh
mặt trời ở chính giữa: đó là linh vật
của người
Việt cổ đại). Diềt=Việt=日=
là mặt trời, là nóng + sáng, là Quang + Minh của
cổ Việt
tộc, tức là tiền Việt mà người đời
nay hay gọi là người gốc “Australoid”. Phát âm
“Việt/diềt日”
tương đương âm “Vic” của “victory” bên
tiếng Anh/ English, và có quá nhiều biến âm đều có gốc âm là
“Việt”. Sau nầy “Việt/ diềt日”
c̣n có rất nhiều chữ “Việt”
khác tùy theo các phân chi và các vùng của tộc Bách
Việt. Tiếng Việt ngày nay đọc
là “Nhật日”,
rất gần với âm “Diềt日”
của người Mân Việt-Triều Châu hiện nay.
Tiếng Mân Việt-Triều Châu là một phương ngữ
rất xưa, được nh́n nhận bởi
nhiều chứng
minh là có cỡ ít nhất là 7000 năm lịch sử,
xưa hơn âm Hán Việt thời nhà Hán hay nhà
Đường và thời nhà Tống rất nhiều!
Chữ Nôm với âm Nôm có trước là “Diềt日”, chứ
không phải là âm “Nhật日”
của Hán Việt có trước.
Khi vẽ h́nh mặt trăng, để phân biệt
với h́nh mặt trời, th́ người ta chỉ
vẽ h́nh trăng
lưỡi liềm, rồi cũng dần dần “vuông”
hóa thành ra chữ “Nguyệt月”. Nguyệt ngày xưa
cũng đọc là “Việt/ Duyệt月”.
Tiếng Quảng Đông ngày nay vẫn đọc
“Nguyệt月” là
“Duyệt月”
y như phát âm của chữ “Việt粵”
và “Việt越”.
Tiếng Việt ngày nay đọc là
“Nguyệt月”
rất gần với âm “Việt/ duyệt月”. -Tiếng “Nam Việt-Việt
Quảng Đông” cũng là phương ngữ xưa,
xưa hơn âm Hán hay Đường
và thời nhà Tống rất nhiều… Chữ Nôm
với âm Nôm là “Duyệt月” có
trước, chứ không
phải là âm “Nguyệt月”
của Hán Việt có trước. Người
Triều Châu đọc Nhật日
là “Diệt/
diềt” và người Quảng Đông đọc
Nguyệt月 là
“Duyệt”, tiếng Việt ngày nay th́ là “Nhật-Nguyệt”.
Điều nầy cho thấy thời “tiếng Việt
nguyên thủy” th́ dù là mặt trời hay là mặt trăng,
miễn là “ngôi sao – chiếu sáng” đều
có chung ư nghĩa là soi sáng, là “Diệt/Việt”, là
“Viêm-nhiệt”,
là sức nóng và tỏa sáng, là ánh sáng quang minh… Và ngay cả ánh sáng của
quang minh được soi chiếu bởi
một âm là mặt trăng và một dương là
mặt trời đều có tên chung cùng phát âm
giống nhau là
“Việt/ Diềt”.
Xin liệt kê các chữ “việt” theo tôi đă nghiên
cứu như sau và trước hết là xin nói về
3 chữ Việt
“rất là quen thuộc và quan trọng” : *Việt
越:
Chữ Nôm đọc là “Duyệt” ở Quảng
Đông. Bắc Kinh đọc là “Yúe越”.
Hán-Việt
Đọc là Việt. Triều Châu đọc
“Việt越”
là “Oắt” (chú ư: từ âm “yué” qua “úe”
rồi “Oắt”
chẳng bao xa; và thật ra chữ nầy mượn
bộ tẩu là “chạy” cộng với âm cái “Ŕu”
để thể
hiện phát âm “chiếu”,“chiếu” –> iếu->Oắt). *Việt
粵:
Chữ Nôm đọc là “Duyệt粵”
ở Quảng Đông. Ngày nay Hán Việt và Việt
đọc là
“Việt粵”, âm Bắc kinh đọc là “Yué粵” (ghi chú: bên Triều Châu dùng chữ
“Việt越”
thay chữ
“Việt粵”
nầy). Cách viết chữ “Việt粵”
nầy rất giống chữ “dịch易”.
chữ “Việt
粵”
nầy là “Hướng向”
về mặt trời Chiếu sáng- với chữ “thể采”: là “Bẻ” để “biểu hiện ư”
của âm “E” là “Yue” là “Việt”_ bản thân
của chữ “thể采”
trong cổ văn th́ đó là chữ Nôm nghĩa là “Cháy采”, chứ “Cháy” là “Mộc木” đang phát cháy bằng mấy nét phía trên là ngọn lữa, Tôi là người Mân Việt nên
hiểu rỏ chữ “Cháy采”nầy,
(“Cháy采”
c̣n 1 phát âm khác là “Bẻ采” để nói nghĩa khác, và “bẻ” hay
“Bén” cũng lại quay về ấm Bén, *Việt
易:
chữ Nôm đọc là “Diệt/ diềt易”
ở Quảng Đông. Hán Việt và Việt đọc
là “Dịch 易”,
Bắc kinh phát âm là “Yi易”,
Triều Châu Phát âm là “éck易”.
Quảng Đông phát âm là
“diềt易”
tương đương với “Diệt易”
là “Việt易”.
Chỉ có âm Quảng Đông là c̣n đọc chữ
nầy gần với âm “Việt易”
nhất (tiếng Quảng Đông đọc chữ
“Việt易”
nầy là: “Diềt易
diệk” hoàn toàn
như người Triều Châu đọc chữ
“Việt日” (nhật日)
nầy là: “Diềt日Diệk”).
“Việt易
” đây là
chữ dịch易chính
là chữ tượng h́nh vẽ mặt trời h́nh tṛn
- >O<- với các tia sang chung quanh
được mỹ thuật hóa và vuông hóa thành
chữ “nhật日”
được đặt ở phía trên, và các tia sáng
chung quanh được gôm lại biến thành chữ
“Vật勿”
để ở phía dưới thành ra “Việt易”.
Chữ Việt nầy với chữ Việt cổ xưa
nhất là vẽ h́nh mặt
trời ->O<- có tia sang phát ra tứ phía là chung một chữ mà thôi.
Thật ra Kinh Dịch 易
là đọc
trại âm từ chữ Kinh Việt易:
Kinh của người Việt th́ mới gọi là Kinh
Việt(日/Mặt
trời+勿/
tia sáng)= “Việt/ 易”.
=>Việt=Trời/Trăng soi sáng=H́nh mặt trời các
tia phát sáng, h́nh
trống đồng, và viết bằng>O<, 日, 易, 粵;
2 chữ Việt nầy: 易, 粵…Đều là “mặt trời cháy sáng” nhưng
lại cố xếp
h́nh cho giống như chữ Điểu-鳥 là con chim! Bỡi v́ trong tộc Bách
Việt có 1 bô tộc
là Lạc bộ chim mà “Từ hán Việt” đă
gọi là “Lạc bộ Chuy” ( Chuy隹 là Chim隹). V́ là
Lạc bộ Chim鳥/Điểu
cho nên đă thể hiện chữ Việt 易, 粵 cho giống như h́nh chữ “Điểu鳥 ” là chim_Và h́nh của Trống đồng
thuộc Lạc Bộ Chuy/chim th́ có rất nhiều h́nh鳥/ Điểu
Chim_Và cũng v́ “quang Niệm” là con của
“Huyền Điểu” cho nên là “chim” th́ “đẽ”
ra “trứng” cho nên “Rất là dễ hiểu khi có
sự tích đẽ ra 100 trứng cùng chung 1 bào, cho nên
gọi là đồng bào”
-V́ đă có “Con cháu của Huyền Điểu
là Lạc bộ Chim/
Chuy” . “Lạc 洛-Chim隹/ “Điểu鳥”, Phục nguyên âm Nôm của “Lạc” là “Nước”,
“Lạc洛”
là nước, lạc ngày xưa đọc là “Thác洛”
hay là “Nak洛”
như người Mường
hiện giờ, và “nak/洛Nước/
Lạc” được ghép bằng bên trái là bộ
thuỷ-Nước氵 và bên
phải là bộ các各
thành ra Nak洛lạc.
Phục nguyên chữ Nôm của âm chữ “Lạc洛- Chim隹” chính là “Nước洛Nak-Chim隹” :
tức là nước
Việt-Chim của người Việt ở vùng đất
Chiêm thành ngày xưa, đó là phần đất ở
Miền Trung của Việt Nam ngày nay vậy
-chính là từ nơi đây mà khoa học ngày
nay đă phát
hiện văn Hóa Hoà B́nh là cái nôi của văn hóa Lúa
Nước và Đông Nam Á, và từ đây
mà “Việt” đă phát triễn và đi xa Đông, Tây,
Nam, Bắc. Xin
tuần
tự
xét
các
chữ
“Việt”
viết
khác
nhau mà
có
ư
nghĩa
và
phát
âm
giống
như
nhau: 1* Việt
= Việt日;
là h́nh “mặt trời”, h́nh “trống đồng”,
chữ “Nhật日” là
h́nh mặt trời được
đơn giản hóa. Ghi thêm: nước Nhật ngày nay thật ra là
một nước “Việt日”
thuộc đại chủng Bách Việt,
phát âm Japan 日本 tương đương “Jan” hay “yan”
giống như là nước “Yến” của thời
Đông Chu Liệt Quốc. Thật ra cổ âm đều
là: “Việt”, là mặt trời hay là mặt trăng,
là soi sáng. 2* Việt
= “Việt易”.
H́nh chữ Dịch “易”
là mặt trời (“Nhật日Việt”)
chiếu sáng được đơn
giăn hóa và xếp theo nghệ thuật, các “tia sáng “勿”
được gom lại để ở phía dưới
theo chữ “Vuông” vừa đúng vừa đẹp.
Kinh “Dịch易”
là kinh “Việt易”,
nước “Dương楊”-Việt là
thêm chữ “mộc木” vào
chữ nầy. 3* Việt
= “Việt炎”
được viết bằng 2 chữ hoả chung 炎;
h́nh “Hoả火”
chữ Viêm “炎”
đại
diện cho lửa mặt trời. Bây giờ bị
đọc là “Viêm炎” xưa
là “Việt炎”.
Ngày xưa để lại tên
“Viêm炎
Đế” mà
thật ra th́ phải gọi là “Việt炎
ĐẾ”, mà người
ta không biết nên gọi
là “Viêm Đế”. Hai chữ 燕yan và 炎yan trong tiếng Bắc Kinh phát âm giống
nhau và đều
là nói về “Trung tâm hỏa-Mặt trời”. 4* Việt
= “Việt燕”,
chữ “yến”燕
là Hỏa ở
trung tâm, các tia sáng tỏa từ 8 phương với chữ
có h́nh mặt trời được đại
diện bằng “Khẩu口”
ở chính giữa, và 4 chấm phía dưới là 4 nét của chữ Hỏa火. Tự điển online MDBG-Chinese English Dictionary ngày nay c̣n biết
nguồn gốc và giải thích chiết tự của
chữ “Việt燕”
nầy là “Trung tâm hỏa: 中心火”
chứ không
phải là chim Én, “Yến燕”
như cách hiểu b́nh thường của nhiều người.
Việt nầy
biến âm thành Yan, yen, Yến. Ghi thêm: nước Yến燕 thời Đông Chu liệt quốc là nước
Việt燕,
phải đọc phát âm chữ nước
“Yến燕”
nầy là nước Việt燕
th́ mới đúng.
“Yến燕”
hay “Yan燕”
là do biến âm đọc
trệch. Nước
Yến燕
là Việt燕,
nói tiếng Việt, cho nên quan trong triều dưới
cấp “Tướng” là “tá”… Ví dụ như: “Thượng
đại大
phu夫” là Thượng “tá”, “Trung Đại
Phu” là Trung “Tá”.
Chữ “Đại大
Phu夫” ngày xưa vùng nầy đọc là “Tài
Phá”, Tài-Phá là chữ đa âm của
“Tá”! Chuyện
Thái Tử “Đan丹”
của nước “Yến燕”
nhờ “Kinh荆
Kha轲” thích sát Tần Thủy Hoàng
rất nổi tiếng. Thái Tử tên “Đen丹”
th́ đúng hơn, “Kinh-Kha/荆轲” tên là “Cả” đúng
hơn…(Yến có nhiều dân Siberia nhập cư và làm
vua: vẫn giữ tên Yến燕) 5* Việt
= Việt楊.
Việt viết bằng chữ “Dương楊”,
cũng là chữ Dịch易Việt
, chỉ thêm vào bên
trái bộ Mộc木.
Nước “Dương楊-Việt越” là
nước “Việt 楊”,
thêm vào thành ra là
“Dương楊”
“Việt越”
để phân biệt với những nước
Việt khác mà thôi. “Dương楊 Việt”
vùng nầy phát âm như “yuôn”, “duyồn” gần
với âm của tiếng khmer. Sau nầy c̣n gọi
là “Yuồn” Việt. V́ chữ Hán Việt đă quên
chữ “Việt楊”
nầy mà đọc là “Dương” v́ bắt chước
âm “yuôn” nên phải thêm vào “Việt” thành ra “Yuôn
Việt tức là Dương Việt”.
Âm “Yuôn楊”
Việt nầy là Nôm có trước, lâu quá đến
đỗi người ta đă quên và chỉ nhớ
là “Dương楊”. 6* Việt
= Việt陽,
thể hiện bằng chữ “Dương陽”,
chữ nầy ngày nay vẫn dùng để chỉ
mặt trời như
chữ “Nhật日”.
Có vua tên là “An安
Dương陽 Vương王” không? Vô lư! Thật ra là “An Việt陽 Vương”, chỉ là do người đời
sau bị ngộ nhận do quên mà đọc sai theo âm mới là “Dương陽”, âm cũ là “Việt陽”. Chữ Nôm có trước quá lâu và người
ta đă quên. 7* Việt
= Việt有,
viết bằng chữ “Hữu有”,
“Việt有”
nầy là ghép từ chữ Đại大
và Nguyệt月(Duyệt/Việt).
Hữu有
Hùng thị
thật ra là Việt有Hùng
thị. “Hữu有
sào thị”
thật ra là
“Việt有
sàn thị” (Người
Việt ở trên nhà sàn). Âm Bắc Kinh ngày nay đọc
là “dù有”
tương đương với “yuồn有”/
“Duyồn有”
tức là “Việt有yuồn”
mà người Khmer hiện nay
vẫn dùng là “Yuồn”/ Việt. 8* Việt
= Việt夜,
thể hiện bằng chữ “Dạ夜”
cũng là “Nguyệt月Việt”
trong cách ghép chữ
“người人”
“Việt月/Diệt/duyệt”
dưới ánh sáng “trăng月”.
Chữ Nôm là “yẹ夜Duyệt/
Việt”, âm
Quảng Đông “Yè夜”
vẫn dùng cho đến ngày là có trước,
biến âm thành “da” /Ya
/ Dạ). Nước Dạ夜
Lang朗 thật ra là nước Việt夜 Làng朗.
Tức là “Làng Việt” hay là “Việt soi sáng”,
Dạ-Lang c̣n
sinh ra âm “dang” “dàng” và “dăng 楊-tiếng
Bắc Kinh”. Xin chú ư: chữ
Làng朗
nầy có nhật日
và nguyệt月
hai bên như
chữ Minh明,
khác với chữ Lang郎
là anh chàng “情t́nh 郎lang” 9* Việt
= Việt吳, thể hiện bằng chữ “Ngô 吳”, với mặt trời là chữ “Khẩu口” phía trên chữ
“Thiên天”
nghĩa là mặt trời soi sáng trên bầu trời, phát
âm là “uả, úa, Ổ, Ngổ, Ngô”
là do biến âm của Việt/ Yué/ ué; Oắt-Úe
thành “úa”, “uả吳-Tiếng Bắc Kinh” v.v…
Ngày nay chữ Hán Việt đọc là “Ngô吳”,
xưa viết chữ “Việt吳Úa”
nầy là h́nh mặt trời
trên chữ Thiên吴
và đọc là
“Duyồn吳”
như tiếng Khmer, biến âm thành Dô吳, gô 吳, Ngô吳 . Úa, uả của tiếng bắc kinh là có sau,
nước Ngô吳
là “Việt吳(yuồn)” cho nên gọi
là tiếng Ngô吳Việt. Chữ
Nôm “Duyồn吳Việt”
có trước rồi biến âm “Dô” và Ngô… làm người
ta quên đi cái gốc! Ghi thêm :“Cô Tô thành” của nước Ngô
thật ra là “Cố đô thành”, sách Việt chép hoàn
toàn bằng
chữ Nôm là do Ngũ Tử Tư người Sở
chạy qua Ngô吳 làm
tướng biên chép là
chủ yếu tại nước Ngô吳/duồn/dô/gô/ngô.
(Xem bài : Phục nguyên Duy Giáp lệnh của Việt
Vương Câu Tiễn) 10* Việt
= Việt粵, thật ra th́ chữ Việt粵 nầy thể hiện rất giống với
chữ Việt易/dịch.
Đa số người
Việt và “Hoa” đều biết chữ “Việt粵”
nầy. Đối với bên Trung Quốc th́ đây là chữ Nôm của người “Quảng Đông”
(tức là gốc Việt) ở Hoa Nam. 11* Việt
= Việt越,
thể hiện bằng Việt越
nầy là vùng ven
biển Đông, tên Việt Nam, Mân Việt, Ngô Việt , Âu Việt, Đông
Việt, Ư Việt, Vu Việt, Việt Thường,
v v… “Bách Việt”
là dùng chữ “Việt越”nầy.
Chữ Việt nầy giữ phát âm “Việt” nhưng
khác với tất cả những
chữ Việt khác, và mang ư nghĩa là “Vượt+vũ
khí trong tay là cái Ŕu Việt”. Nhưng
chữ Việt nầy vẫn là mang ư nghĩa
“chiếu越”,
chiếu sáng, và hoàn toàn phù hợp với
chữ Nôm có trước. Bộ “tẩu走”
là chữ “chạy走”
ghép với cái “qua戈”
là cái “Riù”, thành
ra âm “Chiếu越”.
Người Việt ngày xưa gọi vua là
“chiếu” hay “chúa”. Chính v́ âm “chiếu” mà người
Triều châu Đọc “iếu越”
và thành “oát越”
ngày nay. Và người Dao
lại đọc thành Ýu越, c̣n lên tới Sơn Đông và Bắc kinh đọc
thành “Dù有/
gần giống như
“yuồn’’(有Hửu)” 12*
Việt
= Việt瑤,thể
hiện bằng chữ “Dao瑤”,
âm chính của người thời nay được
đọc bởi
chính người Dao th́ đọc là “D́u瑤”,
Diêu, Diều, yiu gần với âm “diệt” mà đọc
theo dấu
“huyền” cho nhiều là thành “Diều瑤”.
Chữ Việt瑤/
Dao/ d́u nầy có bộ “nguyệt月”
phía trên, bên góc
phải. Đây cũng là chữ Nôm có trước, ngày
xưa đọc “D́u” hay “Diềt”. Người Dao瑤 hay chính
xác gọi theo người Dao瑤
hiện nay tự
xưng hô ḿnh là người “Yíu瑤
Mien”, ”D́u mien/
diềt mien”, thật ra là giống nhau với
“Việt Mân”, hay là Mân Việt như người Triều Châu và
Phước Kiến. Ngôn ngữ của người
“Dao瑤 Việt”
hiện nay là
sự pha trộn bởi tiếng Triều Châu, Quảng
Đông, Thái, Việt, Lào. (Tôi có nhiều tiếp xúc
với người Dao瑤
từ xưa và
nay, nên nhận rơ điều này.) 13*
Việt:
Việt夏.
Chữ Việt nầy thể hiện bằng chữ
Hạ夏,
thật ra chữ nầy tiếng Triều Châu đọc là “He夏”
như “Hè夏”
bên tiếng Việt, và chữ nầy cũng được
dùng trong “mùa hè夏 ”. Chữ “hè夏” nầy có chữ “Hiệt頁” phía trên, phát âm “Hiệt頁”
ngày xưa cũng tương
đương là chữ “Diềt夏
Việt”. Chữ
“biểu hiện bằng thanh và h́nh” nầy thật
ra cũng là
mặt trăng “nguyệt月”
ở chính giữa, và các tia sáng được sắp
xếp trên và dưới cho đẹp.
2000 năm trước th́ Hứa Thận đă giăi thích
không đúng chữ nầy trong sách Thuyết văn!
Tiếng Quảng Đông và Triều Châu có lịch
sử hơn 7000 năm c̣n vết tích đọc
chữ nầy là
“Hè夏”
nhưng phát âm hơi giống “Hiệt”, rất khó
phiên âm bên Triều Châu, và “Hà夏” bên
Quảng Đông. Nhưng âm cổ xưa nhất bên
Quảng Đông lại đọc như “Hè”, “Hẻ”
và “Ẽ”, ở ngoại ô Quảng Châu là vùng c̣n
mang tên là thành “Phiên Ngung” ngày
nay đọc “Ẽ夏
” hay “hè, he,
hẹ, hạ夏”
lại được dùng để chỉ người
“Lăo佬”
hay “Lào佬” của nước “Hạ夏 Lào佬”,
đều là “Ẽ, E tương đương Ye, Yué”
tức là Việt. “Hè夏 vương” hay “Hạ夏/ Hà vương”
âm đọc như là “Hùng夏-Vương”.
Theo tôi th́ Việt夏/Hè/ Ẻ cũng chính là “Hùng夏
vương”, và
“Ẻ夏Lao佬-ẻ Lào-ẻ Lủ” của người Phiên
Ngung lại là nói về người ở “Ai Lao”
của nước Lào! Thủ đô “Viêng Chăn”
của nước
Lào hiện giờ vẫn được giải thích
nghĩa là “thành phố Trăng”. 14*
Việt:
Việt黃,
thể hiện bằng chữ Hoàng黃,
thật ra là “Vàng黃”
và thật ra là “dàng黃”
và thật ra là “Yuồn黃”
biến âm; “Hoàng黃
đế”
chỉ là “Việt黃vàng/
dàng/ yuồn đế”…cho
nên sử sách c̣n nói rơ: Hoàng黃
đế và Viêm炎
đế đánh
nhau nhưng là anh em cùng một tộc._Chính người Mường-Nhánh Hmong
có rất nhiều người họ “Vang/ Vàng/Vọng”
c̣n nhận họ là người ở Hoàng hà ngày xưa
…phải chạy về phương Nam. 15*
Việt
華.
Thể hiện bằng “Hoa華”
hay là “Huê華”.
Tiếng Triều Châu-Mân Việt c̣n đọc
là “Hoe華”
tương đương với “yue” là do biến
âm từ “Yue/ tức là Việt” mà thành “Hoe華 ” và thành ra “Hoa華”, lại đọc là “Hoả華” theo tiếng Bắc Kinh… âm “Hoả火”
là Nói về “Lữa火”
như chữ “Viêm炎”,
nhưng chữ nầy rất đặc biệt,
nhất là thể hiện bằng
họ “Mi 芈”
hay đọc là “Mỵ 芈”
là họ của vua người Việt, chỉ thêm
bộ “艹thảo”
ở phía trên…
Xin qúi vị đừng tra tự điển về
chữ “Hoa華”
hay là “Hoe華”
do biến âm từ “yue/
tức là Việt” như tôi đă tŕnh bày ở
đây…V́ đâu có ai thấy chuyện nầy qua bao
lớp bụi
mờ của lịch sử mà đưa vào từ
điển ???, ngày nay chử nầy đă được
dùng để chỉ dân tộc
“Hoa華”,
…trong khi , đây lại là Họ Mỵ芈
hay Mi芈 của vua Việt và ngày xưa cở
thời gian …trước khi Nhà Chu tiêu diệt nhà Thương
th́ chắc là phải đọc là “Việt-diềtyue-yúe-hue-hoe華 ” bởi chữ My芈 hay Mỵ芈 và
cũng là âm “dê羊(dương)”
để sinh ra âm
“Yue” hay “Diệt/Việt”. Khi nhà Chu lật đổ
nhà Thương và tự xưng “ta là Hoa華-Hạ夏” th́ đủ biết chữ Hoa華 nầy
chính là Hạ夏 là
Yúe là Việt với nguyên âm “Hiệt頁” hoặc
“Nguyệt月”
làm chủ: chỉ chờ sự khảo cứu kỹ lưỡng
của các nhà nghiên cứu ngôn -Các chữ “Việt” có rất nhiều âm Nôm
cổ xưa biến âm chằng chịt cùng 1 gốc và
gọi là “Bách
Việt”, Ngoài ra, có những chữ Nôm là tên của
quốc gia, mang tên và phát âm Nôm
của người Việt, nhưng khó nhận ra nên
cứ tưởng là từ Hán-Việt,
đó là: -Nước Lỗ魯,
thật ra tên là nước “Rơ魯”
nghĩa là sáng rơ, không thoát khỏi ư nghĩa là: Mặt
trời chiếu sáng, “Rơ魯”
đọc không được “Đ” th́ thành ra
“Lỗ魯”.
Rơ魯 mới nh́n vào tưởng như là “Ngư魚 và Nhật日”, nhưng thật ra chữ nầy được
thể hiện bằng Nhật日, hoả火(Viết
thành cái dấu phía trên 日…
thành 4 chấm), Điền田, Cung弓-nghiă là
Mặt trời/日-cháy/火-chiếu
sáng-trên sông/弓
và ruộng/ 田;
Nước Lổ魯
có Khổng Tử-孔子
nổi tiếng mà
ai cũng biết. -Nước Triệu 趙 âm xưa là “chiếu趙”, có chữ Nguyệt月 nằm bên phải, có nghĩa là chiếu sáng
bởi ánh trăng, có kinh đô là “Tấn晉
Dương陽”(Tấn晉 là Tiến, Dương 陽 là Việt như
đă tŕnh bày). -Nước Tấn晉,
Tấn là Tiến, Tiến nầy lại là theo hướng
mặt trời chiếu mà tiến. Phía dưới chữ
Tấn晉Tiến
nầy là “Nhật-日-Việt”,
phía trên là chữ “Tùng從”
viết tắt. “Tấn” nầy nghĩa
là “theo nhật日-theo mặt trời日”. “Tấn” có âm xưa là “tiến” hay
“chín” nên ngày nay tiếng Bắc Kinh là “Jín晉” -Nước Hàn韓, Hàn韓
(hay “Hùng韓”)
hay “Ḥn韓,
đọc theo tiếng Việt vùng Quảng Đông”,
có kinh đô tên là “Dương Tŕ-陽翟” …thật ra là “ Việt Tŕ”, “Dương陽”
là “Việt” như đă giải thích, c̣n “Tŕ翟”
chính là chim “Trĩ翟”,
Trĩ viết bằng “Vũ羽”
là lông vũ ở phía trên, và “chim隹chuy” ở phía dưới. “韓Ḥn” phát âm như “Hùng”, nhưng
“Ḥn” sau nầy c̣n biến âm là “Hon”, và “Hon漢”
tiếng Quảng Đông, lại thành “Hán漢” bên tiếng Bắc Kinh, và cũng thành
ra “Hán漢”
bên từ Hán Việt, âm “Há漢”
là có sau. -Nước Tề齊, Tề
thật ra là nước “Chói齊”,
chữ nầy gồm mặt trời là chữ Khẩu
viết theo
“nghệ thuật” và các tia sáng chói được
nghệ thuật hóa ở phía trên. Tiếng Triều Châu
ngày nay vẫn đọc “齊齊-Tề Tề” là “choi chói- 齊齊”.
“Tề齊”
nầy nghĩa là “Sáng đều đặn,
đẹp”- “chói sáng-đầy đủ ánh sáng”. -Nước Đường唐,
chữ “Đường唐”
nầy có “khẩu口” là
mặt trời viết ở phía dưới, và
ruộng 田điền
ở phía trên trong mái nhà cao, (nước “Tề齊” là
nước Đường 唐 Cũ
ở tỉnh Sơn
Tây đổi tên); cần phân biệt nước
Đường唐 ở
các thời đại và địa phương khác
nhau. “Đường唐”
phát âm Bắc Kinh là “Thản唐”
và Quảng Đông là “Tḥn” đều là biến âm
của “Thượng”
và “Thường”. Người Triều Châu lại
đọc “thường” thành ra “Từng唐”.
Nhóm “Việt Đường” hay “Việt Thường”
ngày xa xưa hay là người ở Hoa Nam thường
tự xưng hô ḿnh
là người “Tḥn唐”chính
là “người Thường” hay “người Thượng”
Bài
Viết nầy dù đă cố gắng ngắn gọn mà
vẫn hơi dài, v́ để cần giăi thích cho
rỏ mỗi một
chữ là có thể thành ra 1 bài viết riêng th́
mới rỏ hơn…, Tôi đă tóm tắt, V́ đây
là bài viết
chứng minh phát âm “Nôm” có trước, chứ không
phải là “đi vào chi tiết của từng chử”.
Đỗ
Thành/
Nhạn
Nam Phi Tham
khảo
: - Nguyễn Đức Hùng http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsuchuhan.htm - Một quan niệm xưa nay thường
thấy về nguồn gốc chữ Nôm http://www.youtube.com/watch?v=1DO7uDutp1c&feature=related -
Một trang chữ Nôm http://www.lannhithiquan.com/st_kcuu.htm -
Giới thiệu “Lược khảo chữ Nôm
của Cụ Trần Văn Giáp” (Nguyễn Ngọc Bích)
http://e-cadao.com/Chunom/gioithieulkvdcntranvangiap.htm - Bách khoa toàn thư mở wikipedia Chữ Nôm - Chử Nôm và nguồn gốc tiếng Việt:
http://ttvnol.com/forum/tiengviet/ - Đi t́m nguồn gốc chữ quốc ngữ
http://www.dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=444060 - 字喃-Chữ Nôm:http
//zh.wikipedia.org/ - 喃字 http://baike.baidu.com/view/71827.htm - 越南语-Việt
nam Ngữ http://baike.baidu.com/view/68830.htm -
Chữ
Nho 儒字 http://zh.wikipedia.org/ - 甲骨文
giáp cốt văn
http://zh.wikipedia.org/ -
金文Kim văn http://zh.wikipedia.org/ -
Việt Nhân Ca-越人歌 khoa hoc@doi song/Phat hien lai Viet
Nhan Ca - “Duy Giáp Lệnh”Nhạn Nam Phi » Blog Archive »
DUY GIÁP LỆNH Nguồn http://www.vietnamvanhien.net/chunom.html
|
Trống Đồng CỔ LOA Trống Đồng VIỆT NAM |
|
Cám ơn quí vị đă theo dơi chương tŕnh của Diễn Đàn Giáo Dân Xin Thiên Chúa chúc phúc lành đến quí vị.
|